Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, theo định nghĩa của Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ
Tuần dương hạm Canberra của Úc (bên trái) bảo vệ 3 tàu vận tải Đồng Minh (bên phải) đang đổ quân và phương tiện tại Tulagi
Quân Nhật rời tàu chiến, khoảng năm 1942

Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương là một trong 4 chiến trường chính của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trong giai đoạn 1942-1945 tại khu vực Philippines, Đông Ấn Hà Lan (ngoại trừ Sumatra), Borneo, Úc, Lãnh thổ New Guinea thuộc Úc (bao gồm cả quần đảo Bismarck), phần phía tây của quần đảo Solomon và một số vùng lân cận phụ thuộc. Cái tên Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương được lấy theo Bộ tư lệnh quân Đồng Minh, và thường được gọi đơn giản là "Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương".

Trên mặt trận này, lực lượng của Đế quốc Nhật Bản đã chiến đấu chủ yếu với các lực lượng của Hoa Kỳ và Úc. Hà Lan, Philippines, Anh, México và một số lức lượng Đồng Minh khác rút về Úc hoặc New Guinea cũng có tham chiến tại đây. Trong hầu hết thời gian hai năm đầu tiên, người Nhật chiến đấu trên bộ phần lớn là với người Úc, còn trên không thì với không lực và trang bị của Hoa Kỳ. Vấn đề hậu cần thì được nhiều nước thực hiện.

Phần lớn quân đội Nhật tại mặt trận này là thuộc biên chế Nam Phương Quân, thành lập ngày 6 tháng 11 năm 1941, nằm dưới quyền Nguyên soái Terauchi Hisaichi, người đã ra lệnh tấn công và chiếm đóng các lãnh thổ của Đồng Minh ở Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương.

Ngày 30 tháng 3 năm 1942, Bộ tư lệnh Tây Nam Thái Bình Dương Đồng Minh (SWPA) đã được thành lập và Đại tướng Hoa Kỳ Douglas MacArthur được chỉ định làm Tổng tư lệnh Tối cao Đồng minh Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương.[1] Mặt trận còn lại ở vùng Thái Bình Dương, Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai, do Đô đốc Chester Nimitz chỉ huy.

Các chiến dịch chính[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích
  1. ^ Cressman (2000), trg 84
  2. ^ Dull (1978), trg 61
  3. ^ a b c d e f Silverstone (1968), trg 9-11
  4. ^ Dull (1978), trg 75
  5. ^ Dull (1978), trg 91
  6. ^ Potter & Nimitz (1960), trg 695
  7. ^ Potter & Nimitz (1960), trg 697
  8. ^ Potter & Nimitz (1960), trg 699
  9. ^ Potter & Nimitz (1960), trg 701
  10. ^ a b c d e f Potter & Nimitz (1960), trg 732
  11. ^ a b c d Potter & Nimitz (1960), trg 759
  12. ^ a b c Sulzberger (1966), trg 332-333
Tham khảo
  • Cressman, Robert J. (2000). The Official Chronology of the U.S. Navy in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-149-1.
  • Drea, Edward J. (1998). In the Service of the Emperor: Essays on the Imperial Japanese Army. Nebraska: University of Nebraska Press. ISBN 0-8032-1708-0.
  • Dull, Paul S. (1978). A Battle History of the Imperial Japanese Navy (1941-1945). Annapolis, Maryland: Naval Institute Press.
  • Eichelberger, Robert (1989 (reissue)). Our Jungle Road to Tokyo. New York: Battery Press. ISBN 0-89839-132-6. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |year= (trợ giúp)
  • Griffith, Thomas E., Jr. (1998). MacArthur's Airman: General George C. Kenney and the War in the Southwest Pacific. Lawrence, Kansas, U.S.A.: University Press of Kansas. ISBN 0-7006-0909-1.
  • Krueger, Walter (1979). From Down Under to Nippon: Story of the 6th Army in World War II. Zenger. ISBN 0-89201-046-0.
  • Potter, E.B. (1960). Sea Power. Chester W. Nimitz. Prentice-Hall.
  • Silverstone, Paul H. (1968). U.S. Warships of World War II. Doubleday and Company.
  • Sulzberger, C.L. (1966). The American Heritage Picture History of World War II. Crown Publishers.
  • United States Army Center of Military History. “Japanese Operations in the Southwest Pacific Area, Volume II - Part I”. Reports of General MacArthur. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2006.- Translation of the official record by the Japanese Demobilization Bureaux detailing the Imperial Japanese Army and Navy's participation in the Southwest Pacific area of the Pacific War.