Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Chiêu Hoàng”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 51: | Dòng 51: | ||
}} |
}} |
||
[[Tập tin:Toda No. 16 元豐通寶.png|nhỏ|Tiền cuối thời Lý đầu thời Trần.]] |
[[Tập tin:Toda No. 16 元豐通寶.png|nhỏ|Tiền cuối thời Lý đầu thời Trần.]] |
||
'''Lý Chiêu Hoàng''' ([[chữ Hán]]: 李昭皇 [[Tháng 9]], [[1218]] - [[Tháng 3]], [[1278]]) còn gọi là '''Lý Phế hậu''' (李廢后) hay '''Chiêu Thánh Hoàng hậu''' (昭聖皇后), là [[hoàng đế]] thứ 9 và cũng là cuối cùng của triều đại [[nhà Lý]], trị vì từ năm [[1224]] đến năm [[1225]]. Bà là [[nữ hoàng]] duy nhất của [[lịch sử Việt Nam]], nhưng không phải vua bà đầu tiên, nếu như tính nữ |
'''Lý Chiêu Hoàng''' ([[chữ Hán]]: 李昭皇 [[Tháng 9]], [[1218]] - [[Tháng 3]], [[1278]]) còn gọi là '''Lý Phế hậu''' (李廢后) hay '''Chiêu Thánh Hoàng hậu''' (昭聖皇后), là [[hoàng đế]] thứ 9 và cũng là cuối cùng của triều đại [[nhà Lý]], trị vì từ năm [[1224]] đến năm [[1225]]. Bà là [[nữ hoàng]] duy nhất của [[lịch sử Việt Nam]], nhưng không phải vua bà đầu tiên, nếu như tính nữ vương [[Trưng Trắc]].<ref>[https://vnexpress.net/thoi-su/chuyen-it-biet-ve-nu-hoang-duy-nhat-o-viet-nam-3343070.html Chuyện ít biết về nữ hoàng duy nhất ở Việt Nam]</ref><ref>Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ hoàng duy nhất nhưng không phải là vị vua là nữ duy nhất, bởi trước đó [[Hai Bà Trưng|Trưng Trắc]] đã lên làm [[Nữ vương]].<br>Việc này có thể giải thích như sau: "Nữ Vương" và "Nữ hoàng" đều có nghĩa là vị [[quân chủ]] mang giới tính nữ, nhưng [[Hoàng đế]] thì lớn hơn [[Vương]]. Trưng vương là Nữ vương, còn Chiêu Hoàng là Nữ hoàng, cả hai bà đều là người duy nhất mang tước hiệu của mình, nhưng cả hai bà đều là Nữ quân chủ của lịch sử Việt Nam.</ref> Đặc biệt hơn, bà được chính vua cha [[Lý Huệ Tông]] ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong là sự sắp đặt đầy cưỡng ép của Điện tiền Chỉ huy sứ [[Trần Thủ Độ]], đang nắm quyền lực trong triều, cũng là chú họ bên ngoại của bà. |
||
Năm [[1225]], Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh ([[Trần Thái Tông]]), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành [[hoàng hậu|Chiêu Thánh hoàng hậu]] của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm [[1237]] (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. [[Thuận Thiên (công chúa)|Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu]], người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà. |
Năm [[1225]], Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh ([[Trần Thái Tông]]), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành [[hoàng hậu|Chiêu Thánh hoàng hậu]] của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm [[1237]] (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. [[Thuận Thiên (công chúa)|Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu]], người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà. |
Phiên bản lúc 11:06, ngày 26 tháng 6 năm 2019
Lý Chiêu Hoàng 李昭皇 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Việt Nam | |||||||||
Tập tin:LýChiêuHoàng.jpg | |||||||||
Nữ hoàng Đại Việt | |||||||||
Tại vị | 1224 - 1225 | ||||||||
Nhiếp chính | Trần Thủ Độ | ||||||||
Tiền nhiệm | Lý Huệ Tông | ||||||||
Kế nhiệm | Triều đại Lý sụp đổ Trần Cảnh(Nhà Trần) | ||||||||
Hoàng hậu Đại Việt | |||||||||
Tại vị | 1225 - 1237 | ||||||||
Tiền nhiệm | Hoàng hậu đầu tiên của nhà Trần Nhà Lý: Thuận Trinh Hoàng hậu | ||||||||
Kế nhiệm | Hiến Từ Thuận Thiên Hoàng hậu | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | Tháng 9, 1218 Thăng Long | ||||||||
Mất | Tháng 3, 1278 Cổ Pháp | ||||||||
An táng | rừng Báng | ||||||||
Phu quân | Trần Thái Tông Lê Phụ Trần | ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Tước hiệu | Chiêu Thánh công chúa Chiêu Hoàng Hoàng hậu | ||||||||
Triều đại | Nhà Lý | ||||||||
Thân phụ | Lý Huệ Tông | ||||||||
Thân mẫu | Linh Từ Quốc mẫu |
Lý Chiêu Hoàng (chữ Hán: 李昭皇 Tháng 9, 1218 - Tháng 3, 1278) còn gọi là Lý Phế hậu (李廢后) hay Chiêu Thánh Hoàng hậu (昭聖皇后), là hoàng đế thứ 9 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là nữ hoàng duy nhất của lịch sử Việt Nam, nhưng không phải vua bà đầu tiên, nếu như tính nữ vương Trưng Trắc.[1][2] Đặc biệt hơn, bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong là sự sắp đặt đầy cưỡng ép của Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, đang nắm quyền lực trong triều, cũng là chú họ bên ngoại của bà.
Năm 1225, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà.
Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm.
Thân thế
Chiêu Hoàng ban đầu có tên là Lý Phật Kim (李佛金), sau đổi là Lý Thiên Hinh (李天馨) là con gái thứ hai của Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu Trần thị, sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần (1218) tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt, tước hiệu là Chiêu Thánh công chúa (昭聖公主). Mẹ bà là Linh Từ Quốc mẫu, là em gái ruột của Trần Thừa (cha của Trần Cảnh và Trần Liễu).
Bà có một chị gái là Thuận Thiên công chúa, sau được gả cho Khâm Minh Đại vương Trần Liễu, là con trưởng của Trần Thừa và là anh trưởng của Trần Cảnh.
Hoàng đế cuối cùng
Nhà Lý đã suy yếu từ thời ông nội Lý Chiêu Hoàng là Lý Cao Tông. Đến khi cha bà là Lý Huệ Tông lên ngôi, thì chính quyền nhà Lý đã quá suy yếu, để các thế lực khác tranh chấp. Khi bà được sinh ra thì mẹ bà, Thuận Trinh Hoàng hậu Trần thị, em gái của Trần Tự Khánh và Trần Thừa đã là Hoàng hậu.
Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), tháng 10, Lý Huệ Tông không có con trai, ông phải lập Chiêu Thánh công chúa làm Hoàng thái nữ (皇太女), rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道), với tôn hiệu là Chiêu Hoàng (昭皇).
Năm Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225), họ Trần do nắm quyền hành, lần lượt được ban tước quan trọng cho con em trong họ. Trần Bất Cập là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú được phong Cận Thị thự Lục cục Chi hậu[3], Trần Thiêm làm Chi Ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ.
Trần Cảnh là con quan Thái úy Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập.
Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11 dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông.[4] Chiêu Hoàng được Thái Tông phong làm Hoàng hậu.
Từ đây, nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị.
Đại Việt sử ký toàn thư
Đại Việt Sử ký Toàn thư chép:
“ |
... Một hôm, Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn chầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?" Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn chầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: "Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết". |
” |
— Đại Việt Sử ký Toàn thư |
Đại Việt sử lược
Sự việc do Đại Việt sử lược chép lại khác đi so với Toàn thư. So với Toàn thư, Đại Việt sử lược là sách xưa hơn (vào khoảng thời Trần, còn Toàn thư là thời Hậu Lê) nên thông tin cũng rất đáng tham khảo. Sách này lại giáng tước vị hoàng gia của nhà Trần thành tước Vương.
“ |
Năm Ất Dậu [năm 1225-ND] là năm Kiến Gia thứ 15. Tháng 6, nhà vua nhường ngôi cho con thứ hai là Chiêu Thánh công chúa. Chiêu Thánh lên ngôi lấy hiệu là Chiêu Vương, tôn vua Huệ Tông làm Thái thượng vương, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo. Mùa đông, tháng 11, Thái thượng vương thấy Nữ vương còn nhỏ, lấy làm lo âu mới cho mời Phùng Tá Chu đến mà định mưu nói rằng: "Trẫm vì không có đức, Trẫm mắc tội với trời, cho nên bị tuyệt hậu, không có con để nối dõi. Nay Trẫm truyền ngôi cho con gái, nhưng thấy một người đàn bà mà khiến bảo đám đàn ông, như có điều là bọn chúng không giúp cho, tất đến lúc hối hận lại thì cơ nghiệp đã mất rồi. Chi bằng Trẫm theo cái phép thuở xa xưa của Đường Nghiêu, cái thể thức gần đây là Nhân Tổ (tức Lý Nhân Tông), để kén chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay có điều Trẫm thấy là mỗ người con thứ hai của Thái úy (Trần Thừa) tuổi hãy còn nhỏ mà tướng mạo khác thường, tất có thể giúp đời, yên dân. Cho nên, Trẫm muốn dùng làm con mà làm chủ cơ nghiệp nước nhà. Vả lại, Trẫm thấy Chiêu vương cũng xứng đôi với mỗ. Các khanh hãy vì Trẫm mà nói với quan Thái úy rõ". Thái Tổ (Trần Thừa) cũng chưa tin điều ấy. Quan Tả phụ là Nguyễn Chánh Lại bảo rằng: "Họ Nguyễn (tức họ Lý, do sách này viết vào thời Trần) có nước đấy. Vua hiền thì có đến sáu, bảy người gầy dựng nên cơ nghiệp, mà cái đức của họ lại có thừa, để lại cái ơn trạch thấm nhuần vào lòng người đã lâu dài rồi. Một sớm, nhà vua sợ có người khác họ làm việc kế tự nên mới có ý thăm dò thử, để xem cái ý của ta như thế nào đấy. Nếu ta nhân đó mà nhận lời, thiên hạ tất sẽ bảo Thái úy thực đã có ý soán nghịch". Thái úy (Trần Thừa) muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại thì quan Thượng phẩm Phụng ngự là Trần Thủ Độ nói rằng: "Lời Tả phụ sai rồi! Nếu mà vương thượng có con trai mà lại nhường ngôi cho Nhị lang (tức Trần Cảnh) thì việc trái nghĩa ấy ta không thể vâng chiếu được. Nay, Vương thượng không người kế tự, ý muốn chọn người hiền để phó thác ngôi cao. Đó là vương bắt chước việc nhường ngôi của Nghiêu Thuấn thuở xa xưa. Vậy mà lo ngại nữa sao? Huống chi, ngôi chí tôn không thể để khuyết lâu, mà ý thoái lui của vương thượng thì đã quyết, vương thượng đã dứt khoát chọn người khác họ để cho nối ngôi, liệu ta không muốn nghe theo mà được chăng? Nhị lang được vương thượng chọn cũng là ý trời, trời đã ban cho mà không nhận là có tội ấy. Xin quan Thái úy hãy xét kỹ". Mùa thu, tháng chạp nhà vua sai quan Nội thị Phán thủ là Phùng Tá Chu, quan Nội hành khiển Tả ty Lang trung là Trần Chí Hoành, các tướng văn võ trong ngoài và các viên quan lại hãy quản lãnh thuyền rồng, chuẩn bị pháp giá đến phủ Cương Tinh mà đón Thái tổ ta (Trần Thừa). Đến ngày mùng một tháng chạp năm đó [năm Ất Dậu-1225] con của Trần Thừa là Trần Cảnh nhân việc nhường ngôi mà lên làm vua ở tại điện Thiên An. Rồi tôn Thuận Trinh Vương hậu làm Thái hậu và giáng Chiêu vương xuống làm Chiêu Thánh Vương hậu. Đổi niên hiệu là Kiến Trung. Thái thượng vương cùng với mẹ của ngài là bà Thái hậu Đàm thị đi ra ở nơi chùa Phù Liệt, lấy hiệu là Huệ Quang Thiền sư. |
” |
— Đại Việt sử lược |
Theo đó, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 6 năm Ất Dậu (năm 1225) và nhường ngôi vào tháng 11, chỉ vỏn vẹn gần nửa năm trên ngai vàng.
Sự việc Phùng Tá Chu khuyên can không được ghi chi tiết ở Toàn thư, tuy nhiên khi ghi chép về sự việc nhường ngôi thì Ngô Sĩ Liên có phê rằng: "Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý." Điều này chứng tỏ thông tin Phùng Tá Chu dẫn việc Lữ hậu Võ hậu ảnh hưởng chuyện Huệ Tông quyết định chọn Trần Cảnh làm rể của Đại Việt sử lược là chính xác.
Hoàng hậu Đại Việt
Bị phế truất
Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được phong làm Hoàng hậu, trở thành vị Hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 7 tuổi. Bà chung sống với Thái Tông Hoàng đế hơn 10 năm, tình cảm khá sâu sắc, được Thái Tông rất yêu thương và kính trọng.
Năm Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình thứ 2 (1233), Lý Hoàng hậu hạ sinh ra Thái tử Trần Trịnh (陳鄭), nhưng Thái tử chết ngay sau khi sinh không lâu[5].
Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), Thái sư Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Lý Thiên Hinh để lấy chị dâu là Thuận Thiên công chúa đang có thai 3 tháng. Thái Tông Hoàng đế phản đối, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử nương nhờ. Thái sư vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng hoàng đế cũng phải chịu nghe theo.
Thuận Thiên công chúa được lập làm Hoàng hậu thay thế. Lý Thiên Hinh bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa, không rõ hành trạng của bà trong thời gian sau khi bị giáng tước.
Vì chuyện này, Hoài vương Trần Liễu nổi loạn ở sông Cái, nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết, tuy nhiên Trần Thủ Độ dựa vào tội trạng của Liễu mà giáng Liễu làm An Sinh vương (安生王), được ban các vùng Yên Sinh, Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Hưng, Yên Bang làm ấp thang mộc. Những tướng sĩ, quân lính đi theo làm loạn đều bị xử tử.
Tái giá với Lê Phụ Trần
Năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), sau cuộc chiến với quân đội Mông Cổ vào năm 1258, Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh công chúa cho Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần, một thuộc tướng dòng dõi của Lê Đại Hành. Lê Phụ Trần vốn tên Lê Tần (黎秦), người Ái Châu, con của danh tướng Lê Khâm có công giúp Trần Thái Tổ đánh dẹp Hoài Đạo vương Nguyễn Nộn.
Chiêu Thánh công chúa sống với Lê Phụ Trần được 20 năm, sinh ra con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Lê Ngọc Khuê. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê chê trách nặng lời việc vua Trần Thái Tông mang bà là vợ cũ gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi.
Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này:
- Trách người quân tử bạc tình
- Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao![6]
Qua đời
Đầu năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), tháng 3, Chiêu Thánh công chúa qua đời, thọ 61 tuổi[7]. Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm 1277).
Tương truyền, bà về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh) thì qua đời tại đó, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào[8]. Bà được táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức. Bà được người đời sau lập đền thờ, gọi là Long miếu (đền Rồng). Sở dĩ Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý[8].
Sách Việt sử tiêu án có chép lại thuyết dân gian rằng bà đã nhảy hồ tự sát. Nguyên văn: "Bà Chiêu Thánh mất. Bà đã bị giáng là Công chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy mất đã 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy."
Đền thờ của bà hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh), còn gọi là Đền Rồng. Tháng 1 năm 2009, đền được nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Tháng 4 năm 2009, đền đã bị đập bể hoàn toàn để chuẩn bị xây dựng mới, gây đau lòng cho người dân[9].
Nhà thơ Tản Đà có bài thơ Vịnh Lý Chiêu Hoàng như sau:
- Quả núi Tiên Sơn có nhớ công
- Mà em đem nước để theo chồng
- Ấy ai khôn khéo tài dan díu
- Những chuyện hoa tình có biết không?
- Một gốc mận già[10] thôi cũng phải
- Hai trăm năm lẻ thế là xong
- Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo[11]
- Khách khứa nhà ai áo mũ đông
Quan hệ với Trần Bình Trọng
Sử sách không ghi chép giữa bà với Trần Bình Trọng có quan hệ ruột thịt gì hay không, ngoài yếu tố Bình Trọng là con cháu hậu duệ vua Lê Đại Hành, còn Phụ Trần thì mang họ Lê.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng Lê Phụ Trần là cha của Trần Bình Trọng và Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng[12]. Nếu đúng là như vậy, thì Lý Chiêu Hoàng là một tổ mẫu nhiều đời của Trần Minh Tông, cháu 4 đời của Trần Thái Tông, vì mẹ của Minh Tông là Chiêu Từ Thái hậu, con gái của Trần Bình Trọng cùng Thụy Bảo công chúa, một người con gái lớn của Trần Thái Tông.
Tham khảo
- Nhiều tác giả (2006), Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nhà Xuất bản Hà Nội.
- Lê Thái Dũng (2008), Giở trang sử Việt, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
Chú thích
- ^ Chuyện ít biết về nữ hoàng duy nhất ở Việt Nam
- ^ Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ hoàng duy nhất nhưng không phải là vị vua là nữ duy nhất, bởi trước đó Trưng Trắc đã lên làm Nữ vương.
Việc này có thể giải thích như sau: "Nữ Vương" và "Nữ hoàng" đều có nghĩa là vị quân chủ mang giới tính nữ, nhưng Hoàng đế thì lớn hơn Vương. Trưng vương là Nữ vương, còn Chiêu Hoàng là Nữ hoàng, cả hai bà đều là người duy nhất mang tước hiệu của mình, nhưng cả hai bà đều là Nữ quân chủ của lịch sử Việt Nam. - ^ Chức chi hậu ở sáu cục của Cận Thị thự, là thự giữ việc hầu cận Hoàng đế.
- ^ “Nhà Lý (21/11/1009-10[20]/1/1226)- Xây dựng và bảo vệ đất nước”.
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư - kỷ nhà Trần, Thái Tông Hoàng đế: "Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 [1233]; Hoàng thái tử Trịnh mất. (Xét phép chép sử: Hoàng thái tử sinh, tất phải chép rõ ngày, tháng, năm sinh; khi mất cũng thế. Đây chỉ chép khi mất, có lẽ là vừa mới sinh đã chết ngay, nên không chép ngày tháng sinh).
- ^ Tuyển tập Nguyễn Tường Phượng, Nhà Xuất bản Văn học, 1996, tr. 585.
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư: Bản kỷ - Kỷ nhà Trần: Thánh Tông Hoàng đế
- ^ a b Lê Thái Dũng, sách đã dẫn, tr. 69.
- ^ Vụ đập nát để xây mới đền thờ Lý Chiêu Hoàng... trên báo Thanh Niên ra ngày 12 tháng 4 năm 2009.
- ^ Mận là chữ Lý, ám chỉ nhà Lý đã suy.
- ^ Chùa Chân Giáo là nơi Lý Huệ Tông đi tu sau khi bị Trần Thủ Độ ép rời ngôi.
- ^ Trần Bá Chi (2005), "Bàn thêm về sự nghiệp cứu nước và hậu duệ của Lê Hoàn", trong cuốn Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nhà Xuất bản Hà Nội.
Xem thêm
- Nhà Lý
- Nhà Trần
- Trần Thái Tông
- Trần Thủ Độ
- Lý Huệ Tông
- Hoàng hậu Thuận Thiên
- Lê Phụ Trần
- Linh Từ Quốc Mẫu
- Trần Liễu
Liên kết ngoài
- Lý Chiêu Hoàng trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Vụ đập nát để xây mới đền thờ Lý Chiêu Hoàng... trên báo Thanh Niên ra ngày 12 tháng 4 năm 2009.