Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tê giác Sumatra”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
bỏ thông tin lỗi thời
cập nhật
Dòng 3: Dòng 3:
| trend = unknown
| trend = unknown
| status_system = iucn3.1
| status_system = iucn3.1
| status_ref = <ref name=IUCN/>
| status_ref = <ref name=IUCN>{{IUCN2008|assessors=[[Nico van Strien|Van Strien, N.J.]], Manullang, B., Sectionov, Isnan, W., Khan, M.K.M, Sumardja, E., Ellis, S., Han, K.H., Boeadi, Payne, J. & Bradley Martin, E.|year=2008|id=6553|title=Dicerorhinus sumatrensis|downloaded=28 tháng 12 năm 2008}}</ref>
| status2 = CITES_A1
| status2 = CITES_A1
| status2_system = CITES
| status2_system = CITES
Dòng 18: Dòng 18:
| species = '''''D. sumatrensis'''''
| species = '''''D. sumatrensis'''''
| binomial = ''Dicerorhinus sumatrensis''
| binomial = ''Dicerorhinus sumatrensis''
| binomial_authority = ([[Johann Fischer von Waldheim|Fischer]], 1814)<ref name=Taxhistory>{{chú thích tạp chí | author = Rookmaaker L.C. | year = 1984 | title = The taxonomic history of the recent forms of Sumatran Rhinoceros (Dicerorhinus sumatrensis) | journal = Tạp chí của chi nhánh Malaysia của Hiệp hội châu Á Hoàng gia Anh | volume = 57 | issue = 1 | pages = 12–25 }}</ref>
| binomial_authority = ([[Johann Fischer von Waldheim|Fischer]], 1814)<ref name=Taxhistory/>
<imagemap>
<imagemap>
image:Sumatran Rhino range.svg|230px|Nơi cư trú của tê giác Sumatra
image:Sumatran Rhino range.svg|230px|Nơi cư trú của tê giác Sumatra
Dòng 50: Dòng 50:


Có ba [[phân loài]] là:
Có ba [[phân loài]] là:
* ''[[Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis]]'', được gọi là '''Tê giác Sumatra miền tây''', chỉ còn khoảng 75-85 con, hầu hết trong các Vườn quốc gia [[Vườn quốc gia Bukit Barisan Selatan|Bukit Barisan Selatan]], [[Vườn quốc gia Kerinci Seblat|Kerinci Seblat]] và [[Vườn quốc gia Gunung Leuser|Gunung Leuser]] tại Sumatra, nhưng cũng có một số lượng nhỏ ở [[Vườn quốc gia Way Kambas]].<ref name=IUCN/> Gần đây chúng đã tuyệt chủng tại [[Malaysia bán đảo]]. Mối đe dọa chính với phân loài này là mất môi trường sống và [[Lâm tặc|nạn săn bắt trộm]]. Một sự khác biệt nhẹ về mặt [[di truyền học|di truyền]] đã được ghi nhận giữa tê giác Sumatra miền tây và tê giác Bornea.<ref name="IUCN">van Strien, N.J., Manullang, B., Sectionov, Isnan, W., Khan, M.K.M, Sumardja, E., Ellis, S., Han, K.H., Boeadi, Payne, J. & Bradley Martin, E. 2008. [http://oldredlist.iucnredlist.org/details/6553/0 Dicerorhinus sumatrensis. In: IUCN 2011. [[IUCN Red List of Threatened Species]]]. Version 2011.2.</ref> Tê giác trên Malaysia bán đảo từng được gọi là ''D. s. niger'', nhưng sau đó được công nhận là một [[Danh pháp đồng nghĩa (phân loại học)|danh pháp đồng nghĩa]] với ''D. s. sumatrensis''.<ref name=Taxhistory>{{cite journal |last=Rookmaaker |first=L. C. |date=1984 |title=The taxonomic history of the recent forms of Sumatran Rhinoceros (''Dicerorhinus sumatrensis'') |journal=Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society |jstor=41492969 |volume=57 |issue=1 |pages=12–25 |url=http://www.rhinoresourcecenter.com/index.php?s=1&act=refs&CODE=ref_detail&id=1165238637}}</ref> Ba con đực và bốn con cái hiện đang sống trong tình trạng nuôi nhốt tại [[Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế#Khu bảo tồn Tê giác Sumatra|Khu bảo tồn Tê giác Sumatra]] tại Way Kambas, con đực nhỏ tuổi nhất đã được sinh ra tại đó vào năm 2012.<ref>International_Rhino_Foundation#Sumatran_Rhino_Sanctuary</ref> Một con non khác, một con cái, đã được sinh ra tại khu bảo tồn vào Tháng 5 năm 2016.<ref name=annamiticus>{{cite web|url=http://annamiticus.com/2016/05/12/girl-critically-endangered-sumatran-rhino-born-sanctuary-indonesia/|title=It's a Girl! Critically Endangered Sumatran Rhino Born at Sanctuary in Indonesia|last=Cota Larson|first=Rhishja|date=12 May 2016|website=annamiticus.com|accessdate=3 July 2016}}</ref> Hai con đực của khu bảo tồn được sinh ra tại [[Vườn thú và bách thảo Cincinnati]].<ref>{{cite web|url=http://phys.org/news/2015-09-critically-endangered-sumatran-rhino-pregnant.html|title=Critically endangered Sumatran rhino pregnant: conservationists|last=Sheridan|first=Kerry|website=phys.org|date=22 September 2015|accessdate=3 July 2016}}</ref>
* ''[[Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis]]'': Tê giác Sumatra miền tây (phân loài chi định)
* ''[[Dicerorhinus sumatrensis harrissoni]]'': [[Tê giác Borneo]]
* ''[[Dicerorhinus sumatrensis harrissoni]]'': [[Tê giác Borneo]]
* ''[[Dicerorhinus sumatrensis lasiotis]]'': [[Tê giác Sumatra phương bắc]] hay [[Tê giác Chittagong]] hay [[tê giác lông dày phương Bắc]]
* ''[[Dicerorhinus sumatrensis lasiotis]]'': [[Tê giác Sumatra phương bắc]] hay [[Tê giác Chittagong]] hay [[tê giác lông dày phương Bắc]]

Phiên bản lúc 16:51, ngày 15 tháng 2 năm 2020

Tê giác Sumatra
Tê giác Sumatra Emi và Harapan tại Vườn thú Cinncinatti.
Tình trạng bảo tồn
CITES Phụ lục I (CITES)[2]
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Perissodactyla
Họ (familia)Rhinocerotidae
Chi (genus)Dicerorhinus
Loài (species)D. sumatrensis
Danh pháp hai phần
Dicerorhinus sumatrensis
(Fischer, 1814)[3]
Nơi cư trú của tê giác SumatraVườn quốc gia Taman NegaraKhu dự trữ hoang dã TabinVườn quốc gia Gunung LeuserVườn quốc gia Kerinci SeblatVườn quốc gia Bukit Barisan SelatanVườn quốc gia Way Kambas
Nơi cư trú của tê giác Sumatra
Nơi cư trú của tê giác Sumatra:
Màu hồng đào: tồn tại trong lịch sử
Màu đỏ đậm: được nuôi trong các khu bảo tồn, nhấp vào để hiển thị tên các khu bảo tồn đó[4]
Phân loài

Dicerorhinus sumatrensis harrissoni
Dicerorhinus sumatrensis sumatrensis

Dicerorhinus sumatrensis lasiotis

Tê giác Sumatra hay còn gọi là tê giác hai sừng là loài tê giác hiện còn tồn tại có kích thước nhỏ nhất, cũng như là một trong số các loài có nhiều lông nhất. Giống như các loài châu Phi, chúng có hai sừng. Đã từng có thời chúng phổ biến rộng rãi ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ngày nay chỉ còn khoảng 300 cá thể. Chúng là loài đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp do săn bắn trộm, và các cố gắng nhằm phục hồi số lượng của chúng bằng cách nhân giống trong tình trạng bị giam cầm đã gặp rất nhiều khó khăn. Tê giác Sumatra là loài sống sót cuối cùng trong cùng một nhóm với loài tê giác lông mịn đã tuyệt chủng.

Phân loài và đặt tên

Bức vẽ đầu tiên của mẫu vật đầu tiên mà giới khoa học phương tây biết đến, vẽ bởi William Bell vào năm 1793

Con tê giác Sumatra được ghi nhận đầu tiên bị bắn 16 km (9,9 mi) bên ngoài Fort Marlborough, gần bờ tây của Sumatra vào năm 1793. Bức vẽ con vật và một đoạn văn mô tả nó được gửi tới nhà tự nhiên học Joseph Banks, vào lúc đó là Chủ tịch của Hội Hoàng gia Luân Đôn, người đã cho xuất bản một bài viết về mẫu vật trên vào năm đó.[5] Vào năm 1814, loài này được Johann Fischer von Waldheim đặt tên khoa học.[6][7]

Tính ngữ xác định loài sumatrensis có nghĩa là "của Sumatra", hòn đảo Indonesia nơi loài tê giác lần đầu được tìm thấy.[8] Carl Linnaeus ban đầu phân loại tất cả tê giác vào một chi Rhinoceros; do đó loài này ban đầu được phân loại là Rhinoceros sumatrensis hoặc sumatranus.[9] Joshua Brookes cho rằng tê giác Sumatra có hai sừng nên là một chi riêng biệt so với chi Rhinoceros có một sừng, và cho nó cái tên Didermocerus vào năm 1828. Constantin Wilhelm Lambert Gloger đã đề xuất cái tên Dicerorhinus vào năm 1841. Vào năm 1868, John Edward Gray đề xuất cái tên Ceratorhinus. Thường thì cái tên lâu đời nhất sẽ được sử dụng, nhưng vào năm 1977 Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học đã quyết định đặt tên chi chính thức là Dicerorhinus.[3][10] Dicerorhinus bắt nguồn từ Tiếng Hy Lạp, trong đó di (δι, nghĩa là "hai"), cero (κέρας, nghĩa là "sừng"), và rhinos (ρινος, nghĩa là "mũi").[11]

Có ba phân loài là:

Phân bố và môi trường sống

Một con tê giác đang lang thang trong thành phố đổ nát Chiang Saen, miền Bắc Thái Lan, năm 1867

Tê giác Sumatra sống ở cả rừng mưa thứ sinh cao nguyên hay đất thấp, đầm lầy và rừng sương mù. Nó sống ở các vùng đồi núi gần với nguồn nước, đặc biệt là các thung lũng dốc với nguồn cây bụi dồi dào. Tê giác Sumatra đã từng sống trong phạm vi liên tục xa lên phái bắc tận Burma, đông Ấn Độ, và Bangladesh. Các báo cáo chưa xác nhận cũng cho rằng nó sống ở Campuchia, LàoViệt Nam. Tất cả loài biết được đều phát sinh từ đảo Sumatra. Một số nhà bảo tồn hy vọng tê giác Sumatra có thể vẫn còn ở Burma, mặc dù điều này có khả năng không lớn. Các biến động về chính trị ở Burma đã ngăn chặn việc đánh giá hoặc nghiên cứu về khả năng sinh tồn của loài tại đây.[15] Báo cáo cuối cùng về việc nhìn thấy loài tê giác này trong phạm vi Ấn Độ là vào thập niên 1990.[16]

Chú thích

  1. ^ a b c van Strien, N.J., Manullang, B., Sectionov, Isnan, W., Khan, M.K.M, Sumardja, E., Ellis, S., Han, K.H., Boeadi, Payne, J. & Bradley Martin, E. 2008. Dicerorhinus sumatrensis. In: IUCN 2011. IUCN Red List of Threatened Species. Version 2011.2.
  2. ^ Dicerorhinus sumatrensis Convention on International Trade in Endangered Species
  3. ^ a b c Rookmaaker, L. C. (1984). “The taxonomic history of the recent forms of Sumatran Rhinoceros (Dicerorhinus sumatrensis)”. Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society. 57 (1): 12–25. JSTOR 41492969.
  4. ^ Lấy theo bản đồ phân bố trong:
    • Foose, Thomas J. và van Strien Nico (1997), Asian Rhinos – Status Survey and Conservation Action Plan., IUCN, Gland (Thụy Sĩ) và Cambridge (UK), ISBN 2-8317-0336-0
    • Dinerstein, Eric (2003). The Return of the Unicorns; The Natural History and Conservation of the Greater One-Horned Rhinoceros. New York: Nhà in Đại học Columbia. ISBN 0-231-08450-1.
      Bản đồ này chưa có dấu vết các cá thể có thể có tại Lào, Việt Nam hay Miến Điện.
  5. ^ Sir Joseph Banks, Bart. P. R. S. : Bell, W. (10 tháng 1 năm 1793). “Description of the Double Horned Rhinoceros of Sumatra. By Mr. William Bell, Surgeon in the Service of the East India Company, at Bencoolen”. Philosophical Transactions of the Royal Society. 83: 3–6. doi:10.1098/rstl.1793.0003 – qua Internet Archive.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ Rookmaaker, Kees (2005). “First sightings of Asian rhinos”. Trong Fulconis, R. (biên tập). Save the rhinos: EAZA Rhino Campaign 2005/6. London: European Association of Zoos and Aquaria. tr. 52.
  7. ^ Morales, Juan Carlos; Andau, Patrick Mahedi; Supriatna, Jatna; Zainal-Zahari, Zainuddin; Melnick, Don J. (tháng 4 năm 1997). “Mitochondrial DNA Variability and Conservation Genetics of the Sumatran Rhinoceros”. Conservation Biology. 11 (2): 539–543. doi:10.1046/j.1523-1739.1997.96171.x.
  8. ^ van Strien, Nico (2005). “Sumatran rhinoceros”. Trong Fulconis, R. (biên tập). Save the rhinos: EAZA Rhino Campaign 2005/6. London: European Association of Zoos and Aquaria. tr. 70–74.
  9. ^ Burmah”, Encyclopædia Britannica, 9th ed., Vol. IV, 1876, tr. p. 552.
  10. ^ International Commission on Zoological Nomenclature (1977). "Opinion 1080. Didermocerus Brookes, 1828 (Mammalia) suppressed under the plenary powers". Bulletin of Zoological Nomenclature, 34:21–24.
  11. ^ Liddell, Henry G.; Scott, Robert (1980). Greek-English Lexicon . Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-910207-4.
  12. ^ International_Rhino_Foundation#Sumatran_Rhino_Sanctuary
  13. ^ Cota Larson, Rhishja (12 tháng 5 năm 2016). “It's a Girl! Critically Endangered Sumatran Rhino Born at Sanctuary in Indonesia”. annamiticus.com. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2016.
  14. ^ Sheridan, Kerry (22 tháng 9 năm 2015). “Critically endangered Sumatran rhino pregnant: conservationists”. phys.org. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2016.
  15. ^ Foose, Thomas J.; van Strien, Nico (1997). Asian Rhinos – Status Survey and Conservation Action Plan. IUCN, Gland, Switzerland, and Cambridge, UK. ISBN 2-8317-0336-0.
  16. ^ Choudhury, A. U. (1997). “The status of the Sumatran rhinoceros in north-eastern India” (PDF). Oryx. 31 (2): 151–152. doi:10.1046/j.1365-3008.1997.d01-9.x.

Liên kết ngoài