Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Agnieszka Radwańska”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 35: | Dòng 35: | ||
'''Agnieszka "Aga" Radwańska''' là 1 [[vận động viên]] [[quần vợt]] chuyên nghiệp [[người Ba Lan]]. Radwańska đạt thứ hạng cao nhất là số 2 [[thế giới]] vào [[tháng 7]] năm [[2012]]. Được biết đến là 1 tay vợt biết cách xây dựng [[chiến thuật]] thi đấu cũng như lối chơi thông minh, phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân, [[Agnieszka Radwańska|Radwanska]] đã có được 17 danh hiệu đơn trong sự nghiệp. |
'''Agnieszka "Aga" Radwańska''' là 1 [[vận động viên]] [[quần vợt]] chuyên nghiệp [[người Ba Lan]]. Radwańska đạt thứ hạng cao nhất là số 2 [[thế giới]] vào [[tháng 7]] năm [[2012]]. Được biết đến là 1 tay vợt biết cách xây dựng [[chiến thuật]] thi đấu cũng như lối chơi thông minh, phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân, [[Agnieszka Radwańska|Radwanska]] đã có được 17 danh hiệu đơn trong sự nghiệp. |
||
[[Agnieszka Radwańska|Radwanska]] đã từng tiến sâu vào 1 giải [[Grand Slam]] đó là tại giải [[Giải vô địch Wimbledon 2012|Wimbledon 2012]] và đã để thua [[Serena Williams]]. Ngoài ra còn vào được bán kết của [[Giải quần vợt Úc Mở rộng|Úc Mở rộng]] và tứ kết [[Giải quần vợt Roland-Garros|Roland Garros]]. |
[[Agnieszka Radwańska|Radwanska]] đã từng tiến sâu vào 1 giải [[Grand Slam (quần vợt)|Grand Slam]] đó là tại giải [[Giải vô địch Wimbledon 2012|Wimbledon 2012]] và đã để thua [[Serena Williams]]. Ngoài ra, còn vào được bán kết của [[Giải quần vợt Úc Mở rộng|Úc Mở rộng]] và tứ kết [[Giải quần vợt Roland-Garros|Roland Garros]]. |
||
Ngoài ra, cô còn chơi ở nội dung đôi, từng đánh cặp với [[Maria Kirilenko]] và [[Daniela Hantuchová]], nhưng sau năm [[2010]], Radwanska tập trung cho nội dung đơn và ít khi tham gia đánh đôi. |
Ngoài ra, cô còn chơi ở nội dung đôi, từng đánh cặp với [[Maria Kirilenko]] và [[Daniela Hantuchová]], nhưng sau năm [[2010]], [[Agnieszka Radwańska|Radwanska]] tập trung cho nội dung đơn và ít khi tham gia đánh đôi. |
||
Radwanska được bình chọn là tay vợt nữ được yêu thích nhất của [[Hiệp hội quần vợt nữ|WTA]] trong 5 năm liên tiếp (2011-2015).<ref name=Awards>{{chú thích báo |title=WTA Awrads |publisher=wtatennis.com |date= |accessdate=ngày 5 tháng 12 năm 2014 |url=http://www.wtatennis.com/scontent/article/3010014/title/wta-awards}}</ref> Với thành tích của mình trong thể thao, năm [[2013]] cô đã được [[Tổng thống Cộng hòa Ba Lan|Tổng thống Ba Lan]] [[Bronisław Komorowski]] trao tặng huy hiệu chữ thập vàng. |
[[Agnieszka Radwańska|Radwanska]] được bình chọn là tay vợt nữ được yêu thích nhất của [[Hiệp hội quần vợt nữ|WTA]] trong 5 năm liên tiếp (2011-2015).<ref name=Awards>{{chú thích báo |title=WTA Awrads |publisher=wtatennis.com |date= |accessdate=ngày 5 tháng 12 năm 2014 |url=http://www.wtatennis.com/scontent/article/3010014/title/wta-awards}}</ref> Với thành tích của mình trong [[thể thao]], năm [[2013]], cô đã được [[Tổng thống Cộng hòa Ba Lan|Tổng thống Ba Lan]] [[Bronisław Komorowski]] trao tặng huy hiệu chữ thập vàng. |
||
== Cuộc sống cá nhân == |
== Cuộc sống cá nhân == |
||
Sinh ra tại [[Kraków]], Radwanska bắt đầu tập chơi [[Quần vợt|tennis]] từ năm 4 tuổi. Khi đó, cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là [[Urszula Radwanska]] cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ [[Martina Hingis]] và [[Pete Sampras]] và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn theo học ngành [[du lịch]] tại trường đại học tại Kraków.<ref name=profile> |
Sinh ra tại [[Kraków]], Radwanska bắt đầu tập chơi [[Quần vợt|tennis]] từ năm 4 tuổi. Khi đó, cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là [[Urszula Radwanska]] cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ [[Martina Hingis]] và [[Pete Sampras]] và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn theo học ngành [[du lịch]] tại trường đại học tại Kraków.<ref name=profile> |
||
Dòng 70: | Dòng 70: | ||
===2011=== |
===2011=== |
||
[[Tập tin:Agnieszka Radwanska in Tokyo.jpg|nhỏ|trái|Radwanska tại Toray Pan Pacific Open 2011]] |
[[Tập tin:Agnieszka Radwanska in Tokyo.jpg|nhỏ|trái|Radwanska tại Toray Pan Pacific Open 2011]] |
||
Agnieszka lọt đến tứ kết Úc Mở rộng, nơi cô thua trước nhà vô địch năm đó [[Kim Clijsters]] với tỉ số 3–6 6–7<sup>4–7</sup>. Tại Pháp Mở rộng, cô lại một lần nữa dừng bước ở vòng 4 sau trận thua |
Agnieszka lọt đến tứ kết Úc Mở rộng, nơi cô thua trước nhà vô địch năm đó [[Kim Clijsters]] với tỉ số 3–6 6–7<sup>4–7</sup>. Tại Pháp Mở rộng, cô lại một lần nữa dừng bước ở vòng 4 sau trận thua [[Maria Yuryevna Sharapova|Maria Sharapova]]. Tại [[Giải Vô địch Wimbledon|Wimbledon]], thua [[Petra Cetkovska]] của [[Cộng hòa Czech|Cộng hòa Séc]] tại vòng 2. Ở [[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng|US Open]], cô thua [[Angelique Kerber]] tại vòng 2 sau khi đánh bại cô em Urszula Radwańska ở vòng 1. Radwanska có danh hiệu WTA tại [[Tokyo]] sau chiến thắng trước Vera Zvonareva. Tại China Open, Radwanska có được chức vô địch sau khi thắng [[Andrea Petkovic]] 7–5 0–6 6–4 trong trận chung kết. Radwanska giành được 1 suất tham dự WTA Championships với cương vị hạt giống số 8, dừng bước tại vòng bảng. |
||
Agnieszka Radwanska kết thúc năm 2011 ở vị trí số 8 thế giới. |
Agnieszka Radwanska kết thúc năm 2011 ở vị trí số 8 thế giới. |
||
Dòng 76: | Dòng 76: | ||
[[Tập tin:Agnieszka Radwanska London 2012.jpg|phải|nhỏ|Radwańska tại Olympics 2012]] |
[[Tập tin:Agnieszka Radwanska London 2012.jpg|phải|nhỏ|Radwańska tại Olympics 2012]] |
||
Năm 2012 được coi như 1 bước ngoặc trong sự nghiệp cua Agnieszka Radwanska. |
Năm 2012 được coi như 1 bước ngoặc trong sự nghiệp cua Agnieszka Radwanska. |
||
Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần thứ 3 phải dừng bước tại tứ kết, thua [[Victoria Azarenka]] sau 3 set. Radwanska có danh hiệu WTA tại [[Dubai]] sau chiến thắng trước [[Julia Goerges]] và danh hiệu tại [[Miami]] sau chiến thắng bất ngờ 7–5 6–4 trước Maria Sharapova. |
Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần thứ 3 phải dừng bước tại tứ kết, thua [[Victoria Azarenka]] sau 3 set. Radwanska có danh hiệu WTA tại [[Dubai]] sau chiến thắng trước [[Julia Goerges]] và danh hiệu tại [[Miami]] sau chiến thắng bất ngờ 7–5 6–4 trước [[Maria Yuryevna Sharapova|Maria Sharapova]]. |
||
Trên mặt sân đất nện, Radwanska có danh hiệu WTA tại [[Brussels]], ([[Bỉ]]) sau chiến thắng trước [[Simona Halep]] 7–5 6–0 ở trận chung kết. Tại Pháp Mở rộng, sau khi đánh bại Venus Williams tại vòng 2, Radwanska phải dừng bước tại vòng 3 sau trận thua trước Kuznetsova. Tại Wimbledon, Radwanska lần đầu tiên có mặt tại trận chung kết của giải và cũng là trận chung kết [[Grand Slam quần vợt|Grand Slam]] đầu tiên trong sự nghiệp, thua trước [[Serena Williams]] 1–6 7–5 2–6 trong trận chung kết. Tại [[Thế vận hội mùa hè 2012|Olympics London 2012]], Radwanska đại diện cho nước Ba Lan tham dự với cương vị hạt giống số 2 nhưng cô lại thua 1 cách bất ngờ trước Julia Goerges 5–7 7–6<sup>5–7</sup> 6–4 tại vòng một.<ref>{{chú thích web|url=http://sport.uk.msn.com/tennis/radwanska-makes-shock-exit|title= |
Trên mặt sân đất nện, Radwanska có danh hiệu WTA tại [[Brussels]], ([[Bỉ]]) sau chiến thắng trước [[Simona Halep]] 7–5 6–0 ở trận chung kết. Tại Pháp Mở rộng, sau khi đánh bại Venus Williams tại vòng 2, Radwanska phải dừng bước tại vòng 3 sau trận thua trước Kuznetsova. Tại Wimbledon, Radwanska lần đầu tiên có mặt tại trận chung kết của giải và cũng là trận chung kết [[Grand Slam quần vợt|Grand Slam]] đầu tiên trong sự nghiệp, thua trước [[Serena Williams]] 1–6 7–5 2–6 trong trận chung kết. Tại [[Thế vận hội mùa hè 2012|Olympics London 2012]], Radwanska đại diện cho nước Ba Lan tham dự với cương vị hạt giống số 2 nhưng cô lại thua 1 cách bất ngờ trước Julia Goerges 5–7 7–6<sup>5–7</sup> 6–4 tại vòng một.<ref>{{chú thích web|url=http://sport.uk.msn.com/tennis/radwanska-makes-shock-exit|title= |
||
Radwanska makes shock exit |accessdate=ngày 29 tháng 7 năm 2012}}</ref> Tại US Open, Radwanska được xếp hạt giống số 2 nhưng lại thua trước hạt giống số 20 [[Roberta Vinci]] tại vòng 4 khiến cô rơi xuống vị trí số 4 thế giới. Tại WTA Championships, Radwanska lọt đến trận bán kết, thua Serena Williams 6–2 6–1. |
Radwanska makes shock exit |accessdate=ngày 29 tháng 7 năm 2012}}</ref> Tại US Open, Radwanska được xếp hạt giống số 2 nhưng lại thua trước hạt giống số 20 [[Roberta Vinci]] tại vòng 4 khiến cô rơi xuống vị trí số 4 thế giới. Tại WTA Championships, Radwanska lọt đến trận bán kết, thua Serena Williams 6–2 6–1. |
||
Dòng 95: | Dòng 95: | ||
Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần đầu tiên vào bán kết sau 5 năm thất bại tại tứ kết khi bất ngờ đánh bại nhà đương kim vô địch [[Victoria Azarenka]] 6–1 5–7 6–2 tại tứ kết, cô đã tạo nên 1 kết quả mà ít ai nghĩ tới. Tại Roger Cup (Montreal, Canada), Radwanska dành được chức vô địch khi đánh bại [[Venus Williams]] trong trận chung kết. Tại WTA Final, cô để thua trước [[Maria Sharapova]] và [[Caroline Wozniacki]] nhưng đã giành chiến thắng trước [[Petra Kvitová]] để lọt vào bán kết rồi dừng bước trước [[Simona Halep]]. Radwanska kết thúc năm 2014 với vị trí thứ 6. |
Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần đầu tiên vào bán kết sau 5 năm thất bại tại tứ kết khi bất ngờ đánh bại nhà đương kim vô địch [[Victoria Azarenka]] 6–1 5–7 6–2 tại tứ kết, cô đã tạo nên 1 kết quả mà ít ai nghĩ tới. Tại Roger Cup (Montreal, Canada), Radwanska dành được chức vô địch khi đánh bại [[Venus Williams]] trong trận chung kết. Tại WTA Final, cô để thua trước [[Maria Sharapova]] và [[Caroline Wozniacki]] nhưng đã giành chiến thắng trước [[Petra Kvitová]] để lọt vào bán kết rồi dừng bước trước [[Simona Halep]]. Radwanska kết thúc năm 2014 với vị trí thứ 6. |
||
Radwanska khởi đầu năm 2015 cùng đồng đội [[Jerzy Janowicz]] đại diện cho Ba Lan tham dự [[Hopman Cup]], tại chung kết cô giành chiến thắng trước [[Serena Williams]]<ref>{{chú thích báo |first=Les |last=Roopanarine |title=Serena Williams beaten by Agnieszka Radwanska as Poland win Hopman Cup |work=The Guardian |date=ngày 10 tháng 1 năm 2015 |accessdate=ngày 10 tháng 1 năm 2015 |url=http://www.theguardian.com/sport/2015/jan/10/serena-williams-beaten-agnieszka-radwanska-hopman-cup}}</ref> và trong trận đánh đôi để giành chức vô địch cho đội [[Ba Lan]]. |
Radwanska khởi đầu năm 2015 cùng đồng đội [[Jerzy Janowicz]] đại diện cho [[Ba Lan]] tham dự [[Hopman Cup]], tại chung kết cô giành chiến thắng trước [[Serena Williams]]<ref>{{chú thích báo |first=Les |last=Roopanarine |title=Serena Williams beaten by Agnieszka Radwanska as Poland win Hopman Cup |work=The Guardian |date=ngày 10 tháng 1 năm 2015 |accessdate=ngày 10 tháng 1 năm 2015 |url=http://www.theguardian.com/sport/2015/jan/10/serena-williams-beaten-agnieszka-radwanska-hopman-cup}}</ref> và trong trận đánh đôi để giành chức vô địch cho đội [[Ba Lan]]. |
||
Tại WTA Final 2015, Radwanska nằm trong bảng đỏ cùng [[Simona Halep]], [[Maria Sharapova]] và [[Flavia Pennetta]]. Cô đã để thua Sharapova và Pennetta, nhưng sau đó đã đánh bại Halep để giành quyền lọt vào vòng sau. Tiếp đó cô đánh bại [[Garbiñe Muguruza]] tại bán kết và [[Petra Kvitova]] tại chung kết để giành chức vô địch WTA Final đầu tiên. Cô kết thúc năm 2015 với vị trí thứ 5. |
Tại [[WTA Final 2015]], Radwanska nằm trong bảng đỏ cùng [[Simona Halep]], [[Maria Sharapova]] và [[Flavia Pennetta]]. Cô đã để thua [[Maria Yuryevna Sharapova|Sharapova]] và [[Flavia Pennetta|Pennetta]], nhưng sau đó đã đánh bại Halep để giành quyền lọt vào vòng sau. Tiếp đó cô đánh bại [[Garbiñe Muguruza]] tại bán kết và [[Petra Kvitova]] tại chung kết để giành chức vô địch WTA Final đầu tiên. Cô kết thúc năm 2015 với vị trí thứ 5. |
||
== Phong cách thi đấu, trang bị == |
== Phong cách thi đấu, trang bị == |
||
[[Tập tin:Agnieszka Radwanska 2013 Indian Wells.jpg|thumb|left|200px|Radwańska crouching forehand]] |
[[Tập tin:Agnieszka Radwanska 2013 Indian Wells.jpg|thumb|left|200px|Radwańska crouching forehand]] |
||
Radwanska là |
Radwanska là 1 tay vợt có chiến thuật thi đấu, khả năng phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân.<ref name="Journal">{{chú thích báo |first=Tom |last=Perrotta |title=The Subtlest Player at Wimbledon |work=[[The Wall Street Journal]] |date=ngày 2 tháng 7 năm 2012 |accessdate=ngày 3 tháng 9 năm 2012 |url=http://online.wsj.com/article/SB10001424052702304211804577502780985880106.html?mod=googlenews_wsj}}</ref> Cô có khả năng di chuyển linh hoạt, chơi bóng bền, xu hướng dự đoán hành vi của đối thủ<ref>{{chú thích báo |title=Agnieszka Radwanska – Victoria Azarenka Live |
||
|publisher=Yahoo.com |accessdate=ngày 22 tháng 1 năm 2014 |url=http://eurosport.yahoo.com/tennis/livematch/671632.html}}</ref><ref>{{chú thích báo |first=Kamakshi |last=Tandon |title= |
|publisher=Yahoo.com |accessdate=ngày 22 tháng 1 năm 2014 |url=http://eurosport.yahoo.com/tennis/livematch/671632.html}}</ref><ref>{{chú thích báo |first=Kamakshi |last=Tandon |title= |
||
Plenty to watch in women's semis |work=ESPN |date=ngày 22 tháng 1 năm 2014 |accessdate=ngày 22 tháng 1 năm 2014 |url=http://espn.go.com/tennis/aus14/story/_/id/10332051/australian-open-plenty-variety-women-semifinals}}</ref> |
Plenty to watch in women's semis |work=ESPN |date=ngày 22 tháng 1 năm 2014 |accessdate=ngày 22 tháng 1 năm 2014 |url=http://espn.go.com/tennis/aus14/story/_/id/10332051/australian-open-plenty-variety-women-semifinals}}</ref> |
Phiên bản lúc 11:17, ngày 13 tháng 2 năm 2016
Quốc tịch | Ba Lan |
---|---|
Nơi cư trú | Kraków, Ba Lan |
Sinh | 6 tháng 3, 1989 Kraków, Ba Lan |
Chiều cao | 1,72 m (5 ft 8 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ] |
Lên chuyên nghiệp | 2005 |
Tay thuận | Tay phải, revers hai tay |
Tiền thưởng | 21,777,713 USD |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 502–215 |
Số danh hiệu | 17 WTA, 2 ITF |
Thứ hạng cao nhất | No. 2 (9 tháng 7, 2012) |
Thứ hạng hiện tại | No. 5 (24 tháng 12, 2015) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | SF (2014) |
Pháp mở rộng | QF (2013) |
Wimbledon | F (2012) |
Mỹ Mở rộng | 4R (2007, 2008, 2012, 2013) |
WTA Finals | W (2015) |
Thế vận hội | Vòng 2 (2008) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 113–87 |
Số danh hiệu | 2 WTA, 2 ITF titles |
Thứ hạng cao nhất | No. 16 (10 tháng 10 năm 2011) |
Thứ hạng hiện tại | No. 207 (27 tháng 5 năm 2013) |
Thành tích đánh đôi Gland Slam | |
Úc Mở rộng | SF (2010) |
Pháp Mở rộng | QF (2009, 2010) |
Wimbledon | 3R (2007, 2011, 2012) |
Mỹ Mở rộng | SF (2011) |
Agnieszka "Aga" Radwańska là 1 vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Ba Lan. Radwańska đạt thứ hạng cao nhất là số 2 thế giới vào tháng 7 năm 2012. Được biết đến là 1 tay vợt biết cách xây dựng chiến thuật thi đấu cũng như lối chơi thông minh, phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân, Radwanska đã có được 17 danh hiệu đơn trong sự nghiệp.
Radwanska đã từng tiến sâu vào 1 giải Grand Slam đó là tại giải Wimbledon 2012 và đã để thua Serena Williams. Ngoài ra, còn vào được bán kết của Úc Mở rộng và tứ kết Roland Garros.
Ngoài ra, cô còn chơi ở nội dung đôi, từng đánh cặp với Maria Kirilenko và Daniela Hantuchová, nhưng sau năm 2010, Radwanska tập trung cho nội dung đơn và ít khi tham gia đánh đôi.
Radwanska được bình chọn là tay vợt nữ được yêu thích nhất của WTA trong 5 năm liên tiếp (2011-2015).[1] Với thành tích của mình trong thể thao, năm 2013, cô đã được Tổng thống Ba Lan Bronisław Komorowski trao tặng huy hiệu chữ thập vàng.
Cuộc sống cá nhân
Sinh ra tại Kraków, Radwanska bắt đầu tập chơi tennis từ năm 4 tuổi. Khi đó, cha cô đã giúp cô làm quen với tennis cũng như các môn thể thao khác. Em gái cô là Urszula Radwanska cũng là 1 vận động viên quần vợt. Cô hâm mộ Martina Hingis và Pete Sampras và lấy đó làm nguồn cảm hứng chơi tennis cho mình. Ngoài chơi tennis, Radwanska còn theo học ngành du lịch tại trường đại học tại Kraków.[2][3] Cô cũng là một tín đồ Công giáo La Mã, và từng tham gia vào chiến dịch "Nie wstydzę się Jezusa!" (Tôi chẳng lấy làm hổ thẹn vì đấng Kitô!) của Công giáo Ba Lan. Trong chiến dịch này, cô phát hành một video kêu gọi người hâm mộ "đừng hổ thẹn vì đức tin của mình" và dùng những quả bóng tennis để xếp thành dòng chữ "JEZUS" ("JESUS").[4]
Theo Forbes, vào năm 2012 cô là vận động viên nữ có thu nhập cao thứ 9 trên thế giới.[5]
Sự nghiệp
2005-2006: Những năm đầu trong sự nghiệp
Radwanska giành được danh hiệu tại giải trẻ Wimbledon 2005, đánh bại Tamira Paszek và tiếp tục có được danh hiệu tại giải trẻ Roland Garros 2006 sau chiến thắng trước Anastasia Pavlyuchenkova. Cô tham dự giải đấu WTA đầu tiên của mình là tại J & S Cup vào năm 2006 (sau này là Warsaw Open) ở Warsaw, đánh bại Anastasia Myskina trong trận đấu ra quân đầu tiên của mình và để thua trước Elena Dementieva ở trận tứ kết trong vòng 3 set đấu.[6]
Tại Wimbledon năm 2006, cô thua Kim Clijsters tại vòng 4, và sau đó thua tại vòng 2 của U.S Open. Tại giải đấu ở Luxembourg, Radwanska đã vượt qua cựu số 1 thế giới Venus Williams ở vòng 2 và Elena Dementieva tại tứ kết nhưng thua Francesca Schiavone ở bán kết.[6]
2007-2008: Danh hiệu WTA đầu tiên
Radwanska tham dự Úc Mở rộng 2007 nhưng cô thua Ana Ivanovic tại vòng 2. Tại Sony Ericsson Open năm 2007, cô đã đánh bại thần tượng của mình là Hingis[3] tại vòng 3. Nhưng cô phải rời khỏi giải đấu vì thua Tathiana Garbin tại vòng 4.[7] Tháng 8 năm 2007, Radwanska có thêm chức vô địch WTA tại Nordea Nordic Light sau khi thắng Vera Dushevina trong trận chung kết. Tại Mỹ Mở rộng 2007, Radwanska đã đánh bại tay vợt đương kim vô địch là Maria Sharapova tại vòng 3 nhưng sau đó để thua trước Shahar Pe'er ở vòng 4. Tại Úc Mở rộng 2008, cô đã lọt đến tứ kết sau khi thua Daniela Hantuchova. Tại Pháp Mở rộng, Radwanska thua Jelena Jankovic tại vòng 4. Tại Wimbledon, cô thua. Ở Mỹ Mở rộng, cô cũng thua tại vòng 4 trước Venus Williams. Tại WTA Championships, Radwanska được chọn để thay thế cho Ana Ivanovic bị chấn thương, có trận thắng sau 2 set trước Svetlana Kuznetsova. Radwanska kết thúc năm ở vị trí thứ 10. Tại Olympics Bắc Kinh, Radwanska đại diện cho nước Ba Lan để chơi tại đây, thua trước Schiavone tại vòng 2.
2009-2010
Tại giải Úc mở rộng, Radwańska bị loại tại vòng 1 sau khi thua Kateryna Bondarenko. Tại Pháp Mở rộng, cô thất bại tại vòng 4, thua Svetlana Kuznetsova. Cô và em gái Urszula tham dự nội dung đôi Pháp Mở rộng và cũng lọt đến tứ kết. Tại Wimbledon, Radwanska thua Venus Williams tại tứ kết. Radwańska có trận bán kết đôi đầu tiên là tại Tokyo, thua trước Maria Sharapova. Vào đến chung kết giải tại Trung Quốc, thua Kuznetsova. Agnieszka Radwanska tham dự nội dung đánh đôi tại Úc Mở rộng cùng với Maria Kirilenko, lọt đến bán kết, thua bộ đôi hạt giống số 1 và cũng là bộ đôi số 1 thế giới vào thời điểm đó Cara Black và Liezel Huber. Tại Pháp Mở rộng, cô cũng đánh đôi với Kirilenko, bộ đôi này cũng lọt đến tứ kết và thua Serena và Venus Williams. Tại Wimbledon, Radwańska lọt đến vòng 4, thua Li Na, người mà cô cũng từng đánh bại trong giai đoạn cùng kì năm trước. Do chấn thương, Radwanska phải kết thúc mùa giải 2010 sớm, sau trận thua Angelique Kerber tại giải China Open[8] và kết thúc năm ở ngoài top 10.
2011
Agnieszka lọt đến tứ kết Úc Mở rộng, nơi cô thua trước nhà vô địch năm đó Kim Clijsters với tỉ số 3–6 6–74–7. Tại Pháp Mở rộng, cô lại một lần nữa dừng bước ở vòng 4 sau trận thua Maria Sharapova. Tại Wimbledon, thua Petra Cetkovska của Cộng hòa Séc tại vòng 2. Ở US Open, cô thua Angelique Kerber tại vòng 2 sau khi đánh bại cô em Urszula Radwańska ở vòng 1. Radwanska có danh hiệu WTA tại Tokyo sau chiến thắng trước Vera Zvonareva. Tại China Open, Radwanska có được chức vô địch sau khi thắng Andrea Petkovic 7–5 0–6 6–4 trong trận chung kết. Radwanska giành được 1 suất tham dự WTA Championships với cương vị hạt giống số 8, dừng bước tại vòng bảng. Agnieszka Radwanska kết thúc năm 2011 ở vị trí số 8 thế giới.
2012: Lần đầu vào chung kết Grand Slam, vị trí số 2 thế giới
Năm 2012 được coi như 1 bước ngoặc trong sự nghiệp cua Agnieszka Radwanska. Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần thứ 3 phải dừng bước tại tứ kết, thua Victoria Azarenka sau 3 set. Radwanska có danh hiệu WTA tại Dubai sau chiến thắng trước Julia Goerges và danh hiệu tại Miami sau chiến thắng bất ngờ 7–5 6–4 trước Maria Sharapova. Trên mặt sân đất nện, Radwanska có danh hiệu WTA tại Brussels, (Bỉ) sau chiến thắng trước Simona Halep 7–5 6–0 ở trận chung kết. Tại Pháp Mở rộng, sau khi đánh bại Venus Williams tại vòng 2, Radwanska phải dừng bước tại vòng 3 sau trận thua trước Kuznetsova. Tại Wimbledon, Radwanska lần đầu tiên có mặt tại trận chung kết của giải và cũng là trận chung kết Grand Slam đầu tiên trong sự nghiệp, thua trước Serena Williams 1–6 7–5 2–6 trong trận chung kết. Tại Olympics London 2012, Radwanska đại diện cho nước Ba Lan tham dự với cương vị hạt giống số 2 nhưng cô lại thua 1 cách bất ngờ trước Julia Goerges 5–7 7–65–7 6–4 tại vòng một.[9] Tại US Open, Radwanska được xếp hạt giống số 2 nhưng lại thua trước hạt giống số 20 Roberta Vinci tại vòng 4 khiến cô rơi xuống vị trí số 4 thế giới. Tại WTA Championships, Radwanska lọt đến trận bán kết, thua Serena Williams 6–2 6–1. Radwanska kết thúc mùa giải 2012 ở vị trí số 4.
2013
Radwanska có 2 danh hiệu WTA liên tiếp tại Auckland sau chiến thắng trước Yanina Wickmayer 6–4 6–4 và tại Sydney, thắng Dominika Cibulkova 6–0 6–0 trong trận chung kết. Tại Úc Mở rộng, Radwanska có lần thứ 3 liên tiếp thất bại tại trận tứ kết, năm nay người đánh bại cô là Li Na, á quân năm đó. Tại Pháp Mở rộng, Radwanska lần đầu tiên vào tứ kết nhưng cô lại thua á quân năm 2012 Sara Errani 4–6 6–76–8. Tại Wimbledon, cô thua Sabine Lisicki trong trận bán kết 4–6 6–2 7–9. Khi Azarenka, Sharapova và cả Serena Williams chơi không tốt tại giải, thì Radwanska cũng không bắt đuọc cơ hội để có chức vô địch grand slam đầu tiên trong sự nghiệp. Radwanska cũng có những trận đấu chuẩn bị khá tốt trước thềm US Open. Đi đến bán kết Rogers Cup, thua Serena Williams 6–73–7 4–6. Radwanska bỏ cuộc tại tứ kết Cincinnati trong trận đấu gặp Li Na. Agnieszka Radwanska tiến đến Mỹ Mở rộng khi được xếp hạt giống số 3 (sau khi Maria Sharapova rút lui do chấn thương) nhưng cô lại 1 lần nữa không thoát khỏi ngưỡng cửa vòng 4 để lọt vào tứ kết, lần này, Radwanska thua tay vợt Nga Ekaterina Makarova 4–6 4–6. Sau Mỹ Mở rộng, Radwanska có được danh hiệu WTA thứ 3 trong mùa giải, giải đấu tại Seoul, Hàn Quốc sau chiến thắng 6–76–8 6–3 6–4 trước Anastasia Pavlyuchenkova. Cô còn tham dự China Open – giải đấu mà trước đây cô đã từng vô địch, dừng bước tại bán kết (thua Serena Williams 6–2 6–2). Radwanska tham dự WTA Championships với 1 tâm lý có vẻ không ổn định khiến cô thua cả 3 trận vòng bảng, thua Petra Kvitova 4–6 4–6, Serena Willams 2–6 4–6 và thua Angelique Kerber 2–6 2–6, điều đó khiến cô rơi khỏi top 4, kết thúc năm ở vị trí số 5 thế giới.
2014-2015: Vô địch WTA Final
Radwanska mở đầu năm 2014 khi cùng đồng đội là Grzegorz Panfil đại diện cho Ba Lan tham dự Hopman Cup, được xếp hạt giống số 1 và vào được trận chung kết. Tại chung kết gặp Pháp, cô đánh bại được Alize Cornet nhưng thua tại trận đôi nam nữ trước đội Pháp.[10] Tại Úc Mở rộng, Radwanska lần đầu tiên vào bán kết sau 5 năm thất bại tại tứ kết khi bất ngờ đánh bại nhà đương kim vô địch Victoria Azarenka 6–1 5–7 6–2 tại tứ kết, cô đã tạo nên 1 kết quả mà ít ai nghĩ tới. Tại Roger Cup (Montreal, Canada), Radwanska dành được chức vô địch khi đánh bại Venus Williams trong trận chung kết. Tại WTA Final, cô để thua trước Maria Sharapova và Caroline Wozniacki nhưng đã giành chiến thắng trước Petra Kvitová để lọt vào bán kết rồi dừng bước trước Simona Halep. Radwanska kết thúc năm 2014 với vị trí thứ 6.
Radwanska khởi đầu năm 2015 cùng đồng đội Jerzy Janowicz đại diện cho Ba Lan tham dự Hopman Cup, tại chung kết cô giành chiến thắng trước Serena Williams[11] và trong trận đánh đôi để giành chức vô địch cho đội Ba Lan.
Tại WTA Final 2015, Radwanska nằm trong bảng đỏ cùng Simona Halep, Maria Sharapova và Flavia Pennetta. Cô đã để thua Sharapova và Pennetta, nhưng sau đó đã đánh bại Halep để giành quyền lọt vào vòng sau. Tiếp đó cô đánh bại Garbiñe Muguruza tại bán kết và Petra Kvitova tại chung kết để giành chức vô địch WTA Final đầu tiên. Cô kết thúc năm 2015 với vị trí thứ 5.
Phong cách thi đấu, trang bị
Radwanska là 1 tay vợt có chiến thuật thi đấu, khả năng phòng ngự và phản công tốt ở cuối sân.[12] Cô có khả năng di chuyển linh hoạt, chơi bóng bền, xu hướng dự đoán hành vi của đối thủ[13][14]
Một trong những điểm yếu quan trọng của Radwanska là những cú giao bóng và trả giao bóng. Những cú phát bóng của cô có tốc độ khá chậm và dễ bị phản công. Các cú đánh của cô cũng khá thiếu lực.[15][16] Radwanska từng nói: "Tôi không nghĩ mình có thể phát bóng với tốc độ 200 km/h vì giới hạn cơ thể của mình", "Tôi phải làm điều gì khác. Tôi sinh ra để chơi theo kiểu này.[17]. Radwanska chỉ thở mạnh ra khi cô đánh bóng, thay vì la hét lớn như nhiều đồng nghiệp của cô. Cô không nhồi bóng quá bốn lần trước khi phát bóng.
Radwanska sử dụng vợt Babolat Pure Drive Lite, và trang phục thi đấu của Lotto. Ngoài ra cô cũng có hợp tác với các hãng Lexus, Rado, Amica, Cheesecake Factory, Vanquis Bank, ..., logo của các hãng này xuất hiện trên trang phục thi đấu của cô tùy theo mùa giải.
Huấn luyện viên
Radwanska bắt đầu sự nghiệp quần vợt dưới sự hướng dẫn của cha cô - Robert Radwański.[18]
Trong năm 2011, Radwanska bắt đầu làm việc với huấn luyện viên Tomasz Wiktorowski.
Cuối năm 2014, Radwanska mời huyền thoại quần vợt nữ Martina Navratilova vào đội ngũ huấn luyện của mình. Trong tháng 4 năm 2015, họ chia tay sau khi Navratilova nói rằng cô quá bận rộn và không thể tiếp tục công việc.[19]
Thành tích tại các giải Grand Slam
W = vô địch
F = á quân
SF = bán kết
QF = tứ kết
1R, 2R, 3R, 4R = vòng 1, vòng 2, vòng 3, vòng 4
Nội dung đánh đơn
Tournament | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | SR | W–L | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Grand Slam Tournaments | ||||||||||||||||||||
Australian Open | A | 2R | QF | 1R | 3R | QF | QF | QF | SF | 4R | 0 / 9 | 27–9 | ||||||||
French Open | A | 1R | 4R | 4R | 2R | 4R | 3R | QF | 3R | 1R | 0 / 9 | 18–9 | ||||||||
Wimbledon | 4R | 3R | QF | QF | 4R | 2R | F | SF | 4R | SF | 0 / 10 | 36–10 | ||||||||
US Open | 2R | 4R | 4R | 2R | 2R | 2R | 4R | 4R | 2R | 3R | 0 / 9 | 17–9 | ||||||||
Thắng-Thua | 4–2 | 6–4 | 14–4 | 8–4 | 7–4 | 9–4 | 15–4 | 16–4 | 11–4 | 10-4 | 0 / 37 | 98–37 |
Chung kết: 1 (Á quân)
Năm | Giải đấu | Đối thủ tại chung kết | Tỉ số |
2012 | Wimbledon Championships | Serena Williams | 6–1 5–7 6–2 |
Nội dung đánh đôi
Tournament | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | SR | W–L | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Grand Slam Tournaments | ||||||||||||||||||||
Australian Open | 1R | 1R | 2R | SF | 3R | 3R | A | A | A | 0 / 6 | 9–6 | |||||||||
French Open | 3R | 1R | QF | QF | 1R | 2R | A | A | A | 0 / 6 | 9–6 | |||||||||
Wimbledon | 3R | 2R | 1R | 2R | 3R | 3R | A | A | A | 0 / 6 | 8–6 | |||||||||
US Open | 2R | 1R | 1R | 3R | SF | A | A | A | 0 / 5 | 7–5 | ||||||||||
Thắng-Thua | 5–4 | 1–4 | 4–4 | 10–4 | 8–4 | 5–3 | 0–0 | 0–0 | 0–0 | 0 / 23 | 33–23 |
Các trận chung kết WTA Tour
Đánh đơn: 24 (17 vô địch, 7 á quân)
|
|
Kết quả | No. | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 1. | 5 tháng 8, 2007 | Nordea Nordic Light Open, Stockholm, Sweden | Cứng | Vera Dushevina | 6–1, 6–1 |
Vô địch | 2. | 10 tháng 2, 2008 | Pattaya Women's Open, Pattaya, Thailand | Cứng | Jill Craybas | 6–2, 1–6, 7–6(7–4) |
Vô địch | 3. | 19 tháng 5, 2008 | İstanbul Cup, Istanbul, Turkey | Đất nện | Elena Dementieva | 6–3, 6–2 |
Vô địch | 4. | 21 tháng 6, 2008 | International Women's Open, Eastbourne, United Kingdom | Cỏ | Nadia Petrova | 6–4, 6–7(11–13), 6–4 |
Á quân | 1. | 11 tháng 10, 2009 | China Open, Beijing, China | Cứng | Svetlana Kuznetsova | 2–6, 4–6 |
Á quân | 2. | 8 tháng 8, 2010 | Mercury Insurance Open, San Diego, United States | Cứng | Svetlana Kuznetsova | 4–6, 7–6(9–7), 3–6 |
Vô địch | 5. | 7 tháng 8, 2011 | Mercury Insurance Open, San Diego, United States | Cứng | Vera Zvonareva | 6–3, 6–4 |
Vô địch | 6. | 1 tháng 10, 2011 | Toray Pan Pacific Open, Tokyo, Japan | Cứng | Vera Zvonareva | 6–3, 6–2 |
Vô địch | 7. | 9 tháng 10, 2011 | China Open, Beijing, China | Cứng | Andrea Petkovic | 7–5, 0–6, 6–4 |
Vô địch | 8. | 25 tháng 2, 2012 | Dubai Tennis Championships, Dubai, United Arab Emirates | Cứng | Julia Görges | 7–5, 6–4 |
Vô địch | 9. | 30 tháng 3, 2012 | Sony Ericsson Open, Miami, United States | Cứng | Maria Sharapova | 7–5, 6–4 |
Vô địch | 10. | 26 tháng 5, 2012 | Brussels Open, Brussels, Belgium | Đất nện | Simona Halep | 7–5, 6–0 |
Á quân | 3. | 7 tháng 7, 2012 | Wimbledon Championships, London, United Kingdom | Cỏ | Serena Williams | 1–6, 7–5, 2–6 |
Á quân | 4. | 29 tháng 9, 2012 | Toray Pan Pacific Open, Tokyo, Japan | Cứng | Nadia Petrova | 0–6, 6–1, 3–6 |
Vô địch | 11. | 6 tháng 1, 2013 | ASB Classic, Auckland, New Zealand | Cứng | Yanina Wickmayer | 6–4, 6–4 |
Vô địch | 12. | 11 tháng 1, 2013 | Apia International Sydney, Sydney, Australia | Cứng | Dominika Cibulková | 6–0, 6–0 |
Á quân | 5. | 29 tháng 7, 2013 | Bank of the West Classic, Stanford, United States | Cứng | Dominika Cibulková | 6–3, 4–6, 4–6 |
Vô địch | 13. | 22 tháng 9, 2013 | KDB Korea Open, Seoul, South Korea | Cứng | Anastasia Pavlyuchenkova | 6–7(6–8), 6–3, 6–4 |
Á quân | 6. | 16 tháng 3, 2014 | BNP Paribas Open, Indian Wells, United States | Cứng | Flavia Pennetta | 2–6, 1–6 |
Vô địch | 14. | 10 tháng 8, 2014 | Rogers Cup, Montreal, Canada | Cứng | Venus Williams | 6–4, 6–2 |
Á quân | 7. | 27 tháng 6, 2015 | Aegon International, Eastbourne, United Kingdom | Cỏ | Belinda Bencic | 4–6, 6–4, 0–6 |
Vô địch | 15. | 27 tháng 9, 2015 | Toray Pan Pacific Open, Tokyo, Japan (2) | Cứng | Belinda Bencic | 6–2, 6–2 |
Vô địch | 16. | 18 tháng 10, 2015 | Tianjin Open, Tianjin, China | Cứng | Danka Kovinić | 6–1, 6–2 |
Vô địch | 17. | 1 tháng 11, 2015 | WTA Finals, Singapore | Cứng (i) | Petra Kvitová | 6−2, 4−6, 6−3 |
Đánh đôi: 4 (2 vô địch, 2 á quân)
|
|
Kết quả | No. | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 1. | 21 tháng 5, 2007 | İstanbul Cup, Istanbul, Turkey | Đất nện | Urszula Radwańska | Chan Yung-jan Sania Mirza |
6–1, 6–3 |
Á quân | 1. | 22 tháng 2, 2009 | Dubai Tennis Championships, Dubai, United Arab Emirates | Cứng | Maria Kirilenko | Cara Black Liezel Huber |
3–6, 3–6 |
Á quân | 2. | 9 tháng 8, 2009 | LA Women's Tennis Championships, Los Angeles, United States | Cứng | Maria Kirilenko | Chuang Chia-jung Yan Zi |
0–6, 6–4, [7–10] |
Vô địch | 2. | 3 tháng 4, 2011 | Sony Ericsson Open, Miami, United States | Cứng | Daniela Hantuchová | Liezel Huber Nadia Petrova |
7–6(7–5), 2–6, [10–8] |
Chú thích
- ^ “WTA Awrads”. wtatennis.com. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014.
- ^ “WTA Profile”. wtatennis.com. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2012.
- ^ a b Bodo, Pete (ngày 31 tháng 3 năm 2012). “Born This Way”. tennis.com. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Radwańska lepsza niż dyplomacja Tuska”. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2013.
- ^ Badenhausen, Kurt. “The World's Highest-Paid Female Athletes”. Forbes.
- ^ a b “2006 Results”. tennis.com. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2012.
- ^ “2007 Results”. ESPN. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2011.
- ^ Tennis – Yahoo! Eurosport. Uk.eurosport.yahoo.com. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
- ^ “Radwanska makes shock exit”. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2012.
- ^ “France prevails in thriller over Poland at Hopman Cup final”. couriermail.com.au. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2014.
- ^ Roopanarine, Les (ngày 10 tháng 1 năm 2015). “Serena Williams beaten by Agnieszka Radwanska as Poland win Hopman Cup”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2015.
- ^ Perrotta, Tom (ngày 2 tháng 7 năm 2012). “The Subtlest Player at Wimbledon”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Agnieszka Radwanska – Victoria Azarenka Live”. Yahoo.com. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2014.
- ^ Tandon, Kamakshi (ngày 22 tháng 1 năm 2014). “Plenty to watch in women's semis”. ESPN. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2014.
- ^ “The Toss: Can Agnieszka Radwanska take her game to next level?”. SI. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
- ^ 21 tháng 12 năm 2012/201212201356003427911.html “AO SWOT #8 Agnieszka Radwanska” Kiểm tra giá trị
|url=
(trợ giúp). Australian Open. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2012. - ^ “The Subtlest Player at Wimbledon”. The Wall Street Journal.
- ^ “tennis.com”. Truy cập 26 tháng 10 năm 2015.
- ^ http://edition.cnn.com/2015/04/25/tennis/martina-navratilova-radwanska-tennis/
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Agnieszka Radwańska. |