Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nauru”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: replaced: {{tham khảo}} → {{tham khảo|2}} using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 63: Dòng 63:
Từ [[tháng mười hai|tháng 12]], [[2005]] đến [[tháng chín|tháng 9]], [[2006]], Nauru trở nên cô lập một phần với thế giới khi hãng hành không duy nhất của quốc gia này là [[Our Airline|Air Nauru]] bị ngừng hoạt động. Cách tiếp cận duy nhất khi đó đến Nauru là qua các tàu biển. Sau đó hoạt động của hãng đã được phục hồi dưới các tên mới là [[Our Airline]] nhờ tiền trợ giúp từ [[Đài Loan]]. Hòn đảo có một sân bay là [[Sân bay quốc tế Nauru|Sân bay Quốc tế Nauru]].
Từ [[tháng mười hai|tháng 12]], [[2005]] đến [[tháng chín|tháng 9]], [[2006]], Nauru trở nên cô lập một phần với thế giới khi hãng hành không duy nhất của quốc gia này là [[Our Airline|Air Nauru]] bị ngừng hoạt động. Cách tiếp cận duy nhất khi đó đến Nauru là qua các tàu biển. Sau đó hoạt động của hãng đã được phục hồi dưới các tên mới là [[Our Airline]] nhờ tiền trợ giúp từ [[Đài Loan]]. Hòn đảo có một sân bay là [[Sân bay quốc tế Nauru|Sân bay Quốc tế Nauru]].


== Lịch sử ==
==Lịch sử==
[[File:Nauruan-warrior-1880ers.jpg|thumb|left|upright|Chiến binh người Nauru, 1880]]
{{bài chính|Lịch sử Nauru}}
Người Micronesia và người Polynesia là những người đầu tiên sinh sống tại Nauru, ít nhất là từ 3.000 năm trước.<ref name="UNCCD">{{cite web|author=Nauru Department of Economic Development and Environment|year=2003|url=http://www.unccd.int/cop/reports/asia/national/2002/nauru-eng.pdf |archiveurl=http://web.archive.org/web/20110722013720/http://www.unccd.int/cop/reports/asia/national/2002/nauru-eng.pdf |archivedate=2011-07-22 |title=First National Report To the United Nations Convention to Combat Desertification|publisher=UNCCD|accessdate=25 June 2012}}</ref> Theo truyền thống, có 12 thị tộc hay bộ tộc tại Nauru, được đại diện bằng một sao 12 cánh trên [[quốc kỳ Nauru|quốc kỳ]].<ref>{{cite journal|last=Whyte|first=Brendan|title=On Cartographic Vexillology|journal=Cartographica: The International Journal for Geographic Information and Geovisualization|year=2007|volume=42|issue=3|pages=251–262|doi=10.3138/carto.42.3.251}}</ref> Cũng theo truyền thống, người Nauru truy nguồn gốc của họ theo mẫu hệ. Các cư dân trên đảo làm nghề nuôi trồng thủy sản: họ bắt [[Cá măng sữa| cá ''ibija'']] còn nhỏ, cho chúng thích nghi với môi trường nước ngọt, và nuôi chúng tại phá Buada, chúng cung cấp cho người dân trên đảo một nguồn thực phẩm ổn định. Trong thành phần bữa ăn của họ có các loại quả được trồng tại địa phương gồm dừa và [[Pandanus tectorius|dứa dại]].<ref name=pollock>{{Cite book| author=Pollock, Nancy J|chapter=5: Social Fattening Patterns in the Pacific—the Positive Side of Obesity. A Nauru Case Study|editor=De Garine, I|title=Social Aspects of Obesity|pages=87–111|publisher=Routledge|year=1995}}</ref><ref name=spennemann/> Tên gọi "Nauru" có thể bắt nguồn từ ''Anáoero,'' trong tiếng Nauru, có nghĩa là "Tôi đi đến bãi biển".<ref name=west>{{cite encyclopedia|encyclopedia=Encyclopedia of the Peoples of Asia and Oceania|title=Nauruans: nationality|pages=578–580|last=West|first=Barbara A|isbn=978-1-4381-1913-7|year=2010|publisher=Infobase Publishing}}</ref>
[[Tập tin:Nauru Island under attack by Liberator bombers of the Seventh Air Force..jpg|nhỏ|phải|Trong năm 1943, [[Không quân Hoa Kỳ]] đã ném bom các sân bay Nhật Bản trên đảo Nauru, phá hủy khoảng 15 máy bay chiến đấu của [[Nhật Bản]]]]
[[Tập tin:Nauruan-warrior-1880ers.jpg|nhỏ|trái|100px|Chiến binh Nauru, 1880]]
Nauru được định cư đầu tiên bởi những người Micronesia và Polynesia vào khoảng ít nhất 3.000 năm trước đây.<ref name="UNCCD">Nauru Department of Economic Development and Environment. 2003. [http://www.unccd.int/cop/reports/asia/national/2002/nauru-eng.pdf First National Report To the United Nations Convention to Combat Desertification (UNCCD)] URL Accessed 2006-05-03</ref>


Năm 1798, thuyền trưởng người Anh [[John Fearn]], một thợ săn cá voi, trở thành người phương Tây đầu tiên đến Nauru, ông đặt tên đảo là "Pleasant". Từ khoảng năm 1830, người Nauru có tiếp xúc với người Âu do các tàu đánh bắt cá voi và các thương nhân bổ sung nguồn dự trữ của họ (đặc biệt là nước sạch) tại Nauru.<ref name=spennemann>{{cite journal|last=Spennemann|first=Dirk HR|journal=Aquaculture International|date=January 2002|volume=10|issue=6|pages=551–562|doi=10.1023/A:1023900601000|title=Traditional milkfish aquaculture in Nauru}}</ref> Khoảng thời gian này, những ngươi đào tẩu từ các tàu châu Âu bắt đầu đến sống tại đảo. Người dân trên đảo trao đổi thực phẩm lấy rượu dừa và các loại súng cầm tay.<ref>{{cite journal|last=Marshall|first=Mac|coauthors=Marshall, Leslie B|title=Holy and unholy spirits: The Effects of Missionization on Alcohol Use in Eastern Micronesia|journal=Journal of Pacific History|date=January 1976|volume=11|issue=3|pages=135–166|doi=10.1080/00223347608572299}}</ref> Các loại súng cầm tay được sử dụng trong Chiến tranh bộ tộc Nauru bắt đầu từ năm 1878 và kéo dài 10 năm.<ref>{{cite journal|journal=New York Law School Journal of International and Comparative Law|title=Nauru v. Australia|author=Reyes, Ramon E, Jr|volume=16|issue=1–2|year=1996|url=http://heinonline.org/HOL/LandingPage?collection=journals&handle=hein.journals/nylsintcom16&div=6&id=&page=}}</ref>
Đảo Nauru do thuyền trưởng [[người Anh]], [[John Fearn]], phát hiện năm [[1798]], thuộc quyền sở hữu của [[Đức]] từ năm [[1888]]. Sau [[chiến tranh thế giới thứ nhất]], Nauru trở thành xứ ủy trị của [[Anh]], bị [[Nhật Bản|Nhật]] chiếm đóng trong [[chiến tranh thế giới thứ hai]]. Năm [[1947]], [[Liên Hiệp Quốc]] ủy quyền cho [[Úc]] cai quản đảo này. Nauru trở thành quốc gia độc lập từ năm [[1968]] và gia nhập Liên Hiệp Quốc năm [[1999]].


Nauru bị Đức thôn tính vào năm 1888 và được hợp nhất vào Lãnh thổ bảo hộ [[Quần đảo Marshall]] thuộc Đức.<ref name=firth>{{cite journal|last=Firth|first=Stewart|title=German labour policy in Nauru and Angaur, 1906–1914|journal=The Journal of Pacific History|date=January 1978|volume=13|issue=1|pages=36–52|doi=10.1080/00223347808572337}}</ref> Việc người Đức đến đã kết thúc nội chiến, và các vương được đặt làm những người cai trị của đảo. Người dược biết đến rộng rãi nhất trong số họ là Vương [[Auweyida]]. Các nhà truyền giáo Ki-tô từ [[quần đảo Gilbert]] đến vào năm 1888.<ref name=hill/><ref>{{cite book|author=Ellis, AF|year=1935|title=Ocean Island and Nauru&nbsp;– their story|publisher=Angus and Robertson Limited|pages=29–39}}</ref> Những người Đức định cư gọi đảo là Nawodo hoặc Onawero.<ref>{{cite book|title=Deutsche Rundschau für Geographie und Statistik|author=Hartleben, A|year=1895|page=429}}</ref> Người Đức cai trị Nauru trong gần ba thập niên. Robert Rasch là một thương nhân người Đức kết hôn với một phụ nữ Nauru, ông là quản trị viên đầu tiên của đảo, được bổ nhiệm vào năm 1890.<ref name=hill>{{cite book|last=Hill|first=Robert A (ed)|title=The Marcus Garvey and Universal Negro Improvement Association Papers|year=1986|publisher=University of California Press|isbn=978-0-520-05817-0|chapter=2: Progress Comes to Nauru|volume=5}}</ref>
Nguồn tài nguyên phosphat bị các công ti nước ngoài khai thác cạn kiệt. Nauru kiện lên Tòa án Quốc tế đòi các nước khai thác trong thời kì chiếm đóng phải bồi thường. Năm 1993, [[Úc]] đồng ý trả mỗi năm là 2,5 triệu [[đô la Úc]] trong vòng 20 năm. [[New Zealand]] và [[Anh]] cũng đồng ý trả một lần với số tiền là 12 triệu [[Đô la Mỹ|USD]]. Phosphat rớt giá, giá vé các tuyến bay quốc tế cao, chính phủ quản lí tài chính yếu kém làm kinh tế suy sụp trong những năm cuối thập niên [[1990]] và đất nước hầu như trong tình trạng vỡ nợ.


Năm 1900, nhà thăm dò [[Albert Fuller Ellis]] phát hiện ra phosphat tại Nauru.<ref name=firth/> Công ty Phosphat Thái Bình Dương bắt đầu khai thác tài nguyên này vào năm 1906 theo thỏa thuận với Đức, xuất khẩu lô hàng phosphat đầu tiên vào năm 1907.<ref name=autogenerated1>{{cite journal|last=Manner|first=HI|coauthors=Thaman, RR; Hassall, DC|title=Plant succession after phosphate mining on Nauru|journal=Australian Geographer|date=May 1985|volume=16|issue=3|pages=185–195|doi=10.1080/00049188508702872}}</ref> Năm 1914, sau khi [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] bùng nổ, quân Úc chiếm Nauru. Úc, New Zealand và Anh Quốc ký Hiệp định đảo Nauru vào năm 1919, lập ra một ủy ban gọi là Ủy ban Phosphat Anh Quốc, thể chế này tiếp quản quyền khai mỏ phosphat.<ref name=gowdy>{{cite journal|journal=Land Economics|volume=75|issue=2|title=The Physical Destruction of Nauru|author=Gowdy, John M; McDaniel, Carl N|date=May 1999|pages=333–338}}</ref>
Năm 2000, nhóm các nước [[G8]] gây áp lực với Nauru đòi xem xét lại hệ thống [[ngân hàng]] vì có liên quan đến việc rửa tiền của bọn tội phạm [[Nga]]. [[Tháng chín|Tháng 9]] năm [[2001]], Nauru đồng ý tiếp nhận 3 chiếc thuyền chở người tị nạn người [[châu Á]] định vào [[Úc]]. Bù lại, chính quyền Úc cung cấp cho Nauru 20 triệu [[Đô la Mỹ|USD]] cùng những khoản tài chính khích lệ vì đã giúp giải quyết vấn đề người tị nạn.


Nauru trải qua một đại dịch cúm vào năm 1920, với tỷ lệ tử vong là 18&nbsp;phần trăm trong số người Nauru bản địa.<ref>{{cite journal|last=Shlomowitz|first=R|title=Differential mortality of Asians and Pacific Islanders in the Pacific labour trade|journal=Journal of the Australian Population Association|date=November 1990|volume=7|issue=2|pages=116–127|pmid=12343016}}</ref> Năm 1923, [[Hội Quốc Liên]] trao cho Úc quản trị ủy thác đối với Nauru, với Anh Quốc và New Zealand là đồng quản trị.<ref>{{cite journal|last=Hudson|first=WJ|title=Australia's experience as a mandatory power|journal=Australian Outlook|date=April 1965|volume=19|issue=1|pages=35–46|doi=10.1080/10357716508444191}}</ref> Ngày 6&nbsp;và 7&nbsp;tháng 12 năm 1940, các tuần dương hạm phụ trợ ''Komet'' và ''Orion'' của Đức [[các cuộc tấn công của Đức vào Nauru|đánh đắm]] năm tàu tiếp tế tại vùng biển lân cận Nauru. ''Komet'' sau đó nã pháo vào các khu vực khai mỏ phosphat, kho chứa dầu, dầm chìa bốc hàng lên tàu trên đảo.<ref>{{cite book|last=Waters|first=SD|title=German raiders in the Pacific|year=2008|publisher=Merriam Press|isbn=978-1-4357-5760-8|edition=3rd|page=39}}</ref><ref name=bogart>{{cite journal|author=Bogart, Charles H|title=Death off Nauru|pages=8–9|date=November 2008|journal=CDSG Newsletter|url=http://cdsg.org/reprint%20PDFs/CDSGNnov08.pdf|accessdate=16 June 2012}}</ref>
== Chính trị ==
[[Tập tin:Nauru-parliament.jpg|nhỏ|trái|220px|Quốc hội Nauru]]
Nauru là một quốc gia [[cộng hòa]] với chế độ [[nghị viện]]. Cứ ba năm một lần, người dân lại đi bầu [[Quốc hội Nauru]] gồm 18 thành viên. Sau đó, Quốc hội sẽ bầu [[Tổng thống Nauru|Tổng thống]] trong số 18 người này. [[Tổng thống]] vừa là người đứng đầu [[Nhà nước]], vừa là người đứng đầu [[Chính phủ Nauru|Chính phủ]] (với 5 hoặc 6 thành viên nội các).


[[File:Nauru Island under attack by Liberator bombers of the Seventh Air Force..jpg|left|thumb|[[Không quân Hoa Kỳ]] oanh tạc bãi đáp của Nhật Bản tại Nauru<ref name=PacMag/>]]
Hiện nay có 4 chính đảng đang hoạt động ở Nauru gồm [[Đảng Dân chủ Nauru|Đảng Dân chủ]], [[Đảng Đầu tiên Nauru|Đảng Đầu tiên]] và [[Đảng Trung tâm Nauru|Đảng Trung tâm]], Đảng Nauru.
Quân đội [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] chiếm đóng Nauru vào ngày 25&nbsp;tháng 8 năm 1942.<ref name=bogart/> Người Nhật xây dựng một sân bay, sân bay này bị Đồng Minh oanh tạc lần đầu vào ngày 25&nbsp;tháng 3 năm 1943 nhằm ngăn chặn cung cấp thực phẩm được trở bằng đường không đến Nauru. Người Nhật trục xuất 1.200 người Nauru đến quần đảo [[Chuuk]] làm lao công.<ref name=PacMag>{{cite journal|author=Haden, JD|year=2000|url=http://166.122.164.43/archive/2000/April/04-03-19.htm|title=Nauru: a middle ground in World War&nbsp;II|journal=Pacific Magazine|accessdate=16 June 2012}}</ref> Nauru bị quân đội Hoa Kỳ bỏ qua và bỏ lại trong các chiến dịch trên Thái Bình Dương, và cuối cùng được giải phóng vào ngày 13 tháng 9 năm 1945, khi sĩ quan chỉ huy Hisayaki Soeda đầu hàng giao đảo cho quân đội Úc.<ref>{{cite web|first1=Akira |last1= Takizawa |first2=Allan |last2=Alsleben |url= http://www.dutcheastindies.webs.com/japan_garrison.html |title=Japanese garrisons on the by-passed Pacific Islands 1944–1945 |date=1999–2000 |work=Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942}}</ref> Các dàn xếp được tiến hành để hồi hương 737 người Nauru còn sống từ Chuuk. Họ trở về Nauru vào tháng 1 năm 1946.<ref>{{cite book|author=Garrett, J|year=1996|title=Island Exiles|publisher=ABC|isbn=0-7333-0485-0|pages=176–181}}</ref> Năm 1947, Liên Hiệp Quốc thiết lập một chế độ ủy thác tại Nauru, với Úc, New Zealand, và Anh Quốc là các ủy viên quản trị.<ref name=highet/>


Nauru được tự trị vào tháng 1 năm 1966, và trở thành quốc gia độc lập vào năm 1968 dưới quyền Tổng thống [[Hammer DeRoburt]].<ref name=davidson>{{cite journal|last=Davidson|first=JW|title=The republic of Nauru|journal=The Journal of Pacific History|date=January 1968|volume=3|issue=1|pages=145–150|doi=10.1080/00223346808572131}}</ref> Năm 1967, nhân dân Nauru mua lại tài sản của Ủy ban Phosphat Anh Quốc, và vào tháng 6 năm 1970 quyền kiểm soát được chuyển cho Công ty Phosphat Nauru thuộc sở hữu bản địa.<ref name=autogenerated1 /> Thu nhập từ khai mỏ giúp người Nauru có một trong những tiêu chuẩn sống cao nhất tại Thái Bình Dương.<ref>{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/programmes/from_our_own_correspondent/7296832.stm|title=Nauru seeks to regain lost fortunes|author=Squires, Nick| date=15 March 2008|publisher=BBC News Online|accessdate=16 March 2008}}</ref> Năm 1989, Nauru thực hiện hành động pháp lý chống lại Úc tại [[Tòa án Công lý Quốc tế]] về sự quản lý của Úc đối với hòn đảo, cụ thể là thất bại của Úc trong việc khắc phục các tổn hại về môi trường do hoạt động khai mỏ gây ra. ''Certain Phosphate Lands: Nauru v.&nbsp;Australia'' dẫn đến một dàn xếp ngoài tòa án nhằm cải tạo các khu vực đã khai thác hết của Nauru.<ref name=highet>{{cite journal|author=Highet, K; Kahale, H|year=1993|url=http://www.icj-cij.org/docket/index.php?p1=3&p2=3&code=naus&case=80&k=e2|title=Certain Phosphate Lands in Nauru|journal=American Journal of International Law|volume= 87|pages=282–288}}</ref><ref>{{cite book|series=ICJ Pleadings, Oral Arguments, Documents|title=Case Concerning Certain Phosphate Lands in Nauru (Nauru v. Australia) Application: Memorial of Nauru|date=January 2004|isbn=978-92-1-070936-1|publisher=United Nations, International Court of Justice}}</ref>
=== Đối ngoại ===
Sau khi độc lập vào năm 1968, Nauru gia nhập [[Khối Thịnh vượng chung Anh|Khối thịnh vượng chung Anh]] và trở thành một thành viên đầy đủ vào năm 2000.<ref name="UN">[http://www.un.int/nauru/overview.html Republic of Nauru Permanent Mission to the United Nations]{{dead link|date=August 2011}} URL Accessed 10 May 2006</ref></small> Nauru đã công nhận là thành viên của [[Ngân hàng Phát triển châu Á]] vào năm 1991 và [[Liên Hiệp Quốc|Liên Hợp Quốc]] vào năm 1999. Nauru là còn là thành viên của [[Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương]], [[Chương trình môi trường khu vực Nam Thái Bình Dương]], [[Ủy ban Nam Thái Bình Dương]], và [[Ủy ban Ứng dụng Khoa học Địa chất Nam Thái Bình Dương]]. [[Chương trình đo lường bức xạ khí quyển]] của [[Hoa Kỳ|Mỹ]] có một cơ sở theo dõi khí hậu trên Nauru.


==Chính trị==
Nauru và [[Úc]] có quan hệ gần gũi ngoại giao với nhau từ nhiều năm nay. Ngoài ra các thoả thuận quốc phòng chính thức, các biên bản ghi nhớ đã được ký kết giữa Nauru và Úc vào tháng 9 năm 2005. Sự hiểu biết giữa hai nước cũng đã cung cấp cho Nauru nguồn viện trợ tài chính và hỗ trợ kỹ thuật, bao gồm đào tạo một Bộ trưởng Tài chính cho Nauru, và các cố vấn về [[y tế]] và [[giáo dục]] từ Úc.<ref>Nauru (High Court Appeals) Act (Australia) 1976.</ref> Nauru sử dụng đồng [[đô la Úc]] là tiền tệ chính thức của mình. Nauru đã sử dụng vị trí thành viên của mình tại [[Liên Hiệp Quốc]] để đạt được sự hỗ trợ tài chính từ cả [[Đài Loan]] và [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] bằng cách thay đổi công nhận từ Đài Loan sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là thành viên của [[Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc]]. Nauru đã ký một thỏa thuận thiết lập quan hệ ngoại giao với [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] vào ngày [[21 tháng 7]] năm [[2002]]. Nauru đã nhận được 130 triệu USD từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho hành động này. Để đáp lại, Đài Loan đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Nauru hai ngày sau đó. Nauru sau đó lại thành lập liên kết ngoại giao với Đài Loan vào ngày [[14 tháng 5]] năm [[2005]].<ref>AAP. 14 May 2005. [http://taiwansecurity.org/AFP/2005/AFP-140505.htm Taiwan Re-establishes Diplomatic Ties with Nauru] URL Accessed 5 May 2006 {{Dead link|date=June 2010| bot=DASHBot}}</ref> và các quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức cắt đứt vào ngày [[31 tháng 5]] năm [[2005]]. Tuy nhiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn tiếp tục duy trì một văn phòng đại diện ở Nauru. Tương tự như vậy trong năm 2008, Nauru công nhận [[Kosovo]] là một quốc gia độc lập tách khỏi [[Serbia]]. Sau đó, trong năm 2009, Nauru trở thành quốc gia thứ tư, sau khi [[Nga]], [[Nicaragua]] và [[Venezuela]] công nhận khu vực ly khai của [[Gruzia]] là [[Abkhazia]]. Nga đã viện trợ cho Nauru 50 triệu đô la với việc này.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/world/2009/dec/14/nauro-recognises-abkhazia-south-ossetia|title=Tiny Nauru struts world stage by recognising breakaway republics|last=Harding|first=Luke|date=14 December 2009|publisher=The Guardian|accessdate=14 December 2009 | location=London}}</ref> Ngày [[15 tháng 7]] năm [[2010]], chính phủ Nauru đã công bố một chương trình nâng cấp cảng biển quốc tế của mình sẽ hoàn thành vào đầu năm 2011. Chương trình được tài trợ 9 triệu [[Đô la Mỹ|USD]] từ Nga. Chính phủ Nauru tuyên bố viện trợ này không liên quan đến công nhận [[Abkhazia]] và [[Nam Ossetia]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.rnzi.com/pages/news.php?op=read&id=54715|title=Nauru expects to earn more from exports after port upgrade with Russian aid|date=15 July 2010|publisher=Radio New Zealand International|accessdate=15 July 2010|location=Wellington}}</ref>
[[File:Nauru-parliament.jpg|thumb|right|Nghị viện Nauru.]]


Nauru là một nước cộng hòa với chính quyền có một hệ thống nghị viện.<ref name=davidson/> Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chính phủ. Nghị viện đơn viện gồm 19 thành viên được bầu cử mỗi ba năm.<ref>Matau, Robert (6 June 2013) [http://www.islandsbusiness.com/news/nauru/1413/president-dabwido-gives-it-another-go/ "President Dabwido gives it another go"]. ''Islands Business''.</ref> Nghị viện bầu tổng thống từ các thành viên của mình, và tổng thống bổ nhiệm một nội các gồm sáu thành viên.<ref>{{cite journal|last=Levine|first=Stephen|coauthors=Roberts, Nigel S|title=The constitutional structures and electoral systems of Pacific Island States|journal=Commonwealth & Comparative Politics|date=November 2005|volume=43|issue=3|pages=276–295|doi=10.1080/14662040500304866}}</ref> Nauru không có bất kỳ cấu trúc chính thức nào cho các chính đảng, và các ứng cử viên thường ứng cử chức vụ với tư cách độc lập. Bốn đảng hoạt động trong chính trị Nauru là Đảng Nauru, Đảng Dân chủ, Nauru Trước tiên, và Đảng Trung tâm. Tuy nhiên, các liên minh trong chính quyền thường được hình thành dựa trên cơ sở các mối quan hệ gia đình mở rộng thay vì đảng tịch.<ref>{{cite journal|last=Anckar|first=D|coauthors=Anckar, C|title=Democracies without Parties|journal=Comparative Political Studies|year=2000|volume=33|issue=2|pages=225–247|doi=10.1177/0010414000033002003}}</ref>
== Hành chính ==

[[Tập tin:Nauru map.jpg|nhỏ|trái|220px|Bản đồ Nauru]]
Từ năm 1992 đến 1999, Nauru có một hệ thống chính quyền địa phương được gọi là Hội đồng đảo Nauru (NIC) gồm chín thành viên. NIC bị bãi bỏ vào năm 1999 vcaf toàn bộ tài sản và nợ được trao cho chính phủ quốc gia.<ref>{{cite journal|author=Hassell, Graham; Tipu, Feue|date=May 2008|url=http://www.austlii.edu.au/au/journals/ComJlLocGov/2008/3.html|title=Local Government in the South Pacific Islands|journal=Commonwealth Journal of Local Governance|volume=1|issue=1|pages=6–30}}</ref> Quyền sử dụng đất tại Nauru là bất thường: toàn bộ người Nauru có các quyền nhất định đối với toàn bộ đất đai trên đảo, vốn là sở hữu của các cá nhân hoặc nhóm gia đình. Chính phủ và các đoàn thể không sử hữu bất kỳ bất động sản nào, và họ cần phải lập hợp đồng thuê với địa chủ để sử dụng đất. Nếu không phải người Nauru thì không thể sở hữu đất đai trên đảo.<ref name=UNCCD/>
Nauru được chia thành 8 khu vực bầu cử với 14 quận bao gồm:

{|
Nauru có 17&nbsp;thay đổi chính phủ từ năm 1989 đến năm 2003.<ref name=DFAT>{{cite web|publisher=Australian Department of Foreign Affairs and Trade|url=http://www.dfat.gov.au/geo/nauru/nauru_brief.html|title=Republic of Nauru Country Brief|date=November 2005|accessdate=2 May 2006}}</ref> [[Bernard Dowiyogo]] mất khi đang tại vị vào tháng 3 năm 2003 và [[Ludwig Scotty]] được bầu làm tổng thống, sau đó ông tái đắc cử để phục vụ một nhiệm kỳ đầu đủ vào tháng 10 năm 2004. Sau một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm vào ngày 19 tháng 12 năm 2007, Scotty bị [[Marcus Stephen]] thay thế. Stephen từ nhiệm vào tháng 11 năm 2011, và [[Freddie Pitcher]] trở thành tổng thống. [[Sprent Dabwido]] sau đó đệ trình kiến nghị bất tín nhiệm đối với Pitcher, kết quả là Dabwido trở thành tổng thống.<ref>{{cite journal|last=Connell|first=John|title=Nauru: The first failed Pacific State?|journal=The Round Table|date=January 2006|volume=95|issue=383|pages=47–63|doi=10.1080/00358530500379205}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.bbc.co.uk/news/world-asia-pacific-15433901|publisher=BBC News|accessdate=17 June 2012|date=24 October 2011|title=Nauru profile}}</ref> Sau cuộc bầu cử nghị viện vào năm 2013, [[Baron Waqa]] được bầu làm tổng thống.
|valign=“top”|

* [[Aiwo]]
Nauru có một hệ thống tư pháp phức tạp. Tòa án Tối cao, đứng đầu là Chánh án, là cơ quan tối cao trong các vấn đề hiến pháp. Các vụ tố tụng khác có thể kháng cáo lên Tòa Thượng tố gồm hai thẩm phán. Nghị viện không thể bác bỏ các phán quyết của tòa án, song có thể kháng cáo các quyết định của Tòa Thượng tố Nauru đến Tòa Cao đẳng Úc.<ref>{{cite web|title=Nauru (High Court Appeals) Act (Australia) 1976|url=http://www.austlii.edu.au/au/legis/cth/consol_act/ncaa1976254|publisher=Australian Legal Information Institute|accessdate=7 August 2006}}</ref><ref>{{cite journal|last=Dale|first=Gregory|title=Appealing to Whom? Australia's 'Appellate Jurisdiction' Over Nauru|journal=International & Comparative Law Quarterly|year=2007|volume=56|issue=3|doi=10.1093/iclq/lei186}}</ref> Tuy nhiên, điều này hiếm khi xảy ra trên thực tế. Các tòa án cấp thấp hơn gồm có Tòa án khu vực và Tòa án gia đình, cả hai đều do Quan tòa cư dân đứng đầu, người này cũng là hộc tịch viên (Registrar) của Tòa Tối cao. Còn có hai bán pháp viện khác: Ủy ban Thượng tố phục vụ công cộng (Public Service Appeal Board) và Ủy ban Thượng tố Cảnh sát (Police Appeal Board), cả hai đều do Chánh án nắm quyền tối cao.<ref name=state>{{cite web|url=http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/16447.htm|title=Background Note: Nauru|publisher=State Department Bureau of East Asian and Pacific Affairs|date=September 2005|accessdate=11 May 2006}}</ref>
* [[Anabar (quận)|Anabar]]

* [[Anetan]]
===Hành chính===
* [[Anibare]]
Nauru được chia thành 14 khu, chúng được nhóm lại thành tám khu vực tuyển cử.<ref name=state/>
* [[Baiti]]

* [[Boe (quận)|Boe]]
[[File:Nauru-districts-fr.svg|right|360px|Bản dồ hành chính Nauru]]
* [[Buada]]
{| class="wikitable sortable"
|width="45"|&nbsp;
|- class="hintergrundfarbe6"
|valign="top"|
! STT || Khu || Tên cũ || Diện tích<br />([[Hecta]]) || Dân số<br />(2005) || Số làng || Mật độ<br>người/ha
* [[Denigomodu]]
|-
* [[Ewa (quận)|Ewa]]
| style="text-align:right;"| 1 || [[Aiwo]] || Aiue || style="text-align:right;"| 100 || style="text-align:right;"| 1.092 || style="text-align:right;"| 8 || style="text-align:right;"| 10,9
* [[Ijuw]]
|-
* [[Meneng]]
| style="text-align:right;"| 2 || [[Anabar (quận)|Anabar]] || Anebwor || style="text-align:right;"| 143 || style="text-align:right;"| 502 || style="text-align:right;"| 15 || style="text-align:right;"| 3,5
* [[Nibok]]
|-
* [[Uaboe]]
| style="text-align:right;"| 3 || [[Anetan]] || Añetañ || style="text-align:right;"| 100 || style="text-align:right;"| 516 || style="text-align:right;"| 12 || style="text-align:right;"| 5,2
* [[Yaren]]
|-
|width="45"|&nbsp;
| style="text-align:right;"| 4 || [[Anibare]] || Anybody || style="text-align:right;"| 314 || style="text-align:right;"| 160 || style="text-align:right;"| 17 || style="text-align:right;"| 0,5
|valign="top"|
|-
| style="text-align:right;"| 5 || [[Baiti]] || Beidi || style="text-align:right;"| 123 || style="text-align:right;"| 572 || style="text-align:right;"| 15 || style="text-align:right;"| 4,7
|-
| style="text-align:right;"| 6 || [[Boe (quận)|Boe]] || Boi || style="text-align:right;"| 66 || style="text-align:right;"| 795 || style="text-align:right;"| 4 || style="text-align:right;"| 12,0
|-
| style="text-align:right;"| 7 || [[Buada]] || Arenibok || style="text-align:right;"| 266 || style="text-align:right;"| 716 || style="text-align:right;"| 14 || style="text-align:right;"| 2,7
|-
| style="text-align:right;"| 8 || [[Denigomodu]] || Denikomotu || style="text-align:right;"| 118 || style="text-align:right;"| 2,827 || style="text-align:right;"| 17 || style="text-align:right;"| 24,0
|-
| style="text-align:right;"| 9 || [[Ewa (quận)|Ewa]] || Eoa || style="text-align:right;"| 117 || style="text-align:right;"| 318 || style="text-align:right;"| 12 || style="text-align:right;"| 2,7
|-
| style="text-align:right;"| 10 || [[Ijuw]] || Ijub || style="text-align:right;"| 112 || style="text-align:right;"| 303 || style="text-align:right;"| 13 || style="text-align:right;"| 2,7
|-
| style="text-align:right;"| 11 || [[Meneng]] || Meneñ || style="text-align:right;"| 288 || style="text-align:right;"| 1,830 || style="text-align:right;"| 18 || style="text-align:right;"| 6,4
|-
| style="text-align:right;"| 12 || [[Nibok]] || Ennibeck || style="text-align:right;"| 136 || style="text-align:right;"| 432 || style="text-align:right;"| 11 || style="text-align:right;"| 3,2
|-
| style="text-align:right;"| 13 || [[Uaboe]] || Ueboi || style="text-align:right;"| 97 || style="text-align:right;"| 335 || style="text-align:right;"| 6 || style="text-align:right;"| 3,5
|-
| style="text-align:right;"| 14 || [[Yaren]] || Moqua || style="text-align:right;"| 150 || style="text-align:right;"| 820 || style="text-align:right;"| 7 || style="text-align:right;"| 5,5
|- style="background: #CCC;" | class="sortbottom"
| &nbsp; || '''Nauru''' || Naoero || style="text-align:right;"| 2.130 || style="text-align:right;"| 11.218 || style="text-align:right;"| 169 || style="text-align:right;"| 5,3
|}
|}

==Quan hệ đối ngoại==
Sau khi độc lập vào năm 1968, Nauru gia nhập [[Khối Thịnh vượng chung Anh|Thịnh vượng chung các quốc gia]] với tư cách một thành viên đặc biệt; và trở thành một thành viên đầy đủ vào năm 2000.<ref name="UN">{{cite web|url=http://www.un.int/nauru/overview.html|title=Republic of Nauru Permanent Mission to the United Nations|accessdate=10 May 2006|publisher=United Nations}}</ref> Quốc gia này được nhận vào [[Ngân hàng Phát triển châu Á]] năm 1991 và vào Liên Hiệp Quốc năm 1999.<ref>{{cite web|url=http://www.commonwealth-of-nations.org/Nauru/Organisations/Nauru_in_the_Commonwealth|accessdate=18 June 2012|title=Nauru in the Commonwealth|publisher=Commonwealth of Nations}}</ref> Nauru là một thành viên của [[Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương]], Chương trình Môi trường Khu vực Nam Thái Bình Dương, Ủy ban Nam Thái Bình Dương, và Ủy ban Khoa học Địa cầu ứng dụng Nam Thái Bình Dương.<ref>{{cite web|url=http://www.state.gov/outofdate/bgn/nauru/111187.htm|publisher=US State Department|title=Nauru (04/08)|year=2008|accessdate=17 June 2012}}</ref> Chương trình Quan trắc bức xạ khí quyển của Hoa Kỳ vận hành một cơ sở giám sát khí hậu trên đảo.<ref>{{cite journal|last=Long|first=Charles N|coauthors=McFarlane, Sally A|title=Quantification of the Impact of Nauru Island on ARM Measurements|journal=Journal of Applied Meteorology and Climatology|date=March 2012 |volume=51 |issue=3 |pages=628–636 |doi=10.1175/JAMC-D-11-0174.1}}</ref>

Nauru không có lực lượng vũ trang, song có một lực lượng cảnh sát nhỏ nằm dưới quyền kiểm soát dân sự.<ref name = "CIA"/> Úc chịu trách nhiệm về quốc phòng của Nauru theo một hiệp định không chính thức giữa hai quốc gia.<ref name=CIA/> Tháng 9 năm 2005, Bị vong lục Thông hiểu giữa Úc và Nauru đem đến cho Nauru viện trợ tài chính và giúp đỡ kỹ thuật, bao gồm một Bộ trưởng Tài chính để chuẩn bị ngân sách, và các cố vấn về y tế và giáo dục. Sự giúp đỡ này là để đổi lấy việc cung cấp nhà ở cho những người tìm kiếm nơi trú ẩn trong lúc thỉnh cầu đến Úc của họ được xử lý.<ref name=DFAT/> Nauru sử dụng [[đô la Úc]] làm tiền tệ chính thức của mình.<ref name=state/>

Nauru sử dụng tư thế một thành viên Liên Hiệp Quốc của mình để đạt được hỗ trợ tài chính từ cả Đài Loan và Trung Quốc đại lục, quốc gia này thay đổi sự công nhận của mình sang phía bên kia theo [[chính sách một Trung Quốc]]. Ngày 21 tháng 7 năm 2002, Nauru ký một thỏa thuận về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhận được 130 triệu đô la Mỹ từ Bắc Kinh cho hành động này.<ref name=harding>{{Cite news|author=Harding, Luke|url=http://www.guardian.co.uk/world/2009/dec/14/nauro-recognises-abkhazia-south-ossetia |title=Tiny Nauru struts world stage by recognising breakaway republics |newspaper=Guardian |date= 14 December 2009|accessdate=22 June 2010}}</ref> Nhằm phản ứng, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Nauru hai ngày sau đó. Nauru sau đó tái lập liên kết với Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 14 tháng 5 năm 2005,<ref>{{cite news|url=http://www.taipeitimes.com/News/front/archives/2005/05/15/2003254718|newspaper=Taipei Times|date=15 May 2005|title=Nauru switches its allegiance back to Taiwan from China|author=Su, Joy|accessdate=18 June 2012}}</ref> và quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức đoạn tuyệt vào ngày 31 tháng 5 năm 2005.<ref>{{cite web|url=http://www.accessmylibrary.com/article-1G1-136916820/china-officially-severs-diplomatic.html|publisher=Asia Africa Intelligence Wire|date=31 May 2005|accessdate=18 June 2012|title=China officially severs diplomatic ties with Nauru}}</ref>

Năm 2008, Nauru công nhận [[Kosovo]] là một quốc gia độc lập, và vào năm 2009 Nauru công nhận [[Abkhazia]] và [[Nam Ossetia]], các khu vực ly khai của [[Gruzia]]. Nga được tường thuật là trao cho Nauru 50&nbsp;triệu đô la Mỹ tiền viện trợ nhân đạo như một kết quả của sự công nhận này.<ref name=harding/> Ngày 15&nbsp;tháng 7 năm 2008, chính phủ Nauru tuyên bố một chương trình tân trang cảng, sử dụng 9&nbsp;triệu đô la Mỹ viện trợ phát triển từ Nga. Chính phủ Nauru tuyên bố rằng viện trợ này không liên quan đến việc Nauru công nhận Abkhazia và Nam Ossetia.<ref>{{cite news|url=http://www.rnzi.com/pages/news.php?op=read&id=54715|title=Nauru expects to earn more from exports after port upgrade with Russian aid|date=15 July 2010|publisher=Radio New Zealand International|accessdate=15 July 2010}}</ref>


== Địa lí ==
== Địa lí ==

Phiên bản lúc 06:17, ngày 31 tháng 3 năm 2014

Ripublik Naoero
Tập tin:Coat of arms of nauru.png
Quốc kỳ Huy hiệu
Bản đồ
Vị trí của Nauru
Vị trí của Nauru
Tiêu ngữ
God's Will First
Quốc ca
Nauru Bwiema
Hành chính
Chính phủCộng hòa nghị viện
Tổng thốngMarcus Stephen
Thủ đôYaren 1
0°32′S 166°55′E
0°32′N 166°55′Đ / 0,533°N 166,917°Đ / -0.533; 166.917
Thành phố lớn nhấtYaren
Địa lý
Diện tích21 km² (hạng 192)
Múi giờUTC+12
Lịch sử
Ngày thành lập31 tháng 1 năm 1968
Ngôn ngữ chính thứctiếng Anhtiếng Nauru
Dân số ước lượng (2010)9.322 người (hạng 219)
Mật độ621 người/km² (hạng 10)
Kinh tế
GDP (PPP) (2001)Tổng số: 36,9 Triệu đô la Mỹ
Đơn vị tiền tệĐô la Úc (AUD)
Thông tin khác
Tên miền Internet.nr

Nauru (phát âm /nɑːˈʊəruː/ ( phát) nah-OO-roo), tên chính thức là Cộng hoà Nauru trước đây có tên Đảo Pleasant, là một quốc đảo thuộc Micronesia nằm ở Nam Thái Bình Dương. Nơi gần nhất với nước này là Đảo Banaba thuộc Kiribati, khoảng 300 km về phía đông. Nauru là quốc đảo nhỏ nhất thế giới với diện tích 21 kilômét vuông (8,1 dặm vuông Anh).[1]

Hòn đảo là nơi định cư của người MicronesiaPolynesia, và vào cuối thế kỷ 19 Nauru bị sáp nhập làm một phần thuộc địa của Đế chế Đức. Sau Thế chiến thứ nhất, Nauru trở thành lãnh thổ uỷ trị bởi Úc, New Zealand, và Vương quốc Anh. Trong suốt Thế chiến II, Nauru bị chiếm đóng bởi người Nhật và sau đó là lực lượng Đồng Minh trong khi tiến qua Thái Bình Dương, và sau khi chiến tranh kết thúc, nước này lại trở về tình trạng uỷ trị.[2] Nauru tuyên bố độc lập vào năm 1968.

Trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, kinh tế Nauru dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nauru là một đảo đá phosphate lộ thiên, cho phép các hoạt động khai thác diễn ra thuận lợi. Hòn đảo này là nhà xuất khẩu chủ yếu phosphate bắt đầu vào năm 1907, khi công ty Pacific Phosphate bắt đầu hoạt động ở đây, thông qua sự thành lập Uỷ ban Phosphate Anh vào năm 1919, và tiếp tục hoạt động sau khi nước này giành được độc lập. Nauru nắm quyền kiểm soát toàn bộ hoạt động khai thác mỏ thông qua Tập đoàn Phosphate Nauru, cho đến khi trữ lượng cạn kiệt trong thập niên 1980.[3] Nhờ nguồn lợi tức này, Nauru nhanh chóng trở thành quốc gia có chủ quyền đạt được thu nhập bình quân đầu người cao trên thế giới trong khoảng cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Khi trữ lượng phosphate bị cạn kiệt, đi cùng với nó là môi trường cũng bị huỷ hoại nghiêm trọng vì hoạt động khai thác mỏ, một quỹ được thành lập để quản lý nguồn tài sản của hòn đảo đang dần giảm giá trị. Để có thu nhập, chính phủ đã phải viện đến những biện pháp khác thường. Trong thập niên 1990, Nauru nhanh chóng trở thành một trung tâm ẩn trú thuếrửa tiền.Từ năm 2001 đến năm 2008, nước này chấp nhận sự giúp đỡ của chính phủ Úc trong việc xây dựng Trung tâm tạm giam Nauru nhằm giam giữ và xử lý những người tìm cách xâm nhập Australia trái phép.[4]

Từ tháng 12, 2005 đến tháng 9, 2006, Nauru trở nên cô lập một phần với thế giới khi hãng hành không duy nhất của quốc gia này là Air Nauru bị ngừng hoạt động. Cách tiếp cận duy nhất khi đó đến Nauru là qua các tàu biển. Sau đó hoạt động của hãng đã được phục hồi dưới các tên mới là Our Airline nhờ tiền trợ giúp từ Đài Loan. Hòn đảo có một sân bay là Sân bay Quốc tế Nauru.

Lịch sử

Chiến binh người Nauru, 1880

Người Micronesia và người Polynesia là những người đầu tiên sinh sống tại Nauru, ít nhất là từ 3.000 năm trước.[3] Theo truyền thống, có 12 thị tộc hay bộ tộc tại Nauru, được đại diện bằng một sao 12 cánh trên quốc kỳ.[5] Cũng theo truyền thống, người Nauru truy nguồn gốc của họ theo mẫu hệ. Các cư dân trên đảo làm nghề nuôi trồng thủy sản: họ bắt ibija còn nhỏ, cho chúng thích nghi với môi trường nước ngọt, và nuôi chúng tại phá Buada, chúng cung cấp cho người dân trên đảo một nguồn thực phẩm ổn định. Trong thành phần bữa ăn của họ có các loại quả được trồng tại địa phương gồm dừa và dứa dại.[6][7] Tên gọi "Nauru" có thể bắt nguồn từ Anáoero, trong tiếng Nauru, có nghĩa là "Tôi đi đến bãi biển".[8]

Năm 1798, thuyền trưởng người Anh John Fearn, một thợ săn cá voi, trở thành người phương Tây đầu tiên đến Nauru, ông đặt tên đảo là "Pleasant". Từ khoảng năm 1830, người Nauru có tiếp xúc với người Âu do các tàu đánh bắt cá voi và các thương nhân bổ sung nguồn dự trữ của họ (đặc biệt là nước sạch) tại Nauru.[7] Khoảng thời gian này, những ngươi đào tẩu từ các tàu châu Âu bắt đầu đến sống tại đảo. Người dân trên đảo trao đổi thực phẩm lấy rượu dừa và các loại súng cầm tay.[9] Các loại súng cầm tay được sử dụng trong Chiến tranh bộ tộc Nauru bắt đầu từ năm 1878 và kéo dài 10 năm.[10]

Nauru bị Đức thôn tính vào năm 1888 và được hợp nhất vào Lãnh thổ bảo hộ Quần đảo Marshall thuộc Đức.[11] Việc người Đức đến đã kết thúc nội chiến, và các vương được đặt làm những người cai trị của đảo. Người dược biết đến rộng rãi nhất trong số họ là Vương Auweyida. Các nhà truyền giáo Ki-tô từ quần đảo Gilbert đến vào năm 1888.[12][13] Những người Đức định cư gọi đảo là Nawodo hoặc Onawero.[14] Người Đức cai trị Nauru trong gần ba thập niên. Robert Rasch là một thương nhân người Đức kết hôn với một phụ nữ Nauru, ông là quản trị viên đầu tiên của đảo, được bổ nhiệm vào năm 1890.[12]

Năm 1900, nhà thăm dò Albert Fuller Ellis phát hiện ra phosphat tại Nauru.[11] Công ty Phosphat Thái Bình Dương bắt đầu khai thác tài nguyên này vào năm 1906 theo thỏa thuận với Đức, xuất khẩu lô hàng phosphat đầu tiên vào năm 1907.[15] Năm 1914, sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, quân Úc chiếm Nauru. Úc, New Zealand và Anh Quốc ký Hiệp định đảo Nauru vào năm 1919, lập ra một ủy ban gọi là Ủy ban Phosphat Anh Quốc, thể chế này tiếp quản quyền khai mỏ phosphat.[16]

Nauru trải qua một đại dịch cúm vào năm 1920, với tỷ lệ tử vong là 18 phần trăm trong số người Nauru bản địa.[17] Năm 1923, Hội Quốc Liên trao cho Úc quản trị ủy thác đối với Nauru, với Anh Quốc và New Zealand là đồng quản trị.[18] Ngày 6 và 7 tháng 12 năm 1940, các tuần dương hạm phụ trợ KometOrion của Đức đánh đắm năm tàu tiếp tế tại vùng biển lân cận Nauru. Komet sau đó nã pháo vào các khu vực khai mỏ phosphat, kho chứa dầu, dầm chìa bốc hàng lên tàu trên đảo.[19][20]

Không quân Hoa Kỳ oanh tạc bãi đáp của Nhật Bản tại Nauru[21]

Quân đội Nhật Bản chiếm đóng Nauru vào ngày 25 tháng 8 năm 1942.[20] Người Nhật xây dựng một sân bay, sân bay này bị Đồng Minh oanh tạc lần đầu vào ngày 25 tháng 3 năm 1943 nhằm ngăn chặn cung cấp thực phẩm được trở bằng đường không đến Nauru. Người Nhật trục xuất 1.200 người Nauru đến quần đảo Chuuk làm lao công.[21] Nauru bị quân đội Hoa Kỳ bỏ qua và bỏ lại trong các chiến dịch trên Thái Bình Dương, và cuối cùng được giải phóng vào ngày 13 tháng 9 năm 1945, khi sĩ quan chỉ huy Hisayaki Soeda đầu hàng giao đảo cho quân đội Úc.[22] Các dàn xếp được tiến hành để hồi hương 737 người Nauru còn sống từ Chuuk. Họ trở về Nauru vào tháng 1 năm 1946.[23] Năm 1947, Liên Hiệp Quốc thiết lập một chế độ ủy thác tại Nauru, với Úc, New Zealand, và Anh Quốc là các ủy viên quản trị.[24]

Nauru được tự trị vào tháng 1 năm 1966, và trở thành quốc gia độc lập vào năm 1968 dưới quyền Tổng thống Hammer DeRoburt.[25] Năm 1967, nhân dân Nauru mua lại tài sản của Ủy ban Phosphat Anh Quốc, và vào tháng 6 năm 1970 quyền kiểm soát được chuyển cho Công ty Phosphat Nauru thuộc sở hữu bản địa.[15] Thu nhập từ khai mỏ giúp người Nauru có một trong những tiêu chuẩn sống cao nhất tại Thái Bình Dương.[26] Năm 1989, Nauru thực hiện hành động pháp lý chống lại Úc tại Tòa án Công lý Quốc tế về sự quản lý của Úc đối với hòn đảo, cụ thể là thất bại của Úc trong việc khắc phục các tổn hại về môi trường do hoạt động khai mỏ gây ra. Certain Phosphate Lands: Nauru v. Australia dẫn đến một dàn xếp ngoài tòa án nhằm cải tạo các khu vực đã khai thác hết của Nauru.[24][27]

Chính trị

Nghị viện Nauru.

Nauru là một nước cộng hòa với chính quyền có một hệ thống nghị viện.[25] Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chính phủ. Nghị viện đơn viện gồm 19 thành viên được bầu cử mỗi ba năm.[28] Nghị viện bầu tổng thống từ các thành viên của mình, và tổng thống bổ nhiệm một nội các gồm sáu thành viên.[29] Nauru không có bất kỳ cấu trúc chính thức nào cho các chính đảng, và các ứng cử viên thường ứng cử chức vụ với tư cách độc lập. Bốn đảng hoạt động trong chính trị Nauru là Đảng Nauru, Đảng Dân chủ, Nauru Trước tiên, và Đảng Trung tâm. Tuy nhiên, các liên minh trong chính quyền thường được hình thành dựa trên cơ sở các mối quan hệ gia đình mở rộng thay vì đảng tịch.[30]

Từ năm 1992 đến 1999, Nauru có một hệ thống chính quyền địa phương được gọi là Hội đồng đảo Nauru (NIC) gồm chín thành viên. NIC bị bãi bỏ vào năm 1999 vcaf toàn bộ tài sản và nợ được trao cho chính phủ quốc gia.[31] Quyền sử dụng đất tại Nauru là bất thường: toàn bộ người Nauru có các quyền nhất định đối với toàn bộ đất đai trên đảo, vốn là sở hữu của các cá nhân hoặc nhóm gia đình. Chính phủ và các đoàn thể không sử hữu bất kỳ bất động sản nào, và họ cần phải lập hợp đồng thuê với địa chủ để sử dụng đất. Nếu không phải người Nauru thì không thể sở hữu đất đai trên đảo.[3]

Nauru có 17 thay đổi chính phủ từ năm 1989 đến năm 2003.[32] Bernard Dowiyogo mất khi đang tại vị vào tháng 3 năm 2003 và Ludwig Scotty được bầu làm tổng thống, sau đó ông tái đắc cử để phục vụ một nhiệm kỳ đầu đủ vào tháng 10 năm 2004. Sau một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm vào ngày 19 tháng 12 năm 2007, Scotty bị Marcus Stephen thay thế. Stephen từ nhiệm vào tháng 11 năm 2011, và Freddie Pitcher trở thành tổng thống. Sprent Dabwido sau đó đệ trình kiến nghị bất tín nhiệm đối với Pitcher, kết quả là Dabwido trở thành tổng thống.[33][34] Sau cuộc bầu cử nghị viện vào năm 2013, Baron Waqa được bầu làm tổng thống.

Nauru có một hệ thống tư pháp phức tạp. Tòa án Tối cao, đứng đầu là Chánh án, là cơ quan tối cao trong các vấn đề hiến pháp. Các vụ tố tụng khác có thể kháng cáo lên Tòa Thượng tố gồm hai thẩm phán. Nghị viện không thể bác bỏ các phán quyết của tòa án, song có thể kháng cáo các quyết định của Tòa Thượng tố Nauru đến Tòa Cao đẳng Úc.[35][36] Tuy nhiên, điều này hiếm khi xảy ra trên thực tế. Các tòa án cấp thấp hơn gồm có Tòa án khu vực và Tòa án gia đình, cả hai đều do Quan tòa cư dân đứng đầu, người này cũng là hộc tịch viên (Registrar) của Tòa Tối cao. Còn có hai bán pháp viện khác: Ủy ban Thượng tố phục vụ công cộng (Public Service Appeal Board) và Ủy ban Thượng tố Cảnh sát (Police Appeal Board), cả hai đều do Chánh án nắm quyền tối cao.[37]

Hành chính

Nauru được chia thành 14 khu, chúng được nhóm lại thành tám khu vực tuyển cử.[37]

Bản dồ hành chính Nauru
Bản dồ hành chính Nauru
STT Khu Tên cũ Diện tích
(Hecta)
Dân số
(2005)
Số làng Mật độ
người/ha
1 Aiwo Aiue 100 1.092 8 10,9
2 Anabar Anebwor 143 502 15 3,5
3 Anetan Añetañ 100 516 12 5,2
4 Anibare Anybody 314 160 17 0,5
5 Baiti Beidi 123 572 15 4,7
6 Boe Boi 66 795 4 12,0
7 Buada Arenibok 266 716 14 2,7
8 Denigomodu Denikomotu 118 2,827 17 24,0
9 Ewa Eoa 117 318 12 2,7
10 Ijuw Ijub 112 303 13 2,7
11 Meneng Meneñ 288 1,830 18 6,4
12 Nibok Ennibeck 136 432 11 3,2
13 Uaboe Ueboi 97 335 6 3,5
14 Yaren Moqua 150 820 7 5,5
  Nauru Naoero 2.130 11.218 169 5,3

Quan hệ đối ngoại

Sau khi độc lập vào năm 1968, Nauru gia nhập Thịnh vượng chung các quốc gia với tư cách một thành viên đặc biệt; và trở thành một thành viên đầy đủ vào năm 2000.[38] Quốc gia này được nhận vào Ngân hàng Phát triển châu Á năm 1991 và vào Liên Hiệp Quốc năm 1999.[39] Nauru là một thành viên của Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương, Chương trình Môi trường Khu vực Nam Thái Bình Dương, Ủy ban Nam Thái Bình Dương, và Ủy ban Khoa học Địa cầu ứng dụng Nam Thái Bình Dương.[40] Chương trình Quan trắc bức xạ khí quyển của Hoa Kỳ vận hành một cơ sở giám sát khí hậu trên đảo.[41]

Nauru không có lực lượng vũ trang, song có một lực lượng cảnh sát nhỏ nằm dưới quyền kiểm soát dân sự.[1] Úc chịu trách nhiệm về quốc phòng của Nauru theo một hiệp định không chính thức giữa hai quốc gia.[1] Tháng 9 năm 2005, Bị vong lục Thông hiểu giữa Úc và Nauru đem đến cho Nauru viện trợ tài chính và giúp đỡ kỹ thuật, bao gồm một Bộ trưởng Tài chính để chuẩn bị ngân sách, và các cố vấn về y tế và giáo dục. Sự giúp đỡ này là để đổi lấy việc cung cấp nhà ở cho những người tìm kiếm nơi trú ẩn trong lúc thỉnh cầu đến Úc của họ được xử lý.[32] Nauru sử dụng đô la Úc làm tiền tệ chính thức của mình.[37]

Nauru sử dụng tư thế một thành viên Liên Hiệp Quốc của mình để đạt được hỗ trợ tài chính từ cả Đài Loan và Trung Quốc đại lục, quốc gia này thay đổi sự công nhận của mình sang phía bên kia theo chính sách một Trung Quốc. Ngày 21 tháng 7 năm 2002, Nauru ký một thỏa thuận về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhận được 130 triệu đô la Mỹ từ Bắc Kinh cho hành động này.[42] Nhằm phản ứng, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Nauru hai ngày sau đó. Nauru sau đó tái lập liên kết với Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 14 tháng 5 năm 2005,[43] và quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức đoạn tuyệt vào ngày 31 tháng 5 năm 2005.[44]

Năm 2008, Nauru công nhận Kosovo là một quốc gia độc lập, và vào năm 2009 Nauru công nhận AbkhaziaNam Ossetia, các khu vực ly khai của Gruzia. Nga được tường thuật là trao cho Nauru 50 triệu đô la Mỹ tiền viện trợ nhân đạo như một kết quả của sự công nhận này.[42] Ngày 15 tháng 7 năm 2008, chính phủ Nauru tuyên bố một chương trình tân trang cảng, sử dụng 9 triệu đô la Mỹ viện trợ phát triển từ Nga. Chính phủ Nauru tuyên bố rằng viện trợ này không liên quan đến việc Nauru công nhận Abkhazia và Nam Ossetia.[45]

Địa lí

Đảo quốc thuộc quần đảo Polynesia, nằm ngay dưới phía Nam Xích đạo, cách đảo Honolulu khoảng 4.023 km, ở giữa MicronesiaKiribati thuộc vùng Đông Nam của quần đảo Micronesia. Lãnh thổ gồm một vỉa san hô ngầm bao bọc quanh đảo và các bãi cát ven biển tiếp nối với dải đồng bằng hẹp và vùng cao nguyên trung tâm.

Khí hậu

Nhiệt đới, gió mùa; mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 2. Nhiệt độ trung bình: 28oC. Lượng mưa trung bình: khoảng 2.500 mm.

Kinh tế

Kinh tế chủ yếu dựa vào đánh bắt cá và khai thác phốt phát (gần như đã cạn kiệt).

Xuất khẩu phốt phát là nguồn thu nhập chính của đảo này, nhưng nguồn phốt phát đang bị cạn kiệt. Nhờ có phốt phát nên Nauru có thu nhập bình quân theo đầu người thuộc loại cao nhất trong các nước thế giới thứ ba. Do ít có các nguồn tài nguyên khác nên hầu hết các nhu cầu thiết yếu đều phải nhập khẩu (trong đó có nước sạch phải nhập từ Úc). Việc phục hồi lại các vùng đất trước đây là khu vực mỏ và tìm nguồn thay thế cho nguồn thu từ phốt phát (mở các dịch vụ tàu biển, hàng không) là những vấn đề lớn có tính lâu dài ở đảo quốc này.

Dân cư

Nauru có 9.378 cư dân tính đến tháng 7 năm 2011.[46] Dân số nhiều hơn trước đây, nhưng năm 2006 có khoảng 1.500 người rời bỏ hòn đảo trong một cuộc hồi hương của người lao động nhập cư từ KiribatiTuvalu. Hồi hương được thúc đẩy bởi quy mô rộng nhằm cắt giảm lực lượng lao động trong ngành công nghiệp khai thác mỏ phốt phát.[47] Ngôn ngữ chính thức của Nauru là tiếng Nauruan, một ngôn ngữ khác biệt so với các ngôn ngữ ở các đảo Thái Bình Dương, được nói bởi 96% dân số Nauru. Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi và là ngôn ngữ của chính phủ và trong thương mại.

Các dân tộc chính ở Nauru là Nauruan (58%), các dân tộc Thái Bình Dương (26%), người châu Âu (8%) và người Trung Quốc (8%). Các tôn giáo chính được thực hành trên đảo là Kitô giáo chiếm 2/3 dân số. Ngoài ra còn có một số lượng tín đồ Bahá'í khá lớn 10%, Phật giáo 9% và Hồi giáo 2,2% dân số. Hiến pháp quy định về tự do tôn giáo. Tuy nhiên, chính phủ đã hạn chế các hoạt động tôn giáo của đạo Mặc MônNhân chứng Jehovah, hầu hết trong số họ là lao động nước ngoài làm việc cho Tổng công ty Phosphate Nauru.[48]

Biết đọc biết viết là 96%. Giáo dục là bắt buộc đối với trẻ em 6-15 tuổi, và hơn hai năm không bắt buộc được cung cấp (lớp 11 và 12). Có một chi nhánh của Đại học Nam Thái Bình Dương ở Nauru. Trước khi trường này được xây dựng vào năm 1987, sinh viên sẽ học ở nước ngoài.[49]

Nauru là nước có tỷ lệ những người béo phì cao trên thế giới: 97% ở đàn ông và 93% ở phụ nữ. Kết quả là, Nauru có số người bệnh tiểu đường loại 2 cao nhất thế giới, với hơn 40% dân số bị mắc căn bệnh này. Các vấn đề liên quan đến chế độ ăn uống đã dẫn đến các chứng bệnh khác bao gồm bệnh thận và bệnh tim. Tuổi thọ trung bình trong năm 2009 là 60,6 đối với nam và 68,0 đối với nữ.[50]

Văn hóa

Quan hệ quốc tế

Chú thích

  1. ^ a b c CIA World Fact Book URL Accessed 2 May 2006
  2. ^ “Historia — Nauru — Onet.pl — WIEM Lajt”. Lajt.onet.pl. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010.
  3. ^ a b c Nauru Department of Economic Development and Environment. 2003. First National Report To the United Nations Convention to Combat Desertification (UNCCD). Retrieved 2006-05-03. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “UNCCD” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  4. ^ “Australia ends 'Pacific Solution'. BBC News. 8 tháng 2 năm 2008.
  5. ^ Whyte, Brendan (2007). “On Cartographic Vexillology”. Cartographica: The International Journal for Geographic Information and Geovisualization. 42 (3): 251–262. doi:10.3138/carto.42.3.251.
  6. ^ Pollock, Nancy J (1995). “5: Social Fattening Patterns in the Pacific—the Positive Side of Obesity. A Nauru Case Study”. Trong De Garine, I (biên tập). Social Aspects of Obesity. Routledge. tr. 87–111.
  7. ^ a b Spennemann, Dirk HR (tháng 1 năm 2002). “Traditional milkfish aquaculture in Nauru”. Aquaculture International. 10 (6): 551–562. doi:10.1023/A:1023900601000.
  8. ^ West, Barbara A (2010). “Nauruans: nationality”. Encyclopedia of the Peoples of Asia and Oceania. Infobase Publishing. tr. 578–580. ISBN 978-1-4381-1913-7.
  9. ^ Marshall, Mac (tháng 1 năm 1976). “Holy and unholy spirits: The Effects of Missionization on Alcohol Use in Eastern Micronesia”. Journal of Pacific History. 11 (3): 135–166. doi:10.1080/00223347608572299. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  10. ^ Reyes, Ramon E, Jr (1996). “Nauru v. Australia”. New York Law School Journal of International and Comparative Law. 16 (1–2).Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ a b Firth, Stewart (tháng 1 năm 1978). “German labour policy in Nauru and Angaur, 1906–1914”. The Journal of Pacific History. 13 (1): 36–52. doi:10.1080/00223347808572337.
  12. ^ a b Hill, Robert A (ed) (1986). “2: Progress Comes to Nauru”. The Marcus Garvey and Universal Negro Improvement Association Papers. 5. University of California Press. ISBN 978-0-520-05817-0.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  13. ^ Ellis, AF (1935). Ocean Island and Nauru – their story. Angus and Robertson Limited. tr. 29–39.
  14. ^ Hartleben, A (1895). Deutsche Rundschau für Geographie und Statistik. tr. 429.
  15. ^ a b Manner, HI (tháng 5 năm 1985). “Plant succession after phosphate mining on Nauru”. Australian Geographer. 16 (3): 185–195. doi:10.1080/00049188508702872. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  16. ^ Gowdy, John M; McDaniel, Carl N (tháng 5 năm 1999). “The Physical Destruction of Nauru”. Land Economics. 75 (2): 333–338.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  17. ^ Shlomowitz, R (tháng 11 năm 1990). “Differential mortality of Asians and Pacific Islanders in the Pacific labour trade”. Journal of the Australian Population Association. 7 (2): 116–127. PMID 12343016.
  18. ^ Hudson, WJ (tháng 4 năm 1965). “Australia's experience as a mandatory power”. Australian Outlook. 19 (1): 35–46. doi:10.1080/10357716508444191.
  19. ^ Waters, SD (2008). German raiders in the Pacific (ấn bản 3). Merriam Press. tr. 39. ISBN 978-1-4357-5760-8.
  20. ^ a b Bogart, Charles H (tháng 11 năm 2008). “Death off Nauru” (PDF). CDSG Newsletter: 8–9. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2012.
  21. ^ a b Haden, JD (2000). “Nauru: a middle ground in World War II”. Pacific Magazine. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2012.
  22. ^ Takizawa, Akira; Alsleben, Allan (1999–2000). “Japanese garrisons on the by-passed Pacific Islands 1944–1945”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942.
  23. ^ Garrett, J (1996). Island Exiles. ABC. tr. 176–181. ISBN 0-7333-0485-0.
  24. ^ a b Highet, K; Kahale, H (1993). “Certain Phosphate Lands in Nauru”. American Journal of International Law. 87: 282–288.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  25. ^ a b Davidson, JW (tháng 1 năm 1968). “The republic of Nauru”. The Journal of Pacific History. 3 (1): 145–150. doi:10.1080/00223346808572131.
  26. ^ Squires, Nick (15 tháng 3 năm 2008). “Nauru seeks to regain lost fortunes”. BBC News Online. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2008.
  27. ^ Case Concerning Certain Phosphate Lands in Nauru (Nauru v. Australia) Application: Memorial of Nauru. ICJ Pleadings, Oral Arguments, Documents. United Nations, International Court of Justice. tháng 1 năm 2004. ISBN 978-92-1-070936-1.
  28. ^ Matau, Robert (6 June 2013) "President Dabwido gives it another go". Islands Business.
  29. ^ Levine, Stephen (tháng 11 năm 2005). “The constitutional structures and electoral systems of Pacific Island States”. Commonwealth & Comparative Politics. 43 (3): 276–295. doi:10.1080/14662040500304866. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  30. ^ Anckar, D (2000). “Democracies without Parties”. Comparative Political Studies. 33 (2): 225–247. doi:10.1177/0010414000033002003. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  31. ^ Hassell, Graham; Tipu, Feue (tháng 5 năm 2008). “Local Government in the South Pacific Islands”. Commonwealth Journal of Local Governance. 1 (1): 6–30.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  32. ^ a b “Republic of Nauru Country Brief”. Australian Department of Foreign Affairs and Trade. tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2006.
  33. ^ Connell, John (tháng 1 năm 2006). “Nauru: The first failed Pacific State?”. The Round Table. 95 (383): 47–63. doi:10.1080/00358530500379205.
  34. ^ “Nauru profile”. BBC News. 24 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2012.
  35. ^ “Nauru (High Court Appeals) Act (Australia) 1976”. Australian Legal Information Institute. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2006.
  36. ^ Dale, Gregory (2007). “Appealing to Whom? Australia's 'Appellate Jurisdiction' Over Nauru”. International & Comparative Law Quarterly. 56 (3). doi:10.1093/iclq/lei186.
  37. ^ a b c “Background Note: Nauru”. State Department Bureau of East Asian and Pacific Affairs. tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2006.
  38. ^ “Republic of Nauru Permanent Mission to the United Nations”. United Nations. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2006.
  39. ^ “Nauru in the Commonwealth”. Commonwealth of Nations. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
  40. ^ “Nauru (04/08)”. US State Department. 2008. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2012.
  41. ^ Long, Charles N (tháng 3 năm 2012). “Quantification of the Impact of Nauru Island on ARM Measurements”. Journal of Applied Meteorology and Climatology. 51 (3): 628–636. doi:10.1175/JAMC-D-11-0174.1. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  42. ^ a b Harding, Luke (14 tháng 12 năm 2009). “Tiny Nauru struts world stage by recognising breakaway republics”. Guardian. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010.
  43. ^ Su, Joy (15 tháng 5 năm 2005). “Nauru switches its allegiance back to Taiwan from China”. Taipei Times. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
  44. ^ “China officially severs diplomatic ties with Nauru”. Asia Africa Intelligence Wire. 31 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
  45. ^ “Nauru expects to earn more from exports after port upgrade with Russian aid”. Radio New Zealand International. 15 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.
  46. ^ Central Intelligence Agency (2011). "Nauru". The World Factbook. Retrieved 12 February 2011.
  47. ^ http://web.archive.org/web/20110607064452/http://www.adb.org/Documents/CERs/NAU/CER-NAU-2007.pdf
  48. ^ http://www.who.int/countries/nru/en/index.html
  49. ^ http://www.usp.ac.fj/index.php?id=usp_nauru_home
  50. ^ http://en.wikipedia.org/wiki/Nauru#Demographics

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt