Cổng thông tin:Nghệ thuật/Bài viết/Lưu trữ/6

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trang trước | Trang 6/9 | Trang sau

Real Friends (bài hát)

"Real Friends" là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ gốc Cuba Camila Cabello, trích từ album phòng thu đơn ca đầu tay của cô, Camila. Được viết bởi Cabello, William Walsh, Louis Bell, Brian Lee và Frank Dudes, "Real Friends" trước đây được phát hành với vai trò là một đĩa đơn quảng bá cùng với đĩa đơn "Never Be the Same" cũng nằm trong album vào ngày 7 tháng 12 năm 2017. "Real Friends" từng được miêu tả là có giai điệu mềm mại, với phần nhạc nền được đệm bởi đàn guitar acoustic. Lời bài hát nói về việc Cabello miêu tả cuộc sống của cô và sự mong muốn của cô về một tình bạn thật sự. Phần nhạc nền tối giản của bài hát chứa đựng những âm thanh của dòng nhạc reggae, Latinhtropical. Một phiên bản remix của bài hát với sự góp giọng của nam nhạc sĩ Swae Lee được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 16 tháng 8 năm 2018.

"Real Friends" được sáng tác khi lấy cảm hứng từ môi trường công nghiệp đang phát triển của thành phố Los Angeles, thứ đã làm cho nữ ca sĩ cảm thấy khó chịu trong quá trình thu âm album tại đây. Sau khi ra mắt, nội dung của ca khúc được mọi người tin rằng đang nói về mối quan hệ giữa Cabello với nhóm nhạc nữ mà trước đây cô đã từng đồng hành, Fifth Harmony. Cabello đã lên tiếng phủ nhận điều này, khẳng định rằng bài hát không nói về một người cụ thể nào hết. Ca khúc được các nhà phê bình đón nhận một cách tích cực. Họ đánh giá cao phần âm thanh đàn guitar mềm mại của ca khúc và phần giọng hát của Cabello. "Real Friends" ra mắt và đạt top 100 trên các bảng xếp hạng âm nhạc của một số quốc gia, bao gồm Canada, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Brazil, Bỉ, Tây Ban Nha và Ireland. Dù không góp mặt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100 nổi tiếng của Mỹ, nhưng thay vào đó "Real Friends" lại giành được vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 của tạp chí Billboard sau hơn một tuần ra mắt.

Red Blooded Woman

"Red Blooded Woman" là bài hát của nữ nghệ sĩ thu âm người Úc Kylie Minogue, trích từ album phòng thu thứ 9 Body Language. Được sáng tác bởi Johnny Douglas và Karen Poole với phần sản xuất do Douglas đảm nhận, đây là một bài hát mang giai điệu hip hopsynthpop. Bài hát chứa một đoạn hook "Boy! Boy!" ghi hiệu ứng và giọng nền hợp xướng. Bài hát phát hành rộng rãi dưới dạng đĩa đơn thứ hai của album bởi hãng thu âm Parlophone vào ngày 1 tháng 3 năm 2004.

Các đánh giá đến bài hát đa phần là tích cực bởi các nhà phê bình âm nhạc, với nhiều lời khen ngợi phần sản xuất và so sánh với các nghệ sĩ Mỹ khác như Justin Timberlake hay Timbaland. Về mặt thương mại, đĩa đơn thể hiện tương đối tốt trên các thị trường trọng tâm của Minogue, khi mở đầu trong top 5 bảng xếp hạng đĩa đơn tại Úc và Anh Quốc. Bài hát còn vươn đến top 10 tại nhiều quốc gia như Đan Mạch và Ý, trong khi đạt đến top 20 tại Đức và New Zealand. Bài hát chứng nhận đĩa Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm New Zealand cho doanh số 7.500 bản.

Resistance (bài hát)

"Resistance" là một ca khúc của ban nhạc alternative rock người Anh Muse, được phát hành từ album phòng thu thứ năm của nhóm The Resistance, do giọng ca chính kiêm nghệ sĩ chơi ghita và piano Matthew Bellamy sáng tác. Đây là đĩa đơn thứ ba được phát hành từ album vào ngày 22 tháng 10 năm 2010. Ca khúc có một số mối liên hệ đến tiểu thuyết "1984" của George Orwell. Tháng 2 năm 2010, một hình ảnh câu đố của hình minh họa "Resistance" được đăng tải trên trang Facebook chính thức của Muse. Dòng giới thiệu của bài hát được sử dụng trong tập phim cuối cùng của chương trình BBC Silent Witness và làm nhạc quảng cáo cho một tập phim của Human Target, đồng thời được phát hành làm đoạn nhạc tải về cho video game Guitar Hero: Warriors of Rock. Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 53, "Resistance" nhận được hai đề cử cho hạng mục Trình diễn song ca hoặc nhóm nhạc giọng rock xuất sắc nhấtBài hát rock hay nhất.

Run the World (Girls)

"Run the World (Girls)" là một bài hát được trình bày bởi nghệ sĩ thu âm người Mỹ Beyoncé Knowles. Bài hát "nữ quyền" này được viết bởi Terius "The-Dream" Nash, Knowles, Nick "Afrojack" van de Wall, Wesley "Diplo" Pentz, David "Switch" Taylor, và Adidja Palmer và được sản xuất bởi Switch, Knowles và Shea Taylor. Một bản thu thử của bài hát mang tên "Girls (Who Run the World)", đã bị rò rỉ trên mạng vào ngày 18 tháng 4 năm 2011. Sau đó, bài hát được đổi tên lại thành "Run the World (Girls)" và phát hành chính thức vào ngày 21 tháng 4 năm 2011 với tư cách là đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu thứ tư của cô 4.

Bài hát chủ yếu sử dụng mẫu nhạc của "Pon de Floor" được trình bày bởi Major Lazer, cùng thể loại alternative hip hop-dancehall, hòa với giọng Pop-R&B của Knowles. Tựa đề và lời nhạc của bài hát là một lời nhắn gửi khao khát làm chủ thế giới của phái nữ trong cuộc sống. "Run the World (Girls)" nhận được những ý kiến trái ngược khác nhau của các nhà phê bình âm nhạc. Họ chủ yếu khen ngợi phần mẫu nhạc của bài hát và sự tấn công của Knowles trong khi đó một nhà phê bình chỉ trích hướng đi của thể loại bài hát. Một vài người đã so sánh bài hát với những bản nhạc "nữ quyền" trước của cô như "Independent Women", "Single Ladies (Put a Ring on It)", và "Diva", và cho rằng "Run the World (Girls)" có hướng đi rõ ràng và có sự mạnh mẽ, quyết đoán hơn về nữ quyền.

Slow (bài hát của Kylie Minogue)

"Slow" là bài hát của nữ ca sĩ người Úc Kylie Minogue. Bài hát phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên bởi hãng thu âm Parlophone, trích từ album phòng thu thứ 9 Body Language vào ngày 3 tháng 11 năm 2003. Bài hát do Minogue, Dan CareyEmilíana Torrini sáng tác trong khi được Carey, Torrini và Sunnyroads sản xuất. "Slow" là bài hát nhạc synthpop mà Minogue mời gọi một người "chậm lại" và nhảy cùng cô.

Từ khi phát hành, các nhà phê bình khen ngợi "Slow", với nhiều ý kiến tán thưởng chất giọng gợi tình của cô. Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 47, bài hát nhận đề cử cho "Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất". Về mặt thương mại, bài hát đạt thành công khi vươn đến ngôi đầu bảng tại nhiều bảng xếp hạng ở các quốc gia như Úc, Đan Mạch, Tây Ban Nha và Anh Quốc. Tại Hoa Kỳ, bài hát cũng giành ngôi quán quân tại Billboard Hot Dance Club Songs. Đến nay, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc đã chứng nhận Bạch kim cho bài hát này với doanh số 70.000 bản.

Stairway to Heaven

"Stairway to Heaven" là một bài hát của ban nhạc rock người Anh Led Zeppelin, phát hành vào cuối năm 1971. Nó được sáng tác bởi tay guitar của ban nhạc Jimmy Page và giọng ca Robert Plant nằm trong album phòng thu thứ tư không có tiêu đề của họ. "Stairway to Heaven" được coi là một trong những ca khúc hay nhất lịch sử nhạc rock.

Ca khúc kéo dài tới tận hơn 8 phút, với nhiều đoạn chuyển phức tạp của hòa âm, tông, nhịp cũng như cường độ âm thanh khác nhau. Ca khúc bắt đầu với một đoạn guitar acoustic mềm mại của nhạc folk để rồi sau đó dẫn tới đoạn vào của các nhạc cụ điện. Đoạn cuối trong cấu trúc là một trong những trích dẫn kinh điển của hard rock với đoạn solo guitar bởi Page, giọng gằn kèm với nhiều tiếng thét của Plant, để rồi kết thúc bài hát là một câu nói thầm "And she's buying a Stairway to Heaven".

Speed of Sound

"Speed of Sound" là một ca khúc của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay. Ca khúc được toàn bộ thành viên của ban nhạc đồng sáng tác và là một ca khúc nằm trong album thứ ba của họ, X&Y. Khởi đầu từ một đoạn riff piano, ca khúc được hình thành với phần điệp khúc hoành tráng sử dụng nhiều kỹ thuật của synthesizer. Đây cũng là ca khúc mở đầu của album trên do hãng đĩa Parlophone phát hành. "Speed of Sound" được phát hành ở Mỹ vào ngày 18 tháng 4 năm 2005, và sau đó được Lamacq giới thiệu lần đầu trên kênh phát thanh BBC Radio 1 vào ngày phát hành 19 tháng 4. Hai đĩa đơn mặt B của ca khúc là "Things I Don't Understand" và "Proof". Speed of Sound ra mắt tại thị trường Anh vào ngày 23 tháng 5 cùng năm.

Chris Martin – ca sĩ hát chính của Coldplay – thừa nhận ca khúc được sáng tác sau khi cả nhóm nghe nhạc của nghệ sĩ art rock người Anh Kate Bush. Phần nhịp trống của ca khúc có nét tương đồng với ca khúc "Running Up that Hill" của Bush năm 1985. Ngay sau khi phát hành, ca khúc đạt vị trí á quân tại bảng xếp hạng UK Singles Chart. Tại Mỹ, ca khúc xếp thứ 8 ngay lần đầu tiên có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Đây cũng là ca khúc đầu tiên nằm trong top 10 của ban nhạc, và là ca khúc thành công nhất của họ cho tới khi ca khúc "Viva la Vida" đạt vị trí quán quân vào năm 2008.

The Hardest Part (bài hát)

"The Hardest Part" là một ca khúc của ban nhạc người Anh Alternative rock Coldplay do bốn thành viên của ban nhạc sáng tác cho album thứ ba của họ, X&Y. Là một bài hát ballad trên piano, ca khúc bắt đầu bằng những giai điệu dương cầm, nối tiếp là những đoạn guitar điện đi kèm với nhịp trống tương đối chậm. Đây là đĩa đơn thứ tư từ X&Y, được phát hành vào ngày 3 tháng 4 năm 2006. Bài hát chỉ được phát hành vô tuyến thông qua sóng của các đài phát thanh Vương quốc Anh. Ca khúc còn xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard Hot Adult Contemporary Tracks và đạt tới vị trí thứ 37, trở thành lần xuất hiện đầu tiên của Coldplay trên bảng xếp hạng này và đồng thời mở đường cho các đĩa đơn tương lai như "Viva La Vida", "Paradise" và "Every Teardrop Is a Waterfall". "The Hardest Part" cũng được xếp hạng tại Úc, ÝNew Zealand.

"The Hardest Part" đã nhận nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình cho phong cách âm nhạc của bài hát. Các đĩa đơn nội địa đã được phát hành ở Canada, Châu ÂuÚc, một phiên bản khác được phát hành tại Đài Loan. Các đĩa đơn quảng bá được phát hành ở cả thị trường Anh quốc và Mỹ. Một phiên bản đĩa đơn quốc tế được thực hiện tại Anh Quốc vào 19 tháng 6 năm 2006.

Thềm nhà có hoa

"Thềm nhà có hoa" là bài hát của nữ ca sĩ người Việt Hải Yến, trích từ album phòng thu đầu tay cùng tên của cô, được phát hành vào năm 2006. Do nhạc sĩ Lê Thanh Tâm sáng tác, đây là bài hát mang giai điệu alternative rock với những ảnh hưởng từ popjazz. Ca từ bài hát kể về tình cảm của nhân vật chính dành cho một chàng trai, nhưng cả hai vẫn "chưa thốt nên lời".

Trong thời gian tham dự chương trình Bài hát Việt 2006, bài hát nhận những phản hồi tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc và khán giả, khi liên tiếp đoạt giải "Ca khúc xuất sắc nhất của tháng 7 do Hội đồng nghệ thuật bình chọn", "Ca khúc xuất sắc nhất của tháng 7 do khán giả bình chọn" và "Phối khí hiệu quả nhất"; bài hát tiếp tục đoạt giải "Bài hát được khán giả yêu thích nhất năm 2006" của chương trình vào đầu năm 2007.

Use Somebody

"Use Somebody" là một ca khúc của ban nhạc alternative rock Mỹ Kings of Leon. Đây là đĩa đơn thứ hai từ album phòng thu của ban nhạc, Only by The Night, được phát hành ngày 8 tháng 12 năm 2008.

Đĩa đơn đã tạo nên một cơn sốt trên toàn cầu, đặc biệt là ở Scandinavia, Cộng hòa Ireland, Đức, Vương quốc Anh và Úc, những quốc gia đĩa đơn đã giữ được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Airplay chính thức trong sáu tuần liên tiếp. Ca khúc cũng đạt thành công vang dội ở Mỹ khi đứng đầu bảng xếp hạng của nhiều định dạng airplay khác nhau, đạt thứ hạng 4 trên Billboard Hot 100 và vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Pop Songs. Bài hát nhận được phản hồi tích cực từ giới phê bình, đặc biệt được tạp chí Rolling Stone xếp thứ 72 trong danh sách "100 ca khúc hay nhất thập niên 2000". Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 52, "Use Somebody" đã xuất sắc đoạt ba giải Grammy. Đây được coi là đĩa đơn thành công và nổi tiếng nhất của Kings of Leon cùng với "Sex on Fire".

When You Believe

"When You Believe" là bài hát trong bộ phim hoạt hình âm nhạc có tựa đề Hoàng Tử Ai Cập ra mắt năm 1998 của hãng DreamWorks, được sáng tác bởi Stephen Schwartz. Một đĩa đơn phiên bản nhạc pop của "When You Believe", với phần nhạc và lời do nhà viết nhạc-nhà sản xuất Babyface viết thêm, cũng được hai ca sĩ người Mỹ Mariah CareyWhitney Houston thu âm cho phần giới thiệu cuối phim và album nhạc phim. Ngoài ra, bài hát cũng được đưa vào album phòng thu thứ tư của Houston, My Love Is Your Love và trong album tuyển tập đầu tiên của Carey, #1's. Phiên bản gốc của ca khúc, xuất hiện trong phần kể chuyện của bộ phim, được trình bày bởi Sally Dworsky, Michelle Pfeiffer cùng với một dàn hợp xướng thiếu nhi. "When You Believe" được mô tả là một bài hát đậm chất ballad, với phần lời giàu ý nghĩa và truyền cảm hứng cho người nghe. Bài hát nói về khả năng mà mỗi con người có thể nhận lấy phép màu khi họ tiếp cận và đặt niềm tin vào Chúa.

Yesterday

"Yesterday" là ca khúc của ban nhạc The Beatles trích từ album năm 1965, Help! của họ. Cho dù nó được ghi công sáng tác là cho cặp đôi Lennon-McCartney, ca khúc này thực tế được Paul McCartney viết toàn bộ. Đây là một trong những ca khúc nổi tiếng nhất lịch sử âm nhạc với khoảng 2.200 bản hát lại từng được biết tới. Khi mới được ra mắt cùng với album, "Yesterday" được phát hành dưới dạng đĩa đơn ở Mỹ và chiếm được vị trí số 1 tại đây. Ở Anh, ca khúc sau đó cũng có mặt trong top 10 với bản hát lại của Matt Monro. "Yesterday" được đài BBC Radio 2 bình chọn là ca khúc hay nhất của thế kỷ 20 năm 1999, và ngay năm sau đó cũng được các nhà chuyên môn và độc giả bình chọn ở vị trí số một trong số các ca khúc pop vĩ đại nhất do kênh MTV cũng như tạp chí Rolling Stone tổ chức. Năm 1997, ca khúc được tôn vinh tại Đại sảnh danh vọng Grammy. Broadcast Music, Inc. thống kê rằng ca khúc này đã từng được trình diễn ít nhất là 7 triệu lần chỉ riêng trong thế kỷ 20.

"Yesterday" là một bài hát buồn nói về chuyện tình tan vỡ và được viết cho đàn guitar acoustic. McCartney là Beatle duy nhất có mặt trong phòng thu lúc đó, và đây trở thành ca khúc đầu tiên của ban nhạc mà chỉ có sự đóng góp của duy nhất 1 thành viên. Ca khúc được bè bằng dàn đàn dây tứ tấu. Bản thu cuối cùng của ca khúc này mang phong cách quá khác biệt so với các ca khúc khác của The Beatles, cho nên ban nhạc đã quyết định không phát hành bái hát dưới dạng đĩa đơn tại Anh. Vào năm 2000, McCartney đã từng đề nghị Yoko Ono đổi phần tác quyền đối với riêng ca khúc này từ Lennon-McCartney thành McCartney-Lennon trong tuyển tập The Beatles Anthology, song Ono đã từ chối.

You'll Always Find Your Way Back Home

"You'll Always Find Your Way Back Home" là một bài hát thuộc thể loại country pop được sáng tác cho bộ phim điện ảnh Hannah Montana: The Movie vào năm 2009. Ca khúc do nhân vật chính Hannah Montana thể hiện và do nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift cùng ca sĩ người Mỹ Martin Johnson đồng chắp bút sáng tác. Một phiên bản karaoke của ca khúc cũng xuất hiện trong sê-ri karaoke các ca khúc nhạc phim. Về mặt âm nhạc, "You'll Always Find Your Way Back Home" thuộc thể loại country pop và pop rock. Về mặt ca từ, nội dung bài hát nói về việc hòa nhập thích nghi và trở về quê hương.

"You'll Always Find Your Way Back Home" đã đón nhận thành công về mặt chuyên môn nhờ được sử dụng trong phim. So với những thành tích của Cyrus trong vai Montana trong quá khứ, ca khúc chỉ giành được thành công ở mức trung bình - thấp cho Cyrus ở một số quốc gia. Bài hát đạt vị trí quốc tế cao nhất ở hạng 36 trên bảng xếp hạng Canadian Hot 100. Ca khúc còn đi kèm một video âm nhạc trùng với ấn bản phát hành tại gia của Hannah Montana: The Movie.

Cliff Burton

Clifford Lee "Cliff" Burton (10 tháng 2 năm 1962 – 27 tháng 9 năm 1986) là một nhạc công người Mỹ, được biết đến với vai trò là cầm thủ đánh guitar bass trong ban nhạc thrash metal Metallica của Mỹ từ tháng 12 năm 1982 cho đến khi qua đời vào tháng 9 năm 1986. Burton tham gia Metallica vào năm 1982 và trình diễn cùng với ban nhạc trong 3 album phòng thu đầu tiên: Kill 'Em All, Ride the LightningMaster of Puppets. Ông được ghi nhận công lao đã sáng tác bài hát "To Live Is to Die" cho album phòng thu thứ tư của band, ...And Justice for All.

Ngày 27 tháng 9 năm 1986, Burton qua đời trong một tai nạn xe buýt ở Kronoberg County, một vùng ven đô phía nam Thụy Điển, khi ban nhạc đang trên đường đi trình diễn ra mắt album Master of Puppets. Burton được thay bởi tay bass Jason Newsted trong tháng sau. Ngày 4 tháng 4 năm 2009, ông được vinh danh cùng với Metallica vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Burton được bầu chọn ở hạng 9 trong danh sách những cầm thủ bass vĩ đại nhất mọi thời đại trong một cuộc thăm dò người đọc trực tuyến do tạp chí Rolling Stone tổ chức năm 2011.

EXO (nhóm nhạc)

EXO là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc-Trung Quốc bao gồm 12 thành viên khi debut nhưng hiện tại còn 9 thành viên: Xiumin, Suho, Lay, Baekhyun, Chen, Chanyeol, D.O., KaiSehun. Nhóm được công ty giải trí SM Entertainment thành lập tại Seoul vào ngày năm 2011 và ra mắt công chúng vào 8/4 năm 2012. Âm nhạc của họ được phát hành và biểu diễn bằng tiếng Hàn, tiếng Quan Thoạitiếng Nhật chủ yếu kết hợp với các thể loại nhạc dance pop, hip-hop, R&B, nhạc dance điện tử cũng như housetrap. Nhóm được xếp là một trong năm người nổi tiếng có ảnh hưởng nhất trong danh sách người nổi tiếng quyền lực nhất Hàn Quốc của Forbes từ năm 2014 đến năm 2018, được nhiều phương tiện truyền thông gọi là "Những ông hoàng K-pop" và "Nhóm nhạc nam lớn nhất thế giới".

Ban đầu, EXO ra mắt với mười hai thành viên được chia thành hai nhóm nhỏ: EXO-KEXO-M. Kris, LuhanTao rời nhóm sau các cuộc tranh chấp pháp lý vào năm 2014 và 2015. EXO-K và EXO-M lần lượt biểu diễn âm nhạc của mình bằng tiếng Hàntiếng Quan Thoại trước khi phát hành EP thứ ba Overdose vào năm 2014. Kể từ năm 2015, Exo đã chính thức biểu diễn với tư cách một nhóm nhạc hoàn chỉnh trong khi tiếp tục phát hành và biểu diễn âm nhạc bằng nhiều ngôn ngữ. Các thành viên Chen, BaekhyunXiumin ra mắt với tư cách là thành viên của nhóm nhỏ EXO-CBX vào năm 2016, còn các thành viên SehunChanyeol bắt đầu quảng bá với tư cách thành viên của nhóm nhỏ EXO-SC.

Gary Moore

Robert William Gary Moore (4 tháng 4 năm 1952 – 6 tháng 2 năm 2011) là một nhạc công và nhạc sĩ người Bắc Ireland. Trong suốt sự nghiệp âm nhạc, ông chơi trong nhiều nhóm nhạc và biểu diễn đa dạng thể loại như blues, hard rock, heavy metaljazz fusion.

Chịu ảnh hưởng từ Peter GreenEric Clapton, Moore bắt đầu sự nghiệp vào cuối thập niên 1960 khi ông gia nhập nhóm Skid Row và cùng họ phát hành hai album. Sau khi rời nhóm Moore đầu quân cho Thin Lizzy, tái hợp cùng đồng đội cũ ở Skid Row và đồng nghiệp thường xuyên cộng tác Phil Lynott. Moore bắt đầu sự nghiệp solo vào thập niên 1970 và gặt hái thành công lớn với bài "Parisienne Walkways" – được xem là bài hát trứ danh của ông. Trong thập kỷ 1980, Moore chuyển sang chơi thể loại hard rock và heavy metal, đạt được những thành công nhất định trên thị trường quốc tế. Năm 1990, ông trở về gốc rễ âm nhạc của mình với Still Got the Blues – album thành công nhất sự nghiệp của ông. Moore tiếp tục ra nhạc mới trong suốt giai đoạn cuối sự nghiệp, thỉnh thoảng hợp tác với các nghệ sĩ khác. Moore từ trần vào ngày 6 tháng 2 năm 2011 vì bị trụy tim trong lúc đi nghỉ lễ ở Tây Ban Nha.

Giáng Son

Giáng Son (1 tháng 2 năm 1975) là một nữ nhạc sĩ người Việt Nam. Cô là một trong số ít những nữ nhạc sĩ thành công vào đầu thập niên 2000 của Việt Nam và là cựu thủ lĩnh sáng lập nên nhóm nhạc 5 Dòng Kẻ. Cô là Ủy viên Ban chấp hành của Hội Nhạc sĩ Việt Nam, hội viên của Hội các nhà soạn nhạc thế giới thế kỷ 21 và thành viên của nhóm tác giả M6. Hiện cô đang giữ chức Phó trưởng khoa Kịch hát dân tộc tại trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội.

Giáng Son là con gái út của nhà giáo nhân dân nhạc sĩ Hoàng Kiều và nghệ sĩ chèo Bích Ngọc. Ngay từ nhỏ, cô sớm đã được tiếp cận với âm nhạc dân gian. Giáng Son đã có nền tảng âm nhạc vững chắc khi tốt nghiệp hệ trung cấp khoa sáng tác tại trường Cao đẳng nghệ thuật Hà Nội năm 1994, bậc đại học chuyên ngành sáng tác khoa lý luận – sáng tác – chỉ huy năm 1999 và tốt nghiệp thạc sĩ năm 2009 tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.

H.A.T

H.A.T là nhóm nhạc pop nữ Việt Nam hoạt động từ năm 2004 đến năm 2005. Tên gọi của nhóm được ghép từ những chữ cái đầu tiên của tên của dàn thành viên gốc, bao gồm: Lương Bích Hữu, Phạm Quỳnh AnhThu Thủy. Nhà quản lý Quang Huy và công ty của anh, WePro Entertainment, đã ra mắt nhóm với tư cách là một "món quà tặng kèm" dành cho những khán giả hâm mộ nam ca sĩ Ưng Hoàng Phúc. Ngoài ra, lý do khác mà Quang Huy quyết định thành lập H.A.T là để đánh vào nhu cầu tìm kiếm đại sứ quảng cáo của các nhãn hàng khi thị trường kinh doanh album—mà anh đã từng thành công—bị bão hòa. Cựu thành viên nhóm Mắt Ngọc, Ngô Quỳnh Anh, đã nhanh chóng thế chỗ Thu Thủy sau khi cô quyết định rời nhóm vào năm 2004.

H.A.T đã phát hành hai đĩa EP, Anh không muốn bất công với em 2 – Best CollectionsWe Are H.A.T – Chúng tôi là H.A.T, vào năm 2004. Riêng album thứ hai tiêu thụ được 30.000 bản và trở thành album nhóm bán chạy nhất tại Việt Nam vào thời điểm ra mắt. Tuy nhiên sau khi làm đại sứ thương hiệu cho LipIce, nhóm nhạc chính thức tan rã vào năm 2005. Các thành viên của H.A.T, trừ Ngô Quỳnh Anh, tiếp tục theo đuổi sự nghiệp ca hát solo của mình và nhận được những thành công nổi bật sau khi tan rã. Năm 2017, toàn bộ bốn thành viên của nhóm tái hợp trong "Gia đình tôi chọn", đĩa đơn đánh dấu kỷ niệm 15 năm thành lập công ty WePro.

Iz*One

Iz*One là một nhóm nhạc nữ thần tượng Hàn QuốcNhật Bản được thành lập vào ngày 31 tháng 8 năm 2018 bởi công ty CJ E&M thông qua chương trình truyền hình thực tế sống còn Produce 48 của kênh Mnet và được đồng quản lý bởi hai công ty Off The Record Entertainment và Swing Entertainment. Nhóm gồm 12 thành viên được khán giả Hàn Quốc bình chọn từ 96 thực tập sinh đến từ nhiều công ty giải trí khác nhau của Hàn QuốcAKB48 Group của Nhật Bản, đội hình chính thức bao gồm Kwon Eun-bi, Miyawaki Sakura, Kang Hye-won, Choi Ye-na, Lee Chae-yeon, Kim Chae-won, Kim Min-ju, Yabuki Nako, Honda Hitomi, Jo Yu-ri, An Yu-jinJang Won-young. IZ*ONE chính thức ra mắt vào ngày 29 tháng 10 năm 2018 với mini-album đầu tay Color*Iz. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp giữa các thể loại nhạc EDM như electropop, house, moombahton, future bass, với synth-pop, dance, acousticballad.

Chỉ vài tháng sau khi ra mắt, IZ*ONE đã đạt được những thành công về mặt thương mại, như bán 225.000 đơn vị album và đạt thứ hạng cao nhất là thứ hai trên Gaon Album Chart. Cùng với đó cả album Color*Iz lẫn đĩa đơn chủ đề "La Vie en Rose" đều lần lượt xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard World Albums và World Digital Songs. Những thành tích ngay từ khi mới ra mắt đã đem về cho nhóm giải thưởng Nghệ sỹ Mới của Năm tại một số lễ trao giải như Golden Disc AwardsSeoul Music Awards.

Janet Jackson

Janet Damita Jo Jackson (16 tháng 5 năm 1966) là một nữ ca sĩ, người viết lời bài hát, vũ côngdiễn viên người Mỹ. Được biết đến với một loạt các tác phẩm âm nhạc mang tính sáng tạo, ý thức xã hội và gợi dục, cũng như những đóng góp cho nghệ thuật biểu diễn, truyền hình và điện ảnh, bà được xem là một biểu tượng nhạc pop nổi bật trong hơn 30 năm qua. Là con gái út của gia đình Jackson, bà bắt đầu sự nghiệp với bộ phim truyền hình The Jacksons năm 1976 và xuất hiện trong nhiều chương trình khác xuyên suốt thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, bao gồm Good TimesFame.

Sau khi ký hợp đồng thu âm với hãng đĩa A&M, bà trở thành biểu tượng văn hoá phổ biến khi phát hành album phòng thu thứ ba Control. Sự hợp tác giữa bà và bộ đôi nhà sản xuất thu âm Jimmy Jam & Terry Lewis đã kết hợp nhiều yếu tố khác nhau từ các thể loại rhythm and blues, funk, disco, rapnhạc công nghiệp, dẫn đến thành công đột phá của Jackson trong nền âm nhạc đại chúng. Bên cạnh đó, với sự đổi mới không ngừng nghỉ trong những bản thu âm, vũ đạo, video ca nhạc, và sự nổi tiếng trên sóng radioMTV, Bà được xem là hình mẫu lý tưởng bởi nội dung lời ca mang đậm chất ý thức xã hội của mình.

Jimmy Page

James Patrick Page (9 tháng 1 năm 1944) là một nhạc công, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm người Anh, tay guitar chính và là người sáng lập ban nhạc rock Led Zeppelin. Page rất thành công trong việc tạo ra các guitar riff và phong cách chơi đa dạng của ông liên quan đến việc điều chỉnh các âm điệu guitar khác nhau, những màn độc tấu đầy kỹ thuật, du dương và mạnh mẽ cũng như các tác phẩm acoustic chịu ảnh hưởng từ dòng nhạc dân gian và Phương Đông của ông. Ông cũng được chú ý vì thỉnh thoảng chơi guitar với cung đàn cello để tạo ra sự bay bổng trong âm nhạc.

Page bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nhạc sĩ phòng thu ở London vào giữa những năm 1960, cùng với Big Jim Sullivan là một trong những nghệ sĩ guitar phòng thu nổi tiếng nhất nhất ở Anh. Ông là thành viên của The Yardbirds từ năm 1966 đến năm 1968. Khi The Yardbirds tan rã, ông thành lập Led Zeppelin, hoạt động từ năm 1968 đến năm 1980. Sau cái chết của tay trống John Bonham của Led Zeppelin, ông tham gia vào một số nhóm nhạc trong suốt những năm 1980 và 1990, nổi bật là XYZ, The Firm, The Honeydrippers, Coverdale–PagePage and Plant. Kể từ năm 2000, Page làm khách mời của nhiều buổi biểu diễn khác nhau với nhiều nghệ sĩ, cả ghi âm trực tiếp và trong phòng thu, và tham gia tái hợp với Led Zeppelin một lần vào năm 2007 được phát hành dưới tên phim hòa nhạc Celebration Day năm 2012. Cùng với The EdgeJack White, ông tham gia vào bộ phim tài liệu It Might Get Loud năm 2008.

Jisoo

Jisoo (3 tháng 1 năm 1995) là một nữ ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình người Hàn Quốc, thành viên lớn tuổi nhất của nhóm nhạc nữ Blackpink do YG Entertainment thành lập và quản lý.

Sinh ra tại thành phố Gunpo, tỉnh Gyeonggi, Jisoo gia nhập YG Entertainment vào năm 2011, trở thành thực tập sinh trong vòng 5 năm trước khi ra mắt cùng Blackpink vào tháng 8 năm 2016. Kể từ khi ra mắt, Jisoo cùng Blackpink đã từng bước trở thành hiện tượng toàn cầu, chinh phục thị trường Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác. Bên cạnh vai trò là ca sĩ, thần tượng K-pop, Jisoo còn tham gia diễn xuấtdẫn chương trình. Cô đóng nhiều quảng cáo, tham gia nhiều bộ phim dưới vai trò khách mời trước khi nhận được vai diễn chính đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất trong bộ phim truyền hình Snowdrop lên sóng vào cuối năm 2021.

Linda McCartney

Linda Louise McCartney (24 tháng 9 năm 194117 tháng 4 năm 1998) là một nhiếp ảnh gia, nhạc sĩ và nhà bảo vệ quyền động vật.

Năm 1969, cô cưới thành viên của ban nhạc The Beatles, Paul McCartney, rồi sau đó cùng thành lập ra ban nhạc Wings. Họ có với nhau 3 người con: Mary Anna, Stella Nina, và James Louis. Năm 1997, Linda trở thành Lady McCartney sau khi Paul được phong tước Hiệp sĩ từ Hoàng gia Anh.

Linda từng viết khá nhiều sách hướng dẫn ăn chay, trở thành một doanh nhân với công ty thực phẩm Linda McCartney Foods, và là một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Cô từng viết cuốn sách Linda McCartney's Sixties: Portrait of an Era. Gia đình McCartney phát hiện cô bị mắc bệnh ung thư vú vào năm 1995. Linda qua đời 3 năm sau đó ở tuổi 56 tại trang trại của gia đình ở Tucson, Arizona, Mỹ.

Stevie Ray Vaughan

Stevie Ray Vaughan (3 tháng 10 năm 195427 tháng 8 năm 1990) là một nam nhạc công, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà sản xuất thu âm người Mỹ. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi với 7 năm hoạt động nghệ thuật, anh được coi là một trong những tay guitar có ảnh hưởng nhất của nhạc blues và là một trong những biểu tượng cho sự trở lại của dòng nhạc này trong những năm 1980. Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll miêu tả anh là "xúc cảm của guitar blues".

Sinh ra tại Dallas, Texas, Vaughan bắt đầu chơi guitar từ năm 7 tuổi ảnh hưởng từ người anh trai Jimmie. Năm 1971, cậu bỏ dở trung học và chuyển tới Austin. Cậu là nghệ sĩ khách mời cho nhiều nhóm nhạc, trong đó có ban nhạc của Marc Benno, nhóm The Nightcrawlers, rồi sau đó chơi cùng Denny Freeman trong nhóm The Cobras – những người còn đi cùng anh tới năm 1977. Anh lập nên ban nhạc của riêng mình Triple Threat Revue, trước khi đổi tên thành Double Trouble khi tuyển thêm tay trống Chris Layton cùng tay bass Tommy Shannon. Vaughan có được tiếng tăm sau thành công tại Nhạc hội Jazz Montreux năm 1982, rồi sau đó album đầu tay Texas Flood có được vị trí số 38 với hơn nửa triệu bản tiêu thụ. Sau khi nghỉ ngơi ngắn hạn vào cuối năm 1986, anh đi tour cùng Jeff Beck vào năm 1989 và Joe Cocker vào năm 1990 trước khi qua đời trong một vụ tai nạn máy bay trực thăng vào tháng 8 năm 1990.

Linkin Park

Linkin Park là một ban nhạc rock người Mỹ đến từ Agoura Hills, California. Đội hình hiện tại của ban nhạc bao gồm ca sĩ kiêm tay guitar đệm Mike Shinoda, tay guitar chính Brad Delson, tay bass Dave Farrell, DJ Joe Hahn và tay trống Rob Bourdon, tất cả họ đều là các thành viên sáng lập. Mark Wakefield và Chester Bennington là các cựu thành viên của ban nhạc. Dù được phân vào thể loại alternative rock, âm nhạc thời kì đầu của Linkin Park là sự pha trộn giữa heavy metalhip hop, về sau họ chuyển qua dòng nhạc mang màu sắc electronicapop hơn.

Được thành lập vào năm 1996, Linkin Park trở nên nổi tiếng toàn cầu với album phòng thu đầu tay Hybrid Theory; nhạc phẩm đã giành được chứng nhận Kim cương bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Album này ra mắt vào đúng thời kì dòng nhạc nu metal đang hưng thịnh nhất. Những đĩa đơn của album lên sóng liên tục trên MTV như "One Step Closer", "Crawling" và "In the End" đều xếp thứ hạng cao trên bảng xếp hạng Mainstream Rock; riêng "In the End" còn lấn sang bảng xếp hạng nhạc pop. Album thứ hai của nhóm có tựa Meteora đã tiếp nối thành công của ban nhạc. Nhóm đã khám phá ra dòng nhạc thử nghiệm trong album thứ ba Minutes to Midnight. Đến cuối thập kỷ, Linkin Park đã nằm trong số những nghệ sĩ nhạc rock thành công và nổi tiếng nhất.