Bước tới nội dung

Danh sách Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật được trao cho tác giả của các lĩnh vực âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, văn nghệ dân gian và kiến trúc. có giá trị rất cao về văn học, nghệ thuật, về nội dung tư tưởng, có tác dụng lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân. Đây được xem là giải thưởng danh giá nhất hiện nay tại Việt Nam.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là Bộ chủ trì thành lập Hội đồng Giải thưởng để tư vấn cho Thủ tướng trình danh sách lên Chủ tịch nước phê duyệt.

Cho đến nay, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật được ký quyết định trao tặng vào các năm 1996, 2000, 2005, 2012, 2017, 2022.

Đợt 1 vào năm 1996[1][sửa | sửa mã nguồn]

Văn học (14 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Mỹ thuật (8 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tô Ngọc Vân với tác phẩm tranh sơn mài: Bộ đội nghỉ bên chân đồi; tranh sơn dầu: Hồ Chủ tịch ở Bắc Bộ phủ, Xưởng quân giới; tranh khắc gỗ: Hồ Chủ tịch làm việc; các bộ tranh kí họa về nông dân trong cải cách ruộng đất (1953) và về bộ đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
  • Nguyễn Sáng với các tác phẩm tranh sơn dầu: Giặc đốt làng tôi, Thiếu nữ bên hoa sen và các tác phẩm tranh sơn mài: Kết nạp đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ, Thành đồng Tổ quốc.
  • Nguyễn Tư Nghiêm với các tác phẩm tranh sơn mài: Con nghé, Đêm giao thừa, Nông dân đấu tranh chống thuế, Tranh Gióng, Điệu múa cổ.
  • Trần Văn Cẩn với các tác phẩm tranh sơn mài: Tát nước đồng chiêm, Thằng cu đất mỏ, Mùa đông sắp đến, Mưa mai trên sông Kiến và các tác phẩm tranh sơn dầu: Công nhân mỏ, Nữ dân quan miền biển.
  • Bùi Xuân Phái với các tác phẩm tranh sơn dầu về Hà Nội: Hà Nội kháng chiến, Vợ chồng chèo, Sân khấu chèo, Xe bò trong phố cổ, Phố cổ Hà Nội, Phố vắngTrước giờ biểu diễn.
  • Nguyễn Đỗ Cung với các tác phẩm tranh sơn dầu: Chân dung Hồ Chủ tịch, Học hỏi lẫn nhau, Công nhân cơ khí, Tan ca, mời chị em đi học để thi thợ giỏi và các tác phẩm tranh bột màu: Du kích La Hai, Dân quân tập bắn.
  • Nguyễn Phan Chánh với các tác phẩm tranh lụa: Bữa cơm mùa thắng lợi, Sau giờ trực chiến, Trăng tơ, Chân dung tự họa, Chơi ô ăn quanCô gái rửa rau.
  • Diệp Minh Châu với tác phẩm tranh vẽ bằng máu trên lụa: Tranh Hồ Chủ tịch và Thiếu nhi Trung Nam Bắc và các bức tượng: Hương Sen, Võ Thị Sáu, Bác Hồ bên suối Lênin, Bác Hồ với thiếu nhi.

Nhiếp ảnh (4 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu (5 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Văn nghệ dân gian (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc (5 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Múa (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Thái Ly với các tác phẩm Bả Khó, Bà mẹ Miền Nam, Bài ca hi vọng, Katu, Cánh chim và ánh mặt trời.

Điện ảnh (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Kiến trúc (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Đợt 2 vào năm 2000[1][sửa | sửa mã nguồn]

Văn học (14 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Mỹ thuật (10 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Tiến Chung với các tác phẩm tranh lụa, tranh khắc gỗ màu, tranh sơn dầu: Được mùa (1958), Mùa gặt (1962), Chợ Nhông (1958), Hợp tác xã Tây Hồ, Phong cảnh Sài Sơn (1970), Nữ dân quân trao đổi kinh nghiệm bắn máy bay (1971).
  • Huỳnh Văn Gấm với các tác phẩm tranh Trái tim và nòng súng, Cô Liên, Ngày chủ nhật, Thừa thắng xông lên.
  • Dương Bích Liên với các tác phẩm tranh Bác hồ đi công tác, Chiều vàng, Mùa gặt, Hành quân đêm.
  • Hoàng Tích Chù với các tác phẩm tranh sơn mài: Tổ đội công (1958), Bác Hồ trồng cây với thiếu nhi (1971), Mùa gặt, Đêm hậu cứ'.
  • Nguyễn Văn Tỵ với các tác phẩm tranh sơn mài: Nhà tranh gốc mít (1958), Du kích Bắc Sơn (1958), Bắc Nam thống nhất (1961).
  • Nguyễn Hải với các tác phẩm tượng Nguyễn Văn Trỗi, Gióng, Chiến Thắng Điện Biên Phủ, Mùa xuân chiến thắng, Đài tưởng niệm Hòa Bình, Thủ Khoa Huân.
  • Nguyễn Khang với các tác phẩm tranh sơn mài: Đánh cá đêm trăng, Hòa bình và hữu nghị, Hành quân qua suối, Gia đình mục đồn.
  • Nguyễn Sỹ Ngọc với các tác phẩm tranh sơn mài: Tình quân dân (1949, Đổi ca (1962), Chiến dịch Điện Biên Phủ (1980), Một ngày mới lại bắt đầu (1982).
  • Nguyễn Thị Kim với các tác phẩm tượng, phù điêu: Chân dung Bác Hồ, Hạnh Phúc, Chân dung cháu gái, Nữ du kích, 11 cô gái tự vệ thành phố Huế.
  • Lê Quốc Lộc với các tác phẩm tranh sơn mài: Qua bản cũ (1957), Ánh sáng đến (1957), Tiêu thổ kháng chiến (1958), Giữ lấy hòa bình (1962), Từ trong bóng tối (1982).

Nhiếp ảnh (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc (9 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Múa (2 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tập thể lớp biên đạo múa Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị cho kịch múa Ngọn lửa Nghệ Tĩnh.
  • Tập thể Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam cho kịch múa Tấm Cám.

Trong đợt này các lĩnh vực Điện ảnh, Kiến trúc, Văn nghệ dân gian đều không có giải.

Đợt 3 vào năm 2005[2][sửa | sửa mã nguồn]

Văn học (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Đình Quang với tác phẩm, cụm công trình Tuyển tập Đình Quang (4 tập).

Điện ảnh (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ thuật quân sự[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ngày 24.2.2007, Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số 210/2007/QĐ-CTN tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN cho công trình: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học của Bộ Quốc phòng.
Danh sách tác giả của công trình: Đại tướng Đoàn Khuê; Đại tướng Văn Tiến Dũng; Thượng tướng Trần Văn Quang; Đại tá Hoàng Dũng; TS Lê Bằng; Trung tướng Phạm Quang Cận; PGS-TS Nguyễn Quốc Dũng; Trung tướng Trần Quang Khánh; Đại tá Đỗ Thọ Hồng; Đại tá Đỗ Xuân Huy; Đại tá Nguyễn Văn Minh; Ông Đống Ngạc; GS Nguyễn Văn Phùng; TS Lê Đình Sỹ; GS Ngô Vi Thiện; Thượng tá Bùi Văn Miễn.

Đợt 4 vào năm 2012[3][sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc (2 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học (7 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Mỹ thuật (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Gia Trí với các tác phẩm tranh Thiếu nữ trong vườn, Thiếu nữ bên ao Sen, Thiếu nữ bên hoa Phù Dung.

Đợt 5 vào năm 2017[4][sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc (6 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Văn học (4 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Múa (2 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Kiến trúc (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Văn nghệ dân gian (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiếp ảnh (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Đợt 6 vào năm 2022[5][sửa | sửa mã nguồn]

Văn học (2 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Hoàng Trung Thông (Đặc Công, Bút Châm) với các tập thơ Đường chúng ta đi (1960), Những cánh buồm (1964), Đầu sóng (1968), Tiếng thơ không dứt (1989).
  • Bùi Hiển với tập truyện ký Trong gió cát (1965) và các tập truyện Hoa và thép (1972), Tâm tưởng (1985).

Nhiếp ảnh (2 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chu Chí Thành với bộ ảnh Hai người lính.
  • Võ Nguyên Nhân (Võ An Khánh) với bộ ảnh Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang.

Múa (5 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Hùng (Đặng Phải, Bồng Sơn) với các tiết mục múa Nước về, Vũ khúc Raklây, Óng ánh tơ vàng.
  • Nghệ sĩ Nhân dân Vũ Việt Cường với tiết mục múa Mâm vàng, tổ khúc múa Sài Gòn ngày ấy, kịch múa Chuyện tình non sông.
  • Nghệ sĩ Nhân dân Lê Văn Khình (Lê Khình) với các tiết mục múa Những bông hoa đỏ của rừng, Những cô gái Phiêng Hào.
  • Nghệ sĩ Nhân dân Ứng Duy Thịnh với các tác phẩm kịch múa Đất nước,Ngọn lửa và cuốn sách Con đường dân gian đến sáng tạo múa chuyên nghiệp.
  • Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Thị Hiển với tác phẩm thơ múa Hoa phong lan trên đỉnh Truông Bồn, tiết mục múa Xuân về trên bản Khơ Mú, Bức tranh thôn nữ.

Âm nhạc (2 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Hồng Đăng (Phan Hồng Đăng) với cụm tác phẩm Lênh đênh, Đêm hành hương về huyền thoại, Buổi tối chuyện một căn nhà nhỏ, Khao khát, Gửi một câu hát cho Tokyo (1999).
  • Văn Ký (Vũ Văn Ký) với giao hưởng thơ Ru con, hành khúc Tiến lên thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, Hà Nội mùa xuân (1979).

Hội họa (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu (3 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giáo sư Hoàng Châu Ký với cuốn sách Tuồng cổ (1978) và các kịch bản sân khấu Thanh gươm chủ chiến, Trần Quý Cáp.
  • Xuân Trình (Nguyễn Xuân Trình) với kịch bản sân khấu Quê hương Việt Nam (1967), Bạch đàn liễu (1973), Đợi đến mùa xuân (1986).
  • Xuân Đức (Nguyễn Xuân Đức) với các kịch bản sân khấu Ám ảnh, Những mặt người thấp thoáng, Nhiệm vụ hoàn thành và tuyển tập kịch Chứng chỉ thời gian.

Điện ảnh (1 giải)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nghệ sĩ Ưu tú Phan Thế Dõng (Trần Nhu, Nguyệt Hải) với các phim tài liệu Du kích Củ Chi, Hạt lúa vành đai, Đội nữ pháo binh Long An.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “GIẢI THƯỞNG HỒ CHÍ MINH”. Đại học Sư phạm Hà Nội. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ “DANH SÁCH CÁC TÁC GIẢ ĐƯỢC TẶNG GIẢI THƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ GIẢI THƯỞNG NHÀ NƯỚC”. cinet.gov.vn. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ “13 tác giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh 2012”. VOV. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ “113 tác giả được trao giải thưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước”. VietNamNet. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2024.
  5. ^ “128 tác giả được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2022”. Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2024.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]