Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chu Quý phi (Minh Anh Tông)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: clean up using AWB
n stub sorting, replaced: nhà Minh → Nhà Minh (5) using AWB
Dòng 3: Dòng 3:
| tên gốc = 孝肅皇太后
| tên gốc = 孝肅皇太后
|hình=孝肃皇后.jpg
|hình=孝肃皇后.jpg
|chức vị 1=[[Hoàng thái hậu]] [[nhà Minh|Đại Minh]]
|chức vị 1=[[Hoàng thái hậu]] [[Nhà Minh|Đại Minh]]
|tại vị 1= [[1464]] - [[1487]]
|tại vị 1= [[1464]] - [[1487]]
|tiền nhiệm 1 = <font color = "grey">[[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu|Từ Ý Thái hậu]]</font>
|tiền nhiệm 1 = <font color = "grey">[[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu|Từ Ý Thái hậu]]</font>
|kế nhiệm 1 = [[Hiếu Trinh Thuần hoàng hậu|Từ Khánh Thái hậu]]
|kế nhiệm 1 = [[Hiếu Trinh Thuần hoàng hậu|Từ Khánh Thái hậu]]
|chức vị 2=[[Thái hoàng thái hậu]] [[nhà Minh|Đại Minh]]
|chức vị 2=[[Thái hoàng thái hậu]] [[Nhà Minh|Đại Minh]]
|tại vị 2= [[1487]] - [[1504]]
|tại vị 2= [[1487]] - [[1504]]
|tiền nhiệm 2 = <font color = "grey">[[Thành Hiếu Chiêu hoàng hậu|Thành Hiếu Thái hoàng thái hậu]]</font>
|tiền nhiệm 2 = <font color = "grey">[[Thành Hiếu Chiêu hoàng hậu|Thành Hiếu Thái hoàng thái hậu]]</font>
Dòng 26: Dòng 26:


== Tiểu sử ==
== Tiểu sử ==
Hiếu Túc hoàng thái hậu mang [[họ Chu]] (周氏), sinh ngày [[14 tháng 10]] (âm lịch) năm Tuyên Đức thứ 5, xuất thân từ [[Xương Bình]]. Bà là con gái Cẩm y vệ tặng Ninh quốc công [[Chu Năng]] (周能), có em trai là Khánh Vân hầu [[Chu Thọ]] (周寿), Trường Ninh bá [[Chu Úc]] (周彧). Bấy giờ bà xuất thân hàn vi, vào cung làm [[cung nữ]], do có dung mạo xinh đẹp mà bà được Anh Tông sủng hạnh.
Hiếu Túc hoàng thái hậu mang [[họ Chu]] (周氏), sinh ngày [[14 tháng 10]] (âm lịch) năm Tuyên Đức thứ 5, xuất thân từ [[Xương Bình]]. Bà là con gái Cẩm y vệ tặng Ninh quốc công [[Chu Năng]] (周能), có em trai là Khánh Vân hầu [[Chu Thọ]] (周寿), Trường Ninh bá [[Chu Úc]] (周彧). Bấy giờ bà xuất thân hàn vi, vào cung làm [[cung nữ]], do có dung mạo xinh đẹp mà bà được Anh Tông sủng hạnh.


Năm Chính Thống thứ 11 ([[1446]]), bà sinh hạ [[Trọng Khánh công chúa]] (重慶公主), và đến năm thứ 12 ([[1447]]) thì sinh ra Hoàng trưởng tử [[Minh Hiến Tông|Chu Kiến Thâm]], là con trai trưởng của Anh Tông. Không lâu sau khi sinh, Chu Kiếm Thâm trở thành [[Hoàng thái tử]].
Năm Chính Thống thứ 11 ([[1446]]), bà sinh hạ [[Trọng Khánh công chúa]] (重慶公主), và đến năm thứ 12 ([[1447]]) thì sinh ra Hoàng trưởng tử [[Minh Hiến Tông|Chu Kiến Thâm]], là con trai trưởng của Anh Tông. Không lâu sau khi sinh, Chu Kiếm Thâm trở thành [[Hoàng thái tử]].
Dòng 35: Dòng 35:


== Thái hoàng triều Minh ==
== Thái hoàng triều Minh ==
Năm Thiên Thuận thứ 8 ([[1464]]), Minh Anh Tông băng hà, Thái tử Chu Kiến Thâm kế vị, tức [[Minh Hiến Tông]].
Năm Thiên Thuận thứ 8 ([[1464]]), Minh Anh Tông băng hà, Thái tử Chu Kiến Thâm kế vị, tức [[Minh Hiến Tông]].


Hoàng đế tôn Tiền hoàng hậu và Chu Quý phi làm [[Hoàng thái hậu]]. Bấy giờ xảy ra tranh cãi, một số cận thần hoạn quan khuyên Hiến Tông chỉ độc tôn Chu Quý phi làm Hoàng thái hậu; nhưng các Đại học sĩ [[Lý Hiền]] (李贤), [[Bành Lực]] (彭时) phản đối, vì Tiền hoàng hậu là Hoàng hậu đích mẫu, không thể chỉ tôn Chu Quý phi một mình, nên kiến nghị cùng tôn ''"Lưỡng cung Thái hậu"''. Để tỏ rõ đích thứ khác biệt, triều thần dâng tôn hiệu cho Tiền Thái hậu là '''Từ Ý Hoàng thái hậu''', còn Chu Thái hậu không có tôn hiệu. Tuy vậy, Hiến Tông cực kì hiếu thuận mẹ đẻ, còn đối Tiền Thái hậu chỉ trên có lệ. Theo sử ghi lại, cứ hằng ngày đến thỉnh an, không việc gì mà Thái hậu yêu sách mà Hiến Tông dám không từ.
Hoàng đế tôn Tiền hoàng hậu và Chu Quý phi làm [[Hoàng thái hậu]]. Bấy giờ xảy ra tranh cãi, một số cận thần hoạn quan khuyên Hiến Tông chỉ độc tôn Chu Quý phi làm Hoàng thái hậu; nhưng các Đại học sĩ [[Lý Hiền]] (李贤), [[Bành Lực]] (彭时) phản đối, vì Tiền hoàng hậu là Hoàng hậu đích mẫu, không thể chỉ tôn Chu Quý phi một mình, nên kiến nghị cùng tôn ''"Lưỡng cung Thái hậu"''. Để tỏ rõ đích thứ khác biệt, triều thần dâng tôn hiệu cho Tiền Thái hậu là '''Từ Ý Hoàng thái hậu''', còn Chu Thái hậu không có tôn hiệu. Tuy vậy, Hiến Tông cực kì hiếu thuận mẹ đẻ, còn đối Tiền Thái hậu chỉ trên có lệ. Theo sử ghi lại, cứ hằng ngày đến thỉnh an, không việc gì mà Thái hậu yêu sách mà Hiến Tông dám không từ.
Dòng 45: Dòng 45:
Năm Hoằng Trị thứ 17 ([[1504]]), vào ngày [[1 tháng 3]] (âm lịch), Chu Thái hoàng thái hậu qua đời.
Năm Hoằng Trị thứ 17 ([[1504]]), vào ngày [[1 tháng 3]] (âm lịch), Chu Thái hoàng thái hậu qua đời.


Bấy giờ bà là thân phận phi tần, dù sinh ra Hoàng đế nhưng thụy hiệu của bà cũng không có đế thụy '''Duệ''' (睿) của chồng, không như chánh thất [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu]] Tiền thị. Ban đầu, [[Minh Hiếu Tông]] không theo quy chế, sau do các [[Đại học sĩ]] tấu nghị bà bỏ chữ ''"Duệ"'' đi, như vậy [[thụy hiệu]] của bà viết đầy đủ là '''Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh Thái hoàng thái hậu''' (孝肅貞順康懿光烈輔天承聖太皇太后).
Bấy giờ bà là thân phận phi tần, dù sinh ra Hoàng đế nhưng thụy hiệu của bà cũng không có đế thụy '''Duệ''' (睿) của chồng, không như chánh thất [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu]] Tiền thị. Ban đầu, [[Minh Hiếu Tông]] không theo quy chế, sau do các [[Đại học sĩ]] tấu nghị bà bỏ chữ ''"Duệ"'' đi, như vậy [[thụy hiệu]] của bà viết đầy đủ là '''Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh Thái hoàng thái hậu''' (孝肅貞順康懿光烈輔天承聖太皇太后).


Tuy được hợp táng ở [[Dụ Lăng]], nhưng bà không được phối thờ ở [[Thái miếu]] mà ở một điện riêng biệt ở [[Phụng Tiên điện]], để phân biệt ngôi thứ vậy, từ đó triều Minh theo lệ này, các Hoàng hậu vốn không phải đích thì thờ ở đấy.
Tuy được hợp táng ở [[Dụ Lăng]], nhưng bà không được phối thờ ở [[Thái miếu]] mà ở một điện riêng biệt ở [[Phụng Tiên điện]], để phân biệt ngôi thứ vậy, từ đó triều Minh theo lệ này, các Hoàng hậu vốn không phải đích thì thờ ở đấy.

Phiên bản lúc 20:58, ngày 8 tháng 7 năm 2018

Hiếu Túc hoàng thái hậu
孝肅皇太后
Hoàng thái hậu Đại Minh
Tại vị1464 - 1487
Tiền nhiệmTừ Ý Thái hậu
Kế nhiệmTừ Khánh Thái hậu
Thái hoàng thái hậu Đại Minh
Tại vị1487 - 1504
Tiền nhiệmThành Hiếu Thái hoàng thái hậu
Kế nhiệmTừ Khánh Thái hoàng thái hậu
Thông tin chung
Sinh(1430-10-30)30 tháng 10, 1430
Xương Bình, Bắc Kinh
Mất16 tháng 3, 1504(1504-03-16) (73 tuổi)
Tử Cấm Thành, Bắc Kinh
An tángDụ Lăng (裕陵)
Phối ngẫuMinh Anh Tông
Thụy hiệu
Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh hoàng hậu
(孝肅貞順康懿光烈輔天承聖皇后)
Hoàng tộcNhà Minh

Hiếu Túc hoàng thái hậu (chữ Hán: 孝肅皇太后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.

Bà là người ngoa độc hẹp hòi, được biết đến vì bịt đường hầm mộ của Hoàng hậu của Anh Tông là Tiền hoàng hậu, không cho Tiền hậu hợp táng cùng Anh Tông chung với bà.

Tiểu sử

Hiếu Túc hoàng thái hậu mang họ Chu (周氏), sinh ngày 14 tháng 10 (âm lịch) năm Tuyên Đức thứ 5, xuất thân từ Xương Bình. Bà là con gái Cẩm y vệ tặng Ninh quốc công Chu Năng (周能), có em trai là Khánh Vân hầu Chu Thọ (周寿), Trường Ninh bá Chu Úc (周彧). Bấy giờ bà xuất thân hàn vi, vào cung làm cung nữ, do có dung mạo xinh đẹp mà bà được Anh Tông sủng hạnh.

Năm Chính Thống thứ 11 (1446), bà sinh hạ Trọng Khánh công chúa (重慶公主), và đến năm thứ 12 (1447) thì sinh ra Hoàng trưởng tử Chu Kiến Thâm, là con trai trưởng của Anh Tông. Không lâu sau khi sinh, Chu Kiếm Thâm trở thành Hoàng thái tử.

Năm Chính Thống thứ 14 (1449), xảy ra Sự biến Thổ Mộc bảo, Minh Anh Tông bị bắt. Giữa lúc đó, Tôn Thái hậu lập Thành vương Chu Kỳ Ngọc lên ngôi, tức Cảnh Thái Đế. Dưới sức ép của Thái hậu, Cảnh Thái Đế vẫn để con trai bà làm Hoàng thái tử, nhưng đến khi Anh Tông trở về và ở Nam Cung, Chu Kiến Thâm bị phế. Năm Cảnh Thái thứ 6 (1455), bà sinh ra con trai thứ sáu của Anh Tông là Chu Kiến Trạch (朱见泽).

Năm Đinh Sửu (1457), Anh Tông phục vị, tấn phong Chu thị làm Quý phi, địa vị chỉ sau Tiền hoàng hậu. Khi ở địa vị Quý phi, lại sinh ra Thái tử, Chu thị có vẻ xem thường Tiền hoàng hậu tàn phế. Có khi trước mặt Thái tử, đối với Hoàng hậu vô lễ khiến Anh Tông phải quát mắng, nhưng Tiền hoàng hậu lại khuyên nên lấy Thái tử làm trọng[1].

Thái hoàng triều Minh

Năm Thiên Thuận thứ 8 (1464), Minh Anh Tông băng hà, Thái tử Chu Kiến Thâm kế vị, tức Minh Hiến Tông.

Hoàng đế tôn Tiền hoàng hậu và Chu Quý phi làm Hoàng thái hậu. Bấy giờ xảy ra tranh cãi, một số cận thần hoạn quan khuyên Hiến Tông chỉ độc tôn Chu Quý phi làm Hoàng thái hậu; nhưng các Đại học sĩ Lý Hiền (李贤), Bành Lực (彭时) phản đối, vì Tiền hoàng hậu là Hoàng hậu đích mẫu, không thể chỉ tôn Chu Quý phi một mình, nên kiến nghị cùng tôn "Lưỡng cung Thái hậu". Để tỏ rõ đích thứ khác biệt, triều thần dâng tôn hiệu cho Tiền Thái hậu là Từ Ý Hoàng thái hậu, còn Chu Thái hậu không có tôn hiệu. Tuy vậy, Hiến Tông cực kì hiếu thuận mẹ đẻ, còn đối Tiền Thái hậu chỉ trên có lệ. Theo sử ghi lại, cứ hằng ngày đến thỉnh an, không việc gì mà Thái hậu yêu sách mà Hiến Tông dám không từ.

Năm Thành Hóa thứ 23 (1487), tháng 4, sau khi Tiền Thái hậu qua đời, Minh Hiến Tông tôn hiệu cho Chu Thái hậu thành Thánh Từ Nhân Thọ hoàng thái hậu (聖慈仁壽皇太后). Cùng năm đó, Hiến Tông băng hà, cháu trai bà là Minh Hiếu Tông Chu Hữu Đường kế vị, tôn Chu Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, cực kỳ hiếu thuận.

Hiếu Tông đối Chu Thái hậu hiếu thuận, thậm chí còn phá cách triệu Sùng vương Chu Kiến Trạch ra vào thăm Thái hậu. Năm Hoằng Trị thứ 11 (1498), Thanh Ninh cung (清寧宮) bị sửa, dời sang Nhân Thọ cung (仁壽宮). Sau khi Thanh Ninh cung sửa xong, lại dời về.

Năm Hoằng Trị thứ 17 (1504), vào ngày 1 tháng 3 (âm lịch), Chu Thái hoàng thái hậu qua đời.

Bấy giờ bà là thân phận phi tần, dù sinh ra Hoàng đế nhưng thụy hiệu của bà cũng không có đế thụy Duệ (睿) của chồng, không như chánh thất Hiếu Trang Duệ hoàng hậu Tiền thị. Ban đầu, Minh Hiếu Tông không theo quy chế, sau do các Đại học sĩ tấu nghị bà bỏ chữ "Duệ" đi, như vậy thụy hiệu của bà viết đầy đủ là Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh Thái hoàng thái hậu (孝肅貞順康懿光烈輔天承聖太皇太后).

Tuy được hợp táng ở Dụ Lăng, nhưng bà không được phối thờ ở Thái miếu mà ở một điện riêng biệt ở Phụng Tiên điện, để phân biệt ngôi thứ vậy, từ đó triều Minh theo lệ này, các Hoàng hậu vốn không phải đích thì thờ ở đấy.

Hậu duệ

  1. Trọng Khang công chúa (重慶公主; 1446 - 1499), hạ giá lấy người ở An DươngChu Cảnh (周景), một thư sinh thích đọc sách được Anh Tông yêu quý. Thời Hiến Tông, đảm nhận Phủ sự phủ Tôn Nhân, hai vợ chồng đều sống rất vui vẻ. Có con trai tên Chu Hiền (周賢).
  2. Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.
  3. Chu Kiến Trạch (朱见泽; 2 tháng 5, 1455 - 27 tháng 8, 1505), tước Sùng vương (崇王), thụy hiệu Giản (簡).

Tham khảo

  1. ^ 一日在太子前對皇后甚為無禮,英宗生氣呵斥她,錢皇后請曰:“請為太子留地”(見『罪惟錄』)