Sead Kolašinac

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sead Kolašinac
Kolašinac chơi cho Arsenal năm 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Sead Kolašinac
Ngày sinh 20 tháng 6, 1993 (30 tuổi)
Nơi sinh Karlsruhe, Đức
Chiều cao 1,83 m (6 ft 0 in)[1]
Vị trí Hậu vệ cánh trái / Tiền vệ cánh trái
Thông tin đội
Đội hiện nay
Atalanta
Số áo 23
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2001–2009 Karlsruher SC
2009–2010 TSG 1899 Hoffenheim
2010 VfB Stuttgart
2011–2012 Schalke 04
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2012–2015 Schalke 04 II 8 (2)
2012–2017 Schalke 04 94 (4)
2017–2022 Arsenal 80 (2)
2021Schalke 04 (mượn) 17 (1)
2022–2023 Marseille 47 (4)
2023– Atalanta 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2011 U-18 Đức 1 (0)
2011–2012 U-19 Đức 11 (1)
2012–2013 U-20 Đức 2 (1)
2013– Bosna và Hercegovina 53 (0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến ngày 6 tháng 7 năm 2023
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến ngày 20 tháng 6 năm 2023

Sead Kolašinac (phát âm tiếng Đức: [ˈsɛ.ad ˈkɔ.la.ʃɪ.nats], phát âm tiếng Bosnia: [ˈse.ad ko.laˈʃi.nat͡s]; sinh ngày 20 tháng 6 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bosna và Hercegovina hiện đang chơi ở vị trí hậu vệ cánh tráitiền vệ cánh trái cho Atalanta tại Serie AĐội tuyển bóng đá quốc gia Bosna và Hercegovina.

Sự nghiệp cấp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Kolašinac bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ quê nhà Karlsruher SC[2]. Sau tám năm chơi cho Kalsruhe, Kolašinac gia nhập câu lạc bộ TSG 1899 Hoffenheim và chơi một mùa giải tại đây sau đó được mua bởi câu lạc bộ VfB Stuttgart.[2] Kolašinac cũng chỉ thi đấu tại câu lạc bộ Stuttgart trong thời gian ngắn, và mùa giải sau đó anh gia nhập câu lạc bộ FC Schalke 04.[2]

Schalke 04[sửa | sửa mã nguồn]

Kolašinac tập khởi động trong màu áo Schalke 04 vào năm 2015.

Sau khi trải qua một mùa giải tại đội trẻ, Kolašinac được thăng lên đội thứ hai, FC Schalke 04 II, một trong những giải đấu thấp hơn của Đức, Regionalliga West. Sau khi thi đấu 7 trận và ghi 2 bàn thắng cho Schalke 04 II, anh đã được thăng lên đội một. Vào ngày 15 tháng 9 năm 2012, anh đã có trận ra mắt Bundesliga trong chiến thắng 2-0 trước câu lạc bộ SpVgg Greuther Fürth.[3] Vào tháng 12 năm 2012, anh có trận đấu đầu tiên của mình tại cúp châu Âu trong trận hòa 1-1 với câu lạc bộ Montpellier thuộc khuôn khổ UEFA Champions League.[4]

Tháng 6 năm 2013, Kolašinac ký hợp đồng với Schalke đến tháng 6 năm 2017.[5] Vào đầu mùa giải kế tiếp, Kolašinac bị chấn thương dây chằng chéo đầu gối phải của mình và phải nghỉ thi đấu khoảng 6 tháng.[6] Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Schalke 04 vào ngày 13 tháng 12 năm 2015, trong trận hòa 1-1 trước FC Augsburg.[7] Vào tháng 5 năm 2017, Kolašinac đã quyết định không gia hạn hợp đồng với Schalke 04, qua đó kết thúc quãng thời gian 6 năm chơi bóng tại câu lạc bộ của Đức.[8] Cuối mùa giải 2016–17, anh góp mặt trong Đội hình tiêu biểu của Bundesliga.[9]

Arsenal[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 6 năm 2017, câu lạc bộ đang chơi tại giải Ngoại hạng Anh Arsenal xác nhận ký hợp đồng với Kolašinac dưới dạng chuyển nhượng tự do sau khi chờ hoàn tất các thủ tục pháp lý."[10] Kolašinac ghi bàn thắng đầu tiên trong màu áo mới ngay ở trận ra mắt của mình trước Chelsea trong trận Siêu cúp Anh 2017, góp phần giúp Arsenal giành chiến thắng chung cuộc trên chấm luân lưu sau đó.[11][12] Trận đầu tiên của anh ở giải Ngoại hạng chính là trận khai mạc mùa bóng, trong trận đó anh đã đóng góp một kiến tạo giúp Pháo thủ giành thắng lợi trước Leicester City với tỉ số 4-3.[13] Nhờ màn trình diễn ấn tượng trong tháng 8, anh đã được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Arsenal với tỉ lệ phiếu bầu chiếm hơn một nửa.[14] Ngày 14 tháng 12, Kolašinac lập công trong trận ra mắt ở UEFA Europa League, giúp Arsenal vượt qua 1. FC Köln với tỉ số 3-1.[15] Anh ghi bàn thắng đầu tiên ở giải Ngoại hạng vào ngày 28 tháng 10 trước đối thủ Swansea City, đồng thời góp một kiến tạo trong chiến thắng 2-1 của đội.[16] Kolašinac một lần nữa được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của câu lạc bộ vào tháng 10 với tỉ lệ phiếu bầu chiếm một nửa.[17]

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Kolašinac sở hữu một tấm hộ chiếu Đức và sau khi chơi cho nhiều cấp độ tuyển trẻ của đội tuyển Đức, anh đã chuyển sự phục vụ sang thi đấu cho quê hương Bosna và Hercegovina của cha mẹ mình và sau đó được triệu tập lên đội tuyển quốc gia nước này vào năm 2013. Cha anh cho biết trong một buổi phỏng vấn rằng lựa chọn đầu tiên của Kolašinac luôn luôn là thi đấu trong màu áo Bosnia.[18]

Ngày 18 tháng 11 năm 2013, Kolašinac có trận đấu ra mắt Bosnia trong trận thua giao hữu 0-2 trước đội tuyển Argentina.[19] Anh được gọi lên đội Bosnia để thi đấu tại giải vô địch bóng đá thế giới 2014.[20] Ngay ở phút thứ ba trong trận khai mạc của đội tại vòng bảng, Kolašinac đã vô tình đá một bàn phản lưới nhà, nhanh nhất trong lịch sử giải vô địch thế giới, góp phần giúp Argentina giành chiến thắng chung cuộc 2-1 tại sân vận động Maracanã.[21]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Kolašinac sinh ra tại Karlsruhe, Baden-Württemberg và có gốc gác Bosnia từ cha mẹ.[22] Anh theo học tại trường Gesamtschule Berger Feld.[23] Cha anh là Faik làm việc tại nhà máy Mercedes-Benz; ông sinh ra tại Nikšić, Montenegro rồi theo cha mẹ đến Plav. Gia đình chuyển đến Čapljina, Bosnia và Herzegovina vào năm 1969, nơi Faik gặp gỡ vợ mình. Cả gia đình của Kolašinac đều theo đạo Hồi.[22] Bên cạnh tấm hộ chiếu Đức, Kolašinac còn được cấp một tấm hộ chiếu Bosnia vào năm 2013 để anh có thể chơi bóng cho đội tuyển quốc gia nước này.[22]

Kolašinac thường được các cổ động viên gán với những biệt danh như "The Destroyer", "The Tank" hoặc "The Bosnian Hulk" bởi anh có một thân hình cường tráng và cơ bắp cũng phong cách thi đấu máu lửa.[24][25] Vào tháng 7 năm 2019, Kolašinac và người đồng đội ở Arsenal Mesut Özil là mục tiêu của một nhóm côn đồ khi cả hai đang lái xe qua khu vực Golders Green, tuy nhiên anh đã dũng cảm một mình chiến đấu tay không với bọn côn đồ để bảo vệ đồng đội của mình.[26][27]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ Mùa giải Giải VĐQG Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Khác Châu Âu Tổng cộng
Hạng Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Schalke 04 II 2011–12 Regionalliga Nord 2 0 2 0
2012–13 5 2 5 2
2014–15 1 0 1 0
Tổng cộng 8 2 8 2
Schalke 04 2012–13 Bundesliga 16 0 1 0 3 0 20 0
2013–14 24 0 0 0 6 0 30 0
2014–15 6 0 1 0 0 0 7 0
2015–16 23 1 1 0 6 0 30 1
2016–17 25 3 3 0 8 0 35 3
Tổng cộng 94 4 6 0 23 0 123 4
Arsenal 2017–18 Premier League 27 2 0 0 3 0 5 2 1 1 36 5
2018–19 24 0 2 0 0 0 10 0 36 0
2019–20 26 0 4 0 1 0 1[a] 0 32 0
2020–21 1 0 0 0 2 0 3[a] 0 1 0 7 0
Tổng cộng 78 2 6 0 6 0 19 2 2 1 111 5
Schalke 04 (mượn) 2020–21 Bundesliga 11 1 1 0 12 1
Tổng cộng sự nghiệp 191 9 13 0 7 0 43 2 2 1 256 12
Tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2021[28]

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Bosna và Hercegovina
2013 1 0
2014 5 0
2015 4 0
2016 7 0
2017 5 0
2018 2 0
2019 6 0
2020 5 0
2021 8 0
2022 8 0
Tổng cộng 51 0
Tính đến ngày 26 tháng 9 năm 2022[29]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Sead Kolasinac Schalke profile”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2022.
  2. ^ a b c Aleksandar Holiga (ngày 9 tháng 6 năm 2014). “Meet the Bosnian defender hoping to stop Messi and Aguero”. fourfourtwo.com. FourFourTwo. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2014.
  3. ^ “Holtby nimmt Fürth endgültig den Mut”. Kicker (bằng tiếng Đức). 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập 5 tháng 7 năm 2017.
  4. ^ “UEFA Champions League 2012/13 – History – Montpellier-Schalke Lineups”. UEFA. 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập 5 tháng 7 năm 2017.
  5. ^ “FC Schalke 04 extend Sead Kolasinac's contract through 2017”. SB Nation. 25 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2014.
  6. ^ “Sead Kolasinac Sidelined For Six Months”. BHDragons. 24 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2014.
  7. ^ “Prvijenac Kolašinca u Bundesligi!”. SportSport.ba (bằng tiếng Bosnia). 13 tháng 12 năm 2015. Truy cập 30 tháng 12 năm 2017.
  8. ^ “Kolasinac verlässt Schalke ablösefrei”. Süddeutsche Zeitung (bằng tiếng Đức). Munich. 14 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập 21 tháng 12 năm 2017.
  9. ^ “Team of the Season 16/17 Results”. Bundesliga. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 5 năm 2017. Truy cập 30 tháng 5 năm 2017.
  10. ^ “Sead Kolasinac to sign for Arsenal”. Arsenal F.C. 5 tháng 6 năm 2017. Truy cập 6 tháng 6 năm 2017.
  11. ^ “Arsenal lift Community Shield”. The Football Association. 6 tháng 8 năm 2017. Truy cập 15 tháng 12 năm 2017.
  12. ^ “Arsenal 1–1 Chelsea”. BBC Sport. 6 tháng 8 năm 2017. Truy cập 15 tháng 12 năm 2017.
  13. ^ “Arsenal 4–3 Leicester City”. BBC Sport. 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập 13 tháng 8 năm 2017.
  14. ^ “Kolasinac voted August Player of the Month”. Arsenal F.C. 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập 5 tháng 12 năm 2017.
  15. ^ “Arsenal beat Cologne in delayed Europa League match”. The Guardian. London. 14 tháng 12 năm 2017. Truy cập 15 tháng 12 năm 2017.
  16. ^ “Arsenal 2–1 Swansea City”. BBC Sport. 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập 28 tháng 10 năm 2017.
  17. ^ “Kolasinac tops October Player of the Month poll”. Arsenal F.C. 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập 26 tháng 11 năm 2017.
  18. ^ “Otac Seada Kolašinca: On je uvijek želio igrati za BiH”. Klix.ba (bằng tiếng Bosnia). 4 tháng 7 năm 2013. Truy cập 4 tháng 7 năm 2013.
  19. ^ “Argentina Bosnia 2–0”. Goal.com. 18 tháng 11 năm 2013. Truy cập 22 tháng 11 năm 2013.
  20. ^ “Bosnia and Herzegovina 2014 World Cup squad”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập 20 tháng 6 năm 2014.
  21. ^ “New Arsenal signing's record-breaking own goal”. BBC Sport. 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập 16 tháng 6 năm 2014.
  22. ^ a b c “Sead Kolašinac je bježao iz škole kako bi išao u mekteb”. SportSport.ba (bằng tiếng Bosnia). 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập 11 tháng 11 năm 2013.
  23. ^ Sarigul, Emre (27 tháng 3 năm 2018). “Photo: Arsenal Star Invites Former School Students To Spain Match, Former Pupils Include Julian Draxler & Manuel Neuer”. Turkish-Football. Truy cập 25 tháng 7 năm 2018. Ngôi trường từng là nơi dạy dỗ của nhiều cầu thủ nổi tiếng như Manuel Neuer, Julian Draxler, Benedikt Höwedes, Leroy Sané, Max Meyer, Ralf Ferryman, Joel Matip và Sead Kolasinac.
  24. ^ 'The Bosnian Hulk' Sead Kolasinac reveals preferred nickname to new Arsenal team-mates”. Squawka.com (bằng tiếng Anh). 7 tháng 6 năm 2017. Truy cập 22 tháng 12 năm 2018.
  25. ^ 'The Bosnian Hulk'. Arsenal.com (bằng tiếng Anh). 9 tháng 6 năm 2017. Truy cập 22 tháng 12 năm 2018.
  26. ^ “Arsenal stars 'chase off' armed carjackers”. 26 tháng 7 năm 2019 – qua www.bbc.co.uk.
  27. ^ “Tay không đánh cướp có dao, giải cứu Oezil, Kolasinac được ví là Siêu nhân”. Thể thao & Văn hóa. 26 tháng 7 năm 2019. Truy cập 10 tháng 8 năm 2019.
  28. ^ “Sead Kolasinac”. soccerway.
  29. ^ Kolašinac.html Sead Kolašinac tại National-Football-Teams.com
  1. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên UEL

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]