Thành viên:Nguyenmy2302/Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm/nháp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng từ tháng 3 năm 1955 và kết thúc vào tháng 6 năm 1958.[1] Tên của phong trào được ghép từ hai ấn phẩm chính trong phong trào, bao gồm bán nguyệt san Giai Phẩm và báo Nhân Văn.[2]

Theo nhiều nguồn nghiên cứu khác nhau, phong trào đã diễn ra một cách tự phát, trong đó tuyên bố mục tiêu là kêu gọi mở rộng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp trị, đòi quyền tự do quan điểm chính trị cho giới nghệ sĩ cùng trí thức, trải dài trên nhiều lĩnh vực triết học, văn nghệ, luật pháp, giáo dục và báo chí.[3] Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng phong trào đã lợi dụng việc sáng tác văn nghệ để tuyên truyền chống phá Nhà nước, khởi nguồn từ một nhóm trí thức bị tình báo nước ngoài cài vào ở miền Bắc nhằm lôi kéo, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo chính trị và nhà nước duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam, gây phương hại đến sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội.

Trong góc nhìn của các nhà nghiên cứu sau này, vai trò của phong trào đã được định hình như một sự kiện lớn trong tiến trình cải cách dân chủ và văn hóa Việt Nam, bên cạnh các phong trào lớn thời thuộc Pháp như phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục.[4]

Bối cảnh lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Dân chủ và văn hóa tại Việt Nam trước năm 1954[sửa | sửa mã nguồn]

Tư tưởng dân chủ tại Việt Nam đã xuất hiện từ cuối những năm thế kỷ 19. Sự du nhập của khái niệm Tây phương này gắn liền với sự đô hộ của Pháp tại Đông Dương suốt một thời gian dài. Những luồng sóng tư tưởng và văn hóa Pháp đã được chính quyền mới truyền bá trong người dân thành thị, tạo nên một tầng lớp trí thức tân học nhưng lại theo đường lối đấu tranh chống Pháp đồng thời xây dựng văn học quốc ngữ.[5][6] Quãng thời gian này, tại các nước Đông Á là Trung Quốc và Nhật Bản đã diễn ra phong trào duy tân, cải cách xã hội. Nhờ vào ảnh hướng lớn của sự kiện Bách nhật duy tân tại Trung Quốc dưới thời Mãn Thanh, tư tưởng dân chủ của các nhân vật cầm đầu phong trào này như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đã tác động đến một bộ phận sĩ phu cấp tiến trong xã hội Việt Nam đương thời, theo đuổi xu hướng tư sản hóa.[7] Giai đoạn trên cũng đánh dấu quá trình chuyển tiếp từ các phong trào yêu nước theo phương pháp bất bạo động sang hướng bạo lực cách mạng. Những lý tưởng trung quân cùng vai trò sĩ phu đã bị thay thế bằng một lớp trí thức mới chịu ảnh hưởng của văn hóa Tây phương, mang trong mình lý tưởng tự do dân chủ và quốc gia dân tộc.[8]

Đã có nhiều tư liệu đề cập, bàn luận về vấn đề dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ 19 và 20. Từ cuối năm 1925, sau khi từ Pháp trở về Việt Nam, Phan Châu Trinh đã có hai bài phát biểu tại Hội Thanh niên Sài Gòn gồm "Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa" và "Đạo đức và luân lý Đông Tây". Đây được coi là những tư liệu sớm nhất, cắt nghĩa ngắn gọn nhất về định nghĩa dân chủ tại Việt Nam trước năm 1945. Ông đã lấy tình hình chính trị tại các nước Á Đông làm hệ quy chiếu và từ đó vạch ra đường lối phát triển của Việt Nam theo hướng xu hướng dân chủ của thế giới đương thời.[5] Khi sự kiện Cách mang tháng Tám thành công, bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh đã một lần nữa đề cập đến tình hình dân chủ tại Việt Nam, mượn các bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để phán ánh sự bóc lột từ thực dân Pháp và phát xít Nhật đối với Việt Nam suốt nhiều thập niên. Bản Tuyên ngôn này cũng xác định quyền của người dân, theo đuổi dân chủ.[9] Dù vậy, trong suốt nhiều thập kỷ trước và sau thế kỷ 20, đã có các quan điểm cho rằng tự do dân chủ không phù hợp với tinh thần phương Đông nói chung và không thể áp dụng cho Việt Nam nói riêng.[5]

Tương tự, sự ra đời của chữ Quốc ngữ trong khoảng thời gian này cũng đã hiện đại hóa nền văn hóa Việt Nam, vốn bị trì trệ bởi nho giáo trong nhiều thế kỷ trung cận đại, và dẫn đến những cuộc cách mạng khai sáng, du nhập nhiều loại hình phương tiện mới, như báo chí, hội họa, âm nhạc phương Tây. Ở lĩnh vực văn học nói riêng, một số phong trào tiêu biểu như phong trào Thơ mới hay Tự Lực văn đoàn đã giúp văn học Việt Nam đạt đến trình độ hiện đại của các quốc gia khác trên thế giới. Nền báo chí Quốc ngữ cũng dần được hình thành và củng cố.[8] Tuy nhiên, kể từ năm 1945 và toàn diện hơn là từ 1954, một phần quá trình hiện đại hóa văn nghệ phía Bắc đã bị đứt đoạn bởi đường lối quản lý quân phiệt của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đoạn tuyệt với những di sản văn nghệ thời kỳ tiền chiến và tuyệt đối hóa chức năng tuyên truyền, phục vụ công nông binh.[3]

Đường lối lãnh đạo văn nghệ trí thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ Hiệp định Genève 1954 đánh dấu việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên nắm quyền miền Bắc Việt Nam, chính quyền phía Bắc đã bắt đầu lên chiến dịch thống nhất miền Nam bằng vũ lực. Trước đó, từ năm 1953, tính chất chuyên chế của chủ nghĩa cộng sản đã trở nên lộ rõ tại miền Bắc, nhất là sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được độc lập từ năm 1949; các tư tưởng đa nguyên dân chủ ở phía Bắc đã bị thay thế hoàn toàn bằng một ý thức hệ duy nhất theo cộng sản chủ nghĩa.[10][11] Để thực hiện cách mạng cũng như không bị đe dọa bởi các luồng tư tưởng đối nghịch, Đảng sớm đã tìm cách kiểm soát quần chúng và gò họ vào khuôn mẫu. Tiêu biểu, trong khoảng thời gian này, có vô số các vụ chỉnh huấn, cải cách xã hội đã diễn ra với quy mô lớn, trên nhiều phương diện và lĩnh vực khác nhau. Từ việc đánh tầng lớp tư sản, quốc hữu hóa tư nhân trong các cuộc cải cách bất động sản tại Hà Nội và tiêu diệt địa chủ trong Cải cách ruộng đất, mục tiêu tiếp theo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là "thanh trừng" giới trí thức được tiếp nhận sự giáo dục từ Pháp – là nhóm người có nhận thức về dân chủ và nhân quyền toàn diện nhất. Vì vậy, những hạn chế về dân chủ, tự do tư tưởng giai đoạn này đã được áp đặt vào nền văn nghệ lẫn trí thức miền Bắc nói riêng và toàn bộ người dân nói chung, không chấp nhận những quan điểm trái chiều với nhà cầm quyền và hạn chế nhất có thể mức độ tự do ngôn luận trong xã hội.[5][10] Trong đó, phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm sau này đã trở thành một cái cớ để chính quyền kiểm soát toàn diện về mọi mặt đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc Việt Nam.[12]

Trước và trong 1945[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1943, Trường Chinh đã lập ra Hội Văn nghệ Cứu Quốc, tổ chức văn nghệ cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản. Cũng vào năm này, ông soạn thảo văn kiện Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong đó hoạch định chính sách văn hoá của Đảng theo Chủ nghĩa Marx, buộc văn nghệ và trí thức phải phục vụ Đảng và dưới sự lãnh đạo chung của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là cương lĩnh văn hóa đầu tiên đánh dấu sự can thiệp của Đảng đối với giới trí thức, văn nghệ sĩ trước 1945 và cả giai đoạn sau này. Suốt nhiều thập niên kế tiếp, Trường Chính được giao chỉ đạo, quản lý chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến, còn Tố Hữu quản lý lĩnh vực văn nghệ nói riêng. Ngày 15 tháng 7 năm 1948, Trường Chinh tiếp tục đọc bài "Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam" tại Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ hai diễn ra tại Việt Bắc, nêu ra những quan điểm về văn hoá trong nước và vạch ra đường lối của văn nghệ cách mạng, kháng chiến cho đến nhiều năm sau này. Cả hai văn kiện do Trường Chinh soạn đã đóng vai trò to lớn, có tác động sâu rộng tới lĩnh vực văn nghệ, văn hóa Việt Nam thời chiến và cả thời bao cấp hậu chiến tranh.[13] Đây đồng thời được xem là nguồn cơn cho sự phản kháng của các văn nghệ sĩ với giới lãnh đạo văn nghệ, bắt đầu từ cuối thập niên 1940.[14] Theo dòng biến thể của Chủ nghĩa Marx, sau này Trường Chính cũng được cho là áp dụng chính sách tương tự của Chủ nghĩa Mao Trạch Đông vào phần lớn văn kiện liên quan đến quản lý văn nghệ của mình.[3]

Trái ngược với bản đề cương trên, trước tháng 9 năm 1945, Nguyễn Hữu Đang cùng Nguyễn Đình Thi đã cho ra mắt sách Một nền văn hóa mới, trong đó đề xướng các đường lối xây dựng nền văn hóa văn nghệ tại miền Bắc mang tính cởi mở và dân chủ hơn so với bản Đề cương văn hóa của Trường Chinh. Cuốn sách đề nghị các điểm bao gồm: sách vở và báo chí được xuất bản tự do; trợ cấp cho những nhà văn và nghệ sĩ có tài; đặt những giải thưởng toàn quốc về nghệ thuật tổ chức những cuộc trưng bày, lập viện bảo tàng; lập nhà in và nhà xuất bản quốc gia theo lối làm việc tập đoàn; và tạo dựng những cơ quan trao đổi văn hóa với ngoại quốc.[8]

Ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và chuyển sang hoạt động dưới tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương trong chiến tranh chống Pháp. Mục đích cho việc này là nhằm che lấp đi gốc quốc tế cộng sản của tổ chức, hoạt động dưới danh nghĩa Mặt trận Việt Minh để huy động sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế trong cuộc chiến chống Pháp.[13] Nhiều trí thức, văn nghệ sĩ cả nước đã tỏ thái độ ủng hộ, chủ động tham gia hoặc nhận lời mời về làm việc cho Việt Minh và tích cực tham gia đấu tranh vì lòng yêu nước; hầu hết họ đều không hề biết về thân phận cộng sản của Việt Minh, cũng như không có một định nghĩa rõ ràng về chủ nghĩa cộng sản.[10][15][8] Lúc này, cũng chưa nhiều người biết đến các chính sách văn hóa của Đảng cùng bản Đề cương về văn hóa Việt Nam của Trường Chinh.[16]

Sau 1945[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn 1946-1948, khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, giới văn nghệ, trí thức vẫn được thoải mái sáng tác, phát biểu. Điều này một phần là do bộ máy quản lý còn lỏng lẻo và cũng một phần chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Pháp.[3] Nhiều tác phẩm cách mạng tiêu biểu đã ra đời giai đoạn này, góp phần lớn vào việc cổ vũ chống Pháp thời chiến. Nhưng sớm sau đó, các lệnh giới nghiêm, đường lối văn nghệ độc tôn mà Đảng đề ra trước đó đã được áp dụng, dẫn tới những xung đột giữa chính quyền với giới trí thức, giới văn nghệ sĩ.[17][18] Sự bất đồng đã nhen nhóm từ cuối thập niên 1940 và lên đến đỉnh điểm sau 1954, khi Hiệp định Gèneve được ký kết, hai miền Nam Bắc bị chia cắt.[13] Sự kiện được xem là chính thức đánh dấu sự hoạch định của Đảng với văn nghệ là vào tháng 7 năm 1948, trong Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II họp ở Việt Bắc, Hội Văn nghệ được thành lập và quản lí bởi Trường Chinh thay cho Hội Văn hóa Cứu quốc cũ lãnh đạo bởi Nguyễn Hữu Đang bị giải tán đã đưa giới trí thức hoàn toàn theo đường lối bị lãnh đạo và kiểm duyệt.[3][8]

Vì chính quyền Việt Nam trẻ tuổi vẫn phải phụ thuộc nhiều mặt vào Trung Quốc và Liên Xô, một làn sóng của Chủ nghĩa Stalin, đặc biệt là Chủ nghĩa Mao Trạch Đông đã tràn vào xã hội miền Bắc Việt Nam và tạo ra những hệ quả xấu. Ảnh hưởng từ tính độc tài của hai loại chủ nghĩa đã dẫn đến các sai lầm của nhà nước, không dừng lại với những người trung thành cách mạng trong Cải cách ruộng đất mà còn tiếp nối với những đợt chỉnh huấn, kiểm thảo gắt gao trong văn hóa, văn nghệ.[3][13] Nổi bật trong giai đoạn này, chính quyền đã gây sức ép buộc các văn nghệ sĩ phải sáng tác theo đường lối cổ động: đấu tranh giai cấp, tố cáo đế quốc, bày tỏ sự căm thù chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại sự nghiệp thống nhất đất nước. Đối với thơ, các thể thơ chỉ được tinh giản lại xuống thành thể thơ lục bát, song thất lục bát mang âm hưởng ca dao để dễ thuộc và tuyên truyền hơn.[19] Vì vậy, các tác phẩm trong giai đoạn trên hầu hết bị phản ánh là theo chủ nghĩa công thức một chiều với hình tượng cách mạng lý tưởng của Đảng và Hồ Chí Minh, giản đơn sơ lược.[20][21] Những thể nghiệm theo khuynh hướng "nghệ thuật vị nghệ thuật", hiện thực mới, nhân văn mới về con người trong giai đoạn này cũng bị phê phán nghiêm khắc bởi Tuyên huấn.[19][22] Không chỉ vậy, nhiều thể loại nghệ thuật dân gian như ca tuồng, chèo, vọng cổ, cải lương... đã bị bài trừ từ năm 1950, trong các buổi họp hội nghị văn nghệ trung ương ở Bắc Kạn, và thay vào đó tôn kịch nói lên làm chính. Sau này, nhiều cái tên như Phạm Duy, Tạ Tỵ[3] vì không chịu được các chính sách tả khuynh, cực đoan của Đảng đã quyết định "dinh tê", bỏ hẳn vào Nam; số ở lại thì bắt đầu lên tiếng đấu tranh.[13][17]

Những dấu hiệu phản kháng đơn lẻ đầu tiên đã bắt đầu từ nhà báo Nguyễn Hữu Đang (1948), họa sĩ Tô Ngọc Vân và Sỹ Ngọc lần lượt phản đối các chính sách của Trường Chinh;[14] luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1949) ví "văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó"; Trương Tửu bị tướng Nguyễn Chí Thanh phê phán trong quân đội vì mang tư tưởng Trotsky;[13] Hoàng Cầm (1950) tuyên bố "Đảng không nên nhúng tay vào chuyên môn của nghệ thuật".[23] Năm 1949, nhà thơ Hữu Loan đã sáng tác bài "Màu tím hoa sim" sau cái chết của vợ. Bài thơ bị lan truyền trong quân đội đã tạo nên sức ảnh hưởng rất lớn vì tính chất phi giai cấp, lên án chiến tranh của nó. Vì tinh thần bài thơ đi ngược lại với chính sách của quân đội, Hữu Loan đã bị phê bình và gây khó dễ trong một thời gian dài.[24]

Tiền đề ra đời[sửa | sửa mã nguồn]

Thắng Pháp, chủ nghĩa Mác đã chứng minh được tính khả tín của nó như một ý thức hệ (công cụ) trong kháng chiến, nhưng trong lĩnh vực văn hóa, nó đã không thể thành công trong việc tiêu diệt những giá trị của các huyền thoại và văn hóa tinh hoa cũng như văn hóa bình dân Việt Nam – bao gồm cả các giá trị của di sản thuộc địa nơi các trí thức Pháp học. Nhiều trí thức đã phản đối sự can thiệp chuyên chế của Đảng, những can thiệp khiến họ gần như ngạt thở. Trước kháng chiến họ đã có dịp đọc Từ Liên Xô trở về (Retour de l´URSS) của André Gide xuất bản năm 1936, và thậm chí vài người còn đọc được Trại súc vật (Animal Farm) của George Orwell xuất bản năm 1945. Thông điệp của những cuốn sách này hẳn không phải không để lại dấu vết nào trong họ.

Heinz Schütte, [8]

Tình trạng bất mãn âm ỉ và kéo dài trong giới nghệ sĩ và trí thức đối với Đảng đã dẫn đến kết quả cuối cùng là sự ra đời của Nhân Văn – Giai Phẩm. Theo Thái Kế Toại (2010), một trong những thành tố tạo ra phong trào bắt nguồn từ cảm hứng của một cuộc cách tân văn học bởi các văn nghệ sĩ, sau đó là giới trí thức, trước 1945.[3] Giai đoạn chuyển tiếp chế độ hậu 1954 đã yêu cầu giới nghệ sĩ phải có cái nhìn mới, hiện thực mới với những sáng tác mới; phong trào được lập ra đã đánh đúng vào điểm tất yếu này.[22] Ở mặt chính trị, những sai lầm của thể chế sau vụ Cải cách ruộng đất, bên cạnh tình trạng tham nhũng, lũng đoạn của một bộ phận cán bộ bộ máy, đã trở thành trọng tâm trong các bài viết kêu gọi xây dựng một chế độ "pháp trị" ở miền Bắc Việt Nam.[3]

Theo Boudarel và Hoàng Văn Chí, thời gian diễn ra phong trào có liên hệ trực tiếp tới phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" năm 1956 của Trung Quốc. Trần Dần, một trong những thành viên khởi đầu của phong trào, bị chính quyền cáo buộc đã chịu tác động bởi tư tưởng của nhà văn bất đồng chính kiến Hồ Phong ngay từ chuyến công tác tại Trung Quốc tháng 7 năm 1954. Tên tờ Nhân Văn, tờ báo nổi tiếng của phong trào, cũng được cho là trích dẫn từ một câu nói của Hồ Phong: "Hiện thực xã hội theo quan niệm của tôi phải quay về với con người... về sự giải phóng con người... về tinh thần nhân văn".[25] Nhưng theo Thụy Khuê, phong trào này bắt đầu nở rộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam từ khoảng tháng 4 năm 1955, và những thành viên chính của Nhân Văn – Giai Phẩm hầu hết đều chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp, vì vậy sẽ không mấy người biết Hán văn để đọc Hồ Phong.[25] Theo Lê Đạt, Trần Dần không thực sự bị ảnh hưởng bởi Hồ Phong khi ở Trung Quốc mà "chỉ vô tình đã nghe thấy nhắc đến tên Hồ Phong tại một quán sủi cảo hay vịt quay nào đó".[26] Trần Dần trước đó cũng đã có những bất mãn riêng trong lối lãnh đạo văn nghệ của chính quyền.[20]

Tổng quan[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm vi phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm vi của phong trào trải dài ở nhiều lĩnh vực khác nhau và ở nhiều cơ quan chính trị, bắt đầu từ quân đội và lan ra các hội văn nghệ, các trường đại học. Nhìn chung, sự phủ sóng của phong trào không chỉ gói gọn ở vấn đề văn học mà còn lan sang kịch – điện ảnh, báo chí và chính trị. Theo Trần Dần, những bài viết trong Nhân Văn – Giai Phẩm phần lớn được chia làm hai loại, loại A là các bài chính luận trực tiếp hoặc văn học dấn thân của những nhà trí thức về vấn đề trong xã hội, còn loại B là các sáng tác của văn nghệ, mang ít tính nguy hiểm hơn.[5] Tất thảy các bài viết, tác phẩm trong phong trào đều mang xu hướng đổi mới và không đi theo các hình thức văn nghệ đương thời. Các bài viết mang hai mục đích: thứ nhất là vạch trần mặt xấu của xã hội mới, thứ hai là lên tiếng nói đòi hỏi quyền tự do về ngôn luận, dân chủ trong đời sống chính trị và độc lập sáng tác văn nghệ tại miền Bắc Việt Nam sau 1954.[27][28]

Các ấn phẩm chính[sửa | sửa mã nguồn]

Có tổng cộng 5 số của Giai Phẩm theo các mùa Xuân, Thu, Đông được xuất bản, cụ thể là ba tập Giai Phẩm mùa Thu; một tập Giai Phẩm mùa Xuân và một tập Giai Phẩm mùa Đông. Cùng với đó, 5 số báo Nhân Văn đã được chính thức phát hành. Đây là hai ấn phẩm đóng vai trò quan trọng, đại diện cho toàn bộ phong trào.[28][23] Nhưng ngay từ sớm hơn và trong giai đoạn cao trào, các tờ báo lớn do Đảng quản lý cũng đã tham gia với nhiều bài viết góp giọng theo phong trào.[23] Ngoài số ấn phẩm này, còn có các xuất bản phẩm liên quan nhưng ít được biết đến hơn hơn, đó là tạp chí Đất mới dành cho sinh viên do Bùi Quang Đoài chủ nhiệm; Tự do diễn đàn số 1, ra ngày 10 tháng 12 năm 1956; Sách Tết 1957 và tờ Sáng tạo (kịch trường và điện ảnh) của nhóm Phan Tại – Trần Thịnh. Sau khi hai ấn phẩm Nhân Văn cùng Giai Phẩm bị chấm dứt, đa số các thành viên phong trào vẫn đăng nhiều bài trên báo Văn trong năm 1957, trước khi phong trào hoàn bị dập tắt.[2][3] Cơ quan chính in ấn tập san Giai Phẩm, Đất mới, Tự do diễn đànSách Tết 1957 là Nhà xuất bản Minh Đức, do Trần Thiếu Bảo thành lập và quản lý.[29]

Một tờ báo khác có liên quan tới phong trào là Trăm Hoa. Đây là một tờ báo tư nhân, hoạt động từ tháng 9 năm 1955 sang 1957.[30][31] Ban đầu chủ nhiệm của báo là Nguyễn Mạnh Phác, sau này Nguyễn Bính đã đảm trách vai trò này và tiếp tục ấn hành báo dưới trên Trăm Hoa (bộ mới).[3] Tờ báo này được biết đến khi từng đăng những sáng tác quan trọng mà sau này đã bị chính quyền cấm, như bài "Màu tím hoa sim", "Hoa lúa" của Hữu Loan.[32][33] Trăm Hoa cũng được biết đến khi hưởng ứng theo xu hướng của phong trào[3][34] dù sau đó đã bắt đầu chống lại nó.[cần dẫn nguồn]

Thành viên trong phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Hầu hết các thành viên có tham gia vào phong trào đều là những nghệ sĩ, trí thức cách mạng trẻ đã hoạt động cho Việt Minh giai đoạn Chiến tranh Đông Dương và tiếp tục phục vụ sau 1954. Những người này đảm trách các chức vụ quan trọng, bậc cao trong văn nghệ, quân đội, các trường đại học tại miền Bắc Việt Nam.[3][17] Cho đến trước khi Bộ Văn hóa ra đời tháng 2 năm 1955, Hội Văn nghệ thành lập từ năm 1948 đã đảm trách việc quản lý toàn bộ văn nghệ sĩ. Những văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến trong quân đội thì được quản lý bởi Phòng Văn nghệ quân đội của Quân đội nhân dân Việt Nam.[3]

Theo Thụy Khuê, có tổng cộng 5 thành viên chính cùng duy trì hoạt động các tờ Nhân Văn, Giai Phẩm xuyên suốt phong trào. Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo (Minh Đức) là nhóm ba người bạn từng chủ trương việc xuất bản lại các tác phẩm có giá trị thời tiền chiến của Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng. Còn nhóm Hoàng CầmLê Đạt thì từng lập ra Giai Phẩm mùa Xuân.[35]

Trong Nhân Văn – Giai Phẩm, ba bài tư tưởng lớn nhất đại diện cho phong trào được viết bởi Phan Khôi, Trương Tửu và Nguyễn Mạnh Tường. Đây được xem là những minh chứng cho sự chuyển biến về tư tưởng dân chủ của người Việt Nam từ đầu đến giữa thế kỷ 20, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó đã bị cho là "thoái hóa" bởi sự thù địch và tuyên truyền của chính quyền.[14]

Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Thụy An, Minh Đức lần lượt là những cái tên được xem như "cầm đầu" toàn bộ diễn tiến chính trị của phong trào (Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên huấn quân đội). Nhưng tại phiên tòa xử nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, 5 người lại là Thụy An, Hữu Đang, Lê Nguyên Chí, Phan Tại và Minh Đức.[36]

Xuyên suốt phong trào, các thành viên của Nhân Văn – Giai Phẩm có những đường hướng, lối đấu tranh khác nhau: trong khi giới trí thức bày tỏ một lập trường rõ ràng, quyết liệt hơn để đòi hỏi dân chủ, các văn nghệ sĩ như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, lại theo đuổi phong cách đấu tranh văn nghệ nhưng vẫn tin vào sự lãnh tụ tối cao của Đảng.[37] Phần lớn những nhân vật trên mang tư tưởng hữu khuynh, trái ngược đại đa số theo tả khuynh khi ấy.

Nguyễn Hữu Đang[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Hữu Đang là một thành viên tích cực của cộng sản, hoạt động cách mạng ở cả lĩnh vực chính trị lẫn văn nghệ. Từ trước 1945, ông đã nổi bật với hoạt động cách mạng tại tổ chức Hội Văn hóa Cứu Quốc và Hội Truyền bá Quốc ngữ cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, trong đó xuất bản nhiều đầu sách phổ cập chữ Quốc ngữ để xây dựng phong trào quần chúng trong cách mạng chống Pháp.[8] Vị thế của ông những năm cuối thập niên 1940 được đặt ngang tầm Trường Chinh và là "cánh tay phải" của Hồ Chí Minh. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nguyễn Hữu Đang đã được Hồ Chí Minh giao trọng trách tổ chức sự kiện Tuyên bố độc lập tại Hà Nội. Ông còn kiêm nhiệm các chức vụ cao trong Hội Thanh niên, Ban Tuyên truyền,[8] Uỷ ban vận động mặt trận văn hoá trong Việt Minh.[38][39] Đến năm 1947, ông chính thức được gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam.[40] Từ tháng 6 năm 1949 đến tháng 10 năm 1954, ông được cử làm Trưởng ban Thanh tra Bình dân học vụ. Tuy nhiên, có nguồn ghi nhận thực tế rằng do những bất đồng về quan điểm với Trường Chính trong việc quản lý văn hóa văn nghệ từ năm 1946, nhất là với đường lối trong "Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam", năm 1948 ông Đang đã rút lui khỏi công tác Đảng về sống tại Thanh Hóa.[3][8] Tại đây, ông tham gia quản lý Nhà xuất bản tư nhân Minh Đức cùng bạn thân là Trần Thiếu Bảo, cho in các tác phẩm văn nghệ tiền chiến của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng...[39][41] Sau năm 54, ông chủ động nhận công tác biên tập tại tờ báo Văn nghệ.[8]

Năm 1956, khi Trường Chinh từ chức Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam do những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, Nguyễn Hữu Đang đã trở thành người chính thức phát động phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bằng việc lên tiếng tại các lớp học tập dân chủ, học tập chính trị; khuyến khích các nhà văn nêu cao quan điểm của mình; cũng như là người lập ra tờ báo Nhân Văn, viết những bài đả kích lãnh đạo Đảng và giới văn nghệ sĩ có quan điểm bảo thủ.[13][42] Về lập trường chính trị, ông được cho là mang chủ trương "vô chính phủ", tuy phục vụ cho Đảng nhưng vẫn giao lưu với những người trong hay nhóm chính trị ngoài chính quyền có tư tưởng chống cộng sản.[39] Ông cũng là người theo đuổi việc cải tạo bộ máy chuyên chế của Đảng bằng sức mạnh ngòi bút và báo chí.[8]

Hoàng Cầm[sửa | sửa mã nguồn]

Trước Nhân Văn – Giai Phẩm, Hoàng Cầm đã là một nhà thơ thuộc lớp đàn anh của văn nghệ sĩ cách mạng và có tiếng nói nhất định trong giới văn nghệ sĩ. Giai đoạn trước và sau 1945, ông được biết đến là tác giả văn học và đặc biệt là nhà kịch thơ Việt Nam, khi các vở kịch thơ của ông như Kiều Loan, Hận Nam Quan, Viễn khách đã được trình diễn tại một số sân khấu lớn nhỏ khác nhau.[43][44] Ông cũng từng là thành viên của nhóm thơ tiền chiến Dạ Đài, cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương. Dưới thời chiến tranh Đông Dương, ông lập ra đội văn nghệ tuyên truyền đầu tiên trong quân đội – đoàn Văn nghệ Liên khu Việt Bắc và duy trì hoạt động quản lý từ năm 1948 đến năm 1952. Khoảng thời gian 1952 tới 1955, ông tiếp tục đảm nhận nhiều vị trí văn nghệ lớn như đoàn trưởng đoàn Văn công Tổng cục Chính Trị, đoàn kịch nói Văn công Quân đội. Từ cuối năm 1955, do những bất đồng với đồng nghiệp, ông chuyển về hoạt động tại Hội Văn nghệ, làm công tác xuất bản.[17][45]

Các tác phẩm của Hoàng Cầm, đặc biệt là kịch thơ, từng trở thành chủ đề của những tranh cãi trong nội bộ văn nghệ cộng sản. Nhiều người cho rằng sáng tác của ông khi ấy là "đồi trụy", "rên rỉ, lướt thướt". Cùng với Phạm Duy, Hoàng Cầm đã bị gây sức ép công khai bởi các nhân vật trọng yếu trong Ban Văn nghệ, bao gồm Tố Hữu, đến mức phải tự tuyên bố "treo cổ" sáng tác kịch thơ của mình; Phạm Duy sau đó đã bỏ vào Nam để tiếp tục hoạt động. Tới 1954, trong một màn biểu diễn quan họ ở quân đội, Hoàng Cầm đã bị người xem ngay giữa khán đài lớn tiếng lên án, đả đảo "đồi trụy" vì nội dung của một câu trong quan họ. Phải nhờ đến sự bênh vực từ Nguyễn Chí Thanh thì sự việc mới kết thúc.[17] Sau này, trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, ông chủ trương đấu tranh dân chủ bằng con đường văn nghệ, tiêu biểu là các đợt phê bình sáng tác thơ của cấp trên là Tố Hữu, cùng bài "Con người Trần Dần", mà ông viết nhằm minh oan cho đồng nghiệp trước sự đàn áp của giới cầm trịch văn nghệ.[17][46]

Theo Thụy Khuê, những sáng tác nổi tiếng nhà thơ như "Tâm sự đêm giao thừa", "Bên kia sông Đuống",... tuy không được phổ biến trên báo Đảng nhưng vẫn có sức lan truyền mạnh mẽ qua các kênh truyền thông đại chúng, và chúng có "đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền cho tinh thần chiến đấu vệ quốc quân". Cũng theo bà, sự nghiệp thi ca của Hoàng Cầm không chỉ "có phần nổi tiếng hơn Tố Hữu" mà còn "được mọi người yêu mến" vì "[...] rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ hay một chủ nghĩa ngoại lai như trường hợp Tố Hữu". Điều này có thể lý giải vai trò chính của Hoàng Cầm trong việc vận động các nghệ sĩ tham gia vào phong trào và lên tiếng bảo vệ thành viên của phong trào.[47][17]

Trần Dần[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Dần là một nhà thơ hoạt động cách mạng từ thời tiền chiến. Ông từng là thành viên của nhóm Dạ đài, bên cạnh các tác giả Thơ mới khác trước chiến tranh chống Pháp. Ông chính thức gia nhập cách mạng năm 1947 và làm Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cùng năm. Từ năm 1953, khi còn công tác tại Văn công quân đội, Trần Dần đã bị kỷ luật vì "đả kích cán bộ sáng tác" và phải chuyển về làm tại Cục Tuyên huấn quân đội.[20] Giai đoạn 1954-1955, cùng với như Lê Đạt, ông xảy ra mâu thuẫn với chính quyền vì bị ngăn cấm không cho kết hôn với người yêu ở phố Sinh Từ – vốn là con nhà theo đạo, có người thân di cư vào Nam.[47][48] Trần Dần là người mở đầu cho phong trào khi đã dẫn đầu những văn nghệ sĩ cùng yêu cầu sự tự do trong việc sáng tác văn nghệ trong quân đội, sau đó vẫn hoạt động tích cực ở giai đoạn chính thức của phong trào. Dù tại thời điểm tham gia phong trào, tên tuổi của ông chưa được biết đến nhiều, nhưng bài thơ "Nhất định thắng" mà ông sáng tác đã trở thành tác phẩm tiêu biểu hơn cả trong Nhân Văn – Giai Phẩm. Nó đồng thời cũng khiến ông gặp phải vô số rắc rối về sau.[47]

Về lập trường đối với Nhân Văn – Giai Phẩm, ông ủng hộ nhưng sau này lại sợ hãi, hối hận và phản đối, dù vậy vẫn âm thầm mang quan điểm chống đối những đường lối văn nghệ của Đảng, có thể thấy rõ qua cuốn hồi ký Trần Dần ghi (2001). Điều này đã phản ảnh những mâu thuẫn trong tư tưởng của ông, giữa Đảng cách mạng và sự cách tân dân chủ.[36][47]

Lê Đạt[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng giống như Trần Dần, Lê Đạt là một người tích cực theo đuổi cách mạng. Từ tuổi 19, ông đã là "bí thư văn nghệ" của Trường Chinh. Trong quá khứ, ông có một thời gian theo Quốc dân đảng và chịu ảnh hưởng lớn từ làn sóng Tự lực văn đoàn, trước khi được "giác ngộ" bởi Việt Minh. Năm 1949, ông được gọi về Hội Văn nghệ làm trợ lý cho Tố Hữu. Lê Đạt từng kết hôn với một cán bộ trong Đảng nhưng người vợ này đã chủ động đệ đơn ly hôn. Việc chính quyền ngăn cản việc cả hai đạt thỏa thuận ly hôn để ông đến với nghệ sĩ kịch múa tên Thúy Thúy sớm đã gây ra những bất mãn trong ông.[a][37] Trong Giai Phẩm Mùa Xuân, ông góp cho tập thơ hai bài gồm Làm thơMới. Ngay từ những tác phẩm này, rất nhiều chi tiết mang hàm ý đòi hỏi quyền tự do, những suy tư về thời cuộc và đất nước đã được nêu lên. Đáng chú ý, chi tiết "bình vôi" trong bài Mới, đi kèm với bài khảo luận của Phan Khôi sau đó, đã dẫn ông tới những cấm đoán sau này.[47] Sau khi phong trào trở lại, ông đã viết bài thơ "Nhân câu chuyện mấy người tự tử" nổi tiếng, đăng trên tờ Nhân Văn số đầu tiên, cũng gây ra không ít phiền toái cho ông.[49] Ông là một trong những cái tên chính quản lý và biên tập tờ Nhân Văn, tham mưu cho việc xuất bản tờ báo.[37]

Ông đã được xem là người đầu tiên "làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới". Ông cũng được nhìn nhận như là người đầu tiên đặt vấn đề về tư tưởng "nhà văn dấn thân" trong văn học Việt Nam (Thụy Khuê, 2009).[b] Khác với lối thơ mang tính "nổi loạn" như của Trần Dần nhằm phá bỏ những trói buộc với bản thân, Lê Đạt ngay từ đầu phong trào đã tỏ ra là một nhà thơ có hoài bão chính trị, viết các sáng tác kêu gọi việc nới lỏng tự do cho giới nghệ sĩ trong Đảng. Thời gian tham gia phong trào, ông đang đảm trách chức vụ trong ban tuyên huấn quân đội.[47]

Nguyễn Mạnh Tường[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Mạnh Tường là một luật sư, giáo viên và nhà nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam thế kỷ 20.[50][51] Từ năm 22 tuổi,[52] ông đã trở thành người Việt trẻ tuổi đầu tiên và duy nhất tại cả Việt Nam và Pháp giành được hai bằng Tiến sĩ quốc gia (docteur d’État) dưới thời thuộc Pháp và được người Pháp công nhận là một "nhà biện lí đáng gờm".[52][53] Sau 1945, ông đã được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trọng dụng với tư cách là luật sư và tham gia vào các hội nghị ngoại giao quan trọng bên ngoài quốc tế. Tuy nhiên, ông cũng sớm bị coi như là một phần tử "ngoan cố" bởi chính quyền khi thể hiện những quan điểm chống đối với bất cập của thể chế chính trị khi đó.[54][52] Trong phong trào, ông đã góp bài phát biểu về Cải cách ruộng đất của mình lên một ấn phẩm thuộc Nhân Văn – Giai Phẩm, và ngay sau đó đã bị đàn áp bởi chính quyền đương thời trong nhiều thập kỷ.[55]

Trương Tửu[sửa | sửa mã nguồn]

Ông là một nhà nghiên cứu và phê bình văn học nổi tiếng trong giới văn nghệ. Trương Tửu đã tham gia vào phong trào từ 1956 với hai bài "Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ" và nhóm bài "Văn nghệ và chính trị" – "Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích" đăng trên các tập Giai Phẩm, giúp ông được coi là "lãnh đạo tư tưởng" của cả phong trào. Trong các bài viết này, ông đã đả kích nặng nề sự quan liêu, độc tài của các nhà lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt là Tố Hữu – là đầu tàu của phong trào văn nghệ khi ấy, đồng thời kêu gọi việc sa thải các nhà lãnh đạo văn nghệ "thiếu tư cách", "thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa" của chủ nghĩa sùng bái cá nhân trong xã hội, mà bị ông coi như một thứ "cản trở sức phát triển nghệ thuật".[14]

Khác với Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường – được cho là những người chống lại quan niệm đấu tranh giai cấp – Trương Tửu lại vốn là người thuộc phong trào Đệ Tứ Cộng sản tại Việt Nam. Ông đã đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp để đòi hỏi tự do dân chủ, mà tiêu biểu có thể thấy qua bài "Văn nghệ và chính trị", được xem là tiếng nói mạnh mẽ nhất của phong trào.[14]

Trần Đức Thảo[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Đức Thảo là một triết gia quan trọng của triết học Việt Nam, được biết đến với những nỗ lực hợp nhất hiện tượng họctriết học Marxist. Trên thế giới, ông là "người Việt Nam duy nhất được coi là triết gia".[56] Các nghiên cứu của ông được nhận định đã đóng vai trò quan trọng trong việc cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.[57] Trong Nhân Văn – Giai Phẩm, ông đã góp hai bài viết về mở rộng tự do dân chủ.[58] Vì thế mà ông cùng với Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường và Đào Duy Anh đã trở thành bốn trí thức chính bị đấu tố vì liên can đến phong trào.

Phan Khôi[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Khôi là một nhà báo, nhà trí thức lớn theo trường phái hữu khuynh. Ông từng là học trò thân thiết của Phan Châu Trinh và sau này đã được truyền lại di sản, kinh nghiệm đấu tranh từ thầy.[4][59] Ông không chỉ được xem là một trong nhưng cây bút phản biện tiêu biểu trong giới học thuật Việt Nam[60][61] mà còn có nhiều đóng góp cho các sự kiện lớn trong tiến trình văn hóa trong nước, như chủ báo tờ Phụ nữ thời đàm; tác giả bản dịch Kinh Thánh đầu tiên năm 1926 hay là người khai sinh phong trào Thơ mới với bài thơ "Tình già". Trong Nhân Văn – Giai Phẩm, ông được xem là thành viên chủ chốt khi là chủ nhiệm đại diện của tờ báo Nhân Văn, đồng thời có đăng nhiều bài báo, truyện ngắn châm biếm chế độ, chỉ trích đích danh các lãnh đạo văn nghệ miền Bắc đương thời. Điều này đã dẫn tới việc ông sớm bị "thanh trừng" một cách gay gắt bởi chính quyền.[62][63]

Trần Duy[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Duy là một họa sĩ, theo học tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa cuối và sau đó theo Việt Minh đi làm cách mạng. Sau 1954, khi phong trào mở rộng dân chủ trong các nước khối cộng sản dâng lên, ông đã cùng Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang,... tham gia vào báo Nhân Văn. Tại đây, ông đảm trách công việc thư ký của báo, không chỉ vẽ các bức họa cho báo mà còn chủ động liên lạc với nhiều nhà trí thức để viết bài phỏng vấn, cũng như góp nhiều bài viết, truyện ngắn có ảnh hưởng mạnh mẽ tới độ nổi tiếng của tờ báo như truyện Những người khổng lồ hay Tiếng sáo tiền kiếp. Ông được xem là người định hình nên đường lối hoạt động của tờ báo này.[64]

Trần Thiếu Bảo (Minh Đức)[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Thiếu Bảo là con của một gia đình khá giả ở Thái Bình trước cách mạng. Ông đã tham gia vào hội Văn hóa Cứu quốc và từng là Ủy viên Ban chấp hành của hội tại khu III (Thái Bình). Sau 1945, ông lập Nhà xuất bản tư nhân Minh Đức. Năm 1950, ông di dời cơ sở ra vùng tự do Thanh Hóa, hoạt động với sự hỗ trợ từ Nguyễn Hữu Đang, Đặng Thai Mai. Nhà xuất bản vẫn duy trì công tác in ấn độc lập sau 1954 và trở thành cơ quan in ấn tư nhân đầu tiên dưới thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong suốt quãng thời gian hoạt động, nhà in đã phát hành nhiều đầu sách phục vụ cho kháng chiến, đồng thời cho in lại nhiều tác phẩm thời tiền chiến của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng. Nhà xuất bản Minh Đức cũng là cơ quan đã xuất bản tạp chí Giai Phẩm và một số ấn phẩm chính liên quan đến phong trào.[3][29] Sau này, ông tập hợp với một số nhà xuất bản khác, bao gồm nhà in Xuân Thu, Hiền Nam, Sông Lô lập nên hợp tác xã xuất bản và hợp tác xã sách báo theo xu hướng bài vở thời Nhân Văn – Giai Phẩm.[29]

Tử Phác[sửa | sửa mã nguồn]

Tên thật của ông là Nguyễn Văn Chấn. Ông là một trong những cái tên đầu tiên cùng tham gia với Trần Dần trong các chính sách đòi hỏi tự do văn nghệ. Trước Nhân Văn – Giai Phẩm, ông từng đảm trách công việc biên soạn tờ báo trong quân đội có tên Sinh Hoạt Văn Nghệ.[20]

Văn Cao[sửa | sửa mã nguồn]

Văn Cao là một nhân vật văn nghệ quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền văn hóa Việt Nam, bắt đầu từ thời kỳ trước 1945. Sau 1945, ông được biết đến nhiều nhất với vai trò là một nhạc sĩ, nổi tiếng qua bài "Tiến quân ca", quốc ca chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[65] Bên cạnh đó, ông cũng là một nhà cách mạng, nhà văn, nhà thơ kiêm họa sĩ, hoạt động tích cực cùng nhạc sĩ Phạm Duy thời thuộc Pháp suốt giai đoạn trước và trong kháng chiến. Ông đã tham gia phong trào với bài thơ mở màn Anh có nghe thấy không, đăng trên ấn phẩm Giai Phẩm mùa xuân năm 1956. Cùng với các văn nghệ sĩ khác, ông phải chịu sự kỷ luật từ chính quyền vì tham gia vào nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm. Những hạn chế nghiêm ngặt đã ngăn cản ông khỏi việc sáng tác, xuất bản các tác phẩm của mình suốt hơn 30 năm và chỉ cho tới năm 1988, tức sau Đổi Mới, mới được nới lỏng.[16][66]

Thụy An[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy An là một nhà báo, nhà văn nổi tiếng trước 1954. Từ năm 1934, khi mới 18 tuổi, bà làm chủ nhiệm tờ Đàn bà mới ở Sài Gòn. Năm 1937 bà ra Hà Nội và làm chủ bút tờ Đàn Bà. Năm 1942, bà trở thành nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn, được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan xem là "tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay". Năm 1954, bà được bổ nhiệm làm chủ nhiệm Việt Tấn xã, cơ quan báo chí của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.[67]

Bà đã bị nghi ngờ là gián điệp kể từ khi ra Hà Nội sau năm 1954. Trước đó, Thụy An từng bị báo chí miền Bắc cáo buộc đã sát hại người bị gán ghép là nhân tình của bà Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng thuộc Việt Nam Quốc dân Đảng và là đối tượng thù địch với Việt Minh, được cho là nhằm "tỏ lòng "trung thành" với cách mạng". Sau khi ra Hà Nội, bà tiếp tục bị kết tội có quan hệ gần gũi với các chính khách như Hồ Hữu Tường; gia đình tướng De Lattre de Tassigny và Giám đốc Sở Mật vụ Pháp Marty của chính quyền thực dân cũ. Trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, bà đã bị xem là người cầm đầu lớn nhất phong trào và phải chịu mức án tù 15 năm, cùng với Nguyễn Hữu Đang. Tuy nhiên, những ghi nhận cho thấy bà không góp một bài nào vào hai ấn phẩm chính trong phong trào mà thay vào đó hoạt động ở mảng nhỏ là điện ảnh, kịch trong hội Sáng Tạo,[68] cũng từng qua lại, ủng hộ các văn nghệ sĩ trẻ của Nhân Văn – Giai Phẩm. Sau này, đã có người phủ nhận vai trò của bà đối với phong trào và việc bà là gián điệp, bao gồm các thành viên chủ chốt Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt.[67][69]

Phùng Cung[sửa | sửa mã nguồn]

Phùng Cung là một nhà thơ, sinh tại xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ông được chính quyền mới bầu lên làm chủ tịch liên xã Hồng Châu-Liên Châu tại quê nhà. Khi Pháp quay trở lại chiếm đóng, ông bỏ lên Việt Bắc và hoạt động theo Việt Minh. Ban đầu, ông làm công tác thông tin trong đây, nhưng sau đó đã chuyển sang văn nghệ. Trong thời kỳ Cải cách ruộng đất, cha của Phùng Cung, một người theo cách mạng, đã bị quy sai là địa chủ cường hào và bị phạt chết. Đây được xem là sự kiện lớn ảnh hướng đến nhà thơ. Tiếp đến giai đoạn Nhân Văn – Giai Phẩm, ông đã góp một truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh", gây xôn xao lớn trong dư luận vì ngụ ý của nó. Sau phong trào, ông viết truyện ngắn "Dạ Ký", đã gây được lan truyền lớn tới các nhân vật trong giới văn nghệ.[28][70] Là một tác giả theo tư tưởng hữu khuynh, phản chiến,[71] việc Phùng Cung sáng tác ra những tác phẩm bị cho là trái ngược dòng tư tưởng chính thống của Đảng, đả kích chính sách văn hóa và chính trị của Đảng một cách mạnh mẽ khi đó đã dẫn ông tới những rắc rối kéo dài trong nhiều thập niên, khi Phùng Cung bị công an bắt và giam giữ mà không có án.[28][72]

Phùng Quán[sửa | sửa mã nguồn]

Phùng Quán là một nhà văn quân đội, được biết đến đương thời với tiểu thuyết Vượt côn đảo.[73][74] Ông có mối quan hệ họ hàng với Tố Hữu, gọi Tố Hữu bằng cậu.[75] Những phản kháng của các đồng nghiệp trong bộ phận văn nghệ quân đội đã thúc đẩy ông góp mặt trong phong trào,[76] xuyên suốt từ giai đoạn khởi điểm cho đến khi bị dập tắt và được biết đến đáng kể nhất với bài thơ "Lời mẹ dặn" (1957) của mình. Phùng Quán cũng từng góp một số bài tham luận, phát biểu gây ấn tượng tại các hội đoàn văn nghệ để kêu gọi mở rộng dân chủ, tự do sáng tác cho nhà văn.[77] Sau này, ông được xem là một trường hợp điển hình của những văn nghệ sĩ bị chịu trừng phạt sau Nhân Văn – Giai Phẩm, khi công chúng đương thời từng mô tả tình cảnh của ông là "cá trộm, rượu chịu, văn chui".[78]

Các nhân vật khác[sửa | sửa mã nguồn]

Cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án của dư luận đã liệt kê tổng cộng 34 trí thức, văn nghệ sĩ có dính dáng tới phong trào theo thứ tự nặng nhẹ của "tội" mà họ gây ra. Những người hoạt động mạnh nhất phong trào, các nhà trí thức được xếp đầu; còn văn nghệ sĩ, ít nghiêm trọng hơn, thì xếp sau. Trong đây cũng có những người chưa được đưa vào, mà theo sách là vì họ "chưa ra mặt". Theo một thống kê khác của nhà phê bình Thụy Khuê, có 47 người đã góp tên vào các bài viết trên 5 số báo Nhân Văn và 5 tập Giai Phẩm. Dù vậy, số người tham dự thực tế theo bà có thể rộng hơn vì còn có nhiều ấn phẩm như Đất mới, Tự do diễn đàn, Kịch trường có hoạt động trong phong trào. Cụ thể hơn, một thống kê không chính thức đã tiết lộ có 170 người liên quan đến Nhân Văn – Giai Phẩm và nằm dưới dự giám sát của công an Hà Nội. Ngoài những người bị cáo buộc cầm đầu phong trào đã được liệt kê bên trên, còn có các cá nhân liên đới tới vụ việc, xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Danh sách gồm:[28][36]

Người phản đối, lên án[sửa | sửa mã nguồn]

Rất nhiều nhà văn, nhà thơ trong chính quyền đã được giao nhiệm vụ lên bài tố cáo và lên án phong trào. Các nhà thơ như Nguyễn Công Hoan,... đã tham gia vào làn sóng chỉ trích này bằng việc viết thơ, bài điều tra để cáo buộc đồng nghiệp là phản động vì tham gia vào Nhân Văn – Giai Phẩm.[61]

Trường Chinh[sửa | sửa mã nguồn]

Tố Hữu[sửa | sửa mã nguồn]

Tố Hữu là một nhà thơ và nhà cách mạng thời kỳ đầu của Đảng Cộng sản Đông Dương. Các sáng tác thơ của ông nghiêng về ca tụng chính trị, tuyên truyền đường lối Đảng.[17] Chúng mang sức ảnh hưởng mạnh mẽ và thường xuyên được phổ biến rộng rãi trong nhiều thế hệ học sinh, cán bộ nhà nước, quân đội. Được giao quyền quản lý nền văn nghệ cách mạng của chính quyền, từ những năm 1950, ông đã bắt đầu thi hành các lệnh đàn áp, giới hạn văn nghệ sĩ trong khuôn khổ của Đảng. Ông được cho là người bài trừ các hình thức văn nghệ truyền thống, cũng như gây sức ép lên tự do sáng tác của vô số nhà thơ như Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm,...[17][36]

Trong Nhân Văn – Giai Phẩm, Tố Hữu được coi là tiếng nói mạnh mẽ nhất lên án và đấu tố một cách kịch liệt đối với các thành viên của phong trào. Ông cũng được coi là lãnh đạo đại diện ra mặt đàn áp, dập tắt phong trào.[30][87] Tiêu biểu, bài tổng kết chiến dịch dập tắt phong trào "Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ" do ông viết đã gọi chung các văn nghệ sĩ trong phong trào là "những cỏ độc trong văn nghệ [...] những con rắn độc thù địch phun nọc giết người". Ông đã cáo buộc những tên "phản động" của phong trào, gồm Phan Khôi "một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng phục mạ để "thuyết phục" người khác đầu hàng địch"; Trương Tửu và Lê Đức Thảo "những con buôn "mác-xít", "cách mạng" đầu lưỡi [...] mà thực chất là những tên tơ-rốt-skit vô tổ quốc"; "kẻ đầu cơ cách mạng" Nguyễn Hữu Đang.[36]

Chế Lan Viên[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Đình Thi[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ hoạt động tích cực trong kháng chiến. Ông từng làm thân với nhà thơ Lê Đạt và được Lê Đạt ủng hộ phong cách sáng tác thơ không vần của mình. Tuy nhiên sau đó nhà thơ đã bị Tố Hữu "đánh" và đem đi cải tạo tại nhiều chiến trường khác nhau. Sau này, Nguyễn Đình Thi đã được trọng dụng khi có cơ hội hợp tác cùng đạo diễn Liên Xô Roman Karmen thực hiện bộ phim tài liệu Việt Nam (1955) và sau này được gọi về làm một trong những cái tên chủ chốt trong việc đấu tranh chống Nhân Văn – Giai Phẩm.[37][88]

Hoài Thanh[sửa | sửa mã nguồn]

Huy Cận[sửa | sửa mã nguồn]

Xuân Diệu[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhà thơ Lê Đạt, một trong những lý do chính khiến ông tham gia vào đấu tố các thành viên phong trào là vì ác cảm trước đó của nhà thơ với Trần Dần và Lê Đạt vì chê thơ ông sau cách mạng.[88] Bên cạnh đó, tập thơ Ngôi Sao của ông cũng vướng vào những tranh cãi và chê bai vì nhiều nghệ sĩ cho rằng thơ ông không xứng với giải thưởng được trao tại Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1954-1955.[cần dẫn nguồn]

Nguyễn Huy Tưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]

1955-1956: Những khởi phát đầu tiên và Giai Phẩm mùa Xuân[sửa | sửa mã nguồn]

Dự thảo tự do sáng tác trong quân đội của Trần Dần[sửa | sửa mã nguồn]

Các dấu hiệu phản kháng đầu tiên của giới văn nghệ sĩ cách mạng sớm đã bắt đầu từ trong quân đội, giữa những trí thức thời thuộc Pháp bất bình với chế độ quân quản và phía cơ quan quản lý văn hóa quân đội.[76] Từ cuối năm 1954, sau khi trở về Trung Quốc, nhà thơ Trần Dần đã nộp bản thảo tập Tiếng trống tương lai, trong đó bị cáo buộc có đoạn "chửi" cán bộ là "người bệnh", "người ròi", "người ụ".[20] Đầu 1955, trong một cuộc họp tại Phòng văn nghệ Quân đội nhân dân Việt Nam, Trần Dần đã đề đạt ý kiến về việc thay đổi chính sách văn nghệ, gồm 36 điểm,[89] trước sự có mặt của tướng Nguyễn Chí Thanh. Theo Vũ Tú Nam, người có mặt tại sự kiện này, Trần Dần đại khái đã nêu ba ý chính về tự do sáng tác trong văn nghệ của quân đội, cụ thể:[25]

  1. Trao sự lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ;
  2. Thành lập một hội văn nghệ bên trong cơ cấu văn nghệ quân đội;
  3. Bãi bỏ cơ chế quân đội kiểm soát văn nghệ sĩ phục vụ trong quân đội.

Ngay khi đề đạt ý kiến, Nguyễn Chí Thanh đã bày tỏ quan điểm không đồng ý. Ông gọi đây là "quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị" và lưu ý với "cấp dưới phải coi chừng". Sau buổi họp, Trần Dần vẫn được giao nhiệm vụ tổ chức hội nghị ngành văn toàn quân tháng 4 năm 1955. Trước sự kiện này, tháng 4 cùng năm, khoảng 30 cán bộ, văn nghệ sĩ trong quân đội mà dẫn đầu là Trần Dần[c] tiếp tục ký vào bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá" mà Trần Dần viết từ tháng 2 cùng năm. Bản dự thảo, với 12 trang đánh máy và đã qua nhiều lần chỉnh sửa trong văn nghệ quân đội, "đòi quyền tự do sáng tác, bác bỏ chế độ chính trị viên trong văn nghệ quân đội".[25][20] Theo Hoàng Cầm, thời điểm mới lưu truyền, một số nhân vật đã ủng hộ dự thảo cũng như hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị. Những cái tên tiêu biểu thể hiện sự ủng hộ được cho là Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm. Nhưng tướng Nguyễn Chí Thanh sau cùng đã lên tiếng, gọi dự thảo này là "một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!", trực tiếp chặn đứng việc thông qua đề nghị trong quân đội.[25]

Cũng vì nhận thấy tính chất nguy hiểm của bản thuyết trình, quân đội cuối cùng đã đình lại cuộc họp ngay sau đó. Trong thời gian này, Trần Dần bị cho là tỏ rõ thái độ bất mãn với quân đội nên thường bỏ doanh trại không báo phép.[20] Hoàng Cầm, một trong những thành viên góp mặt vào bản dự thảo, cũng vì bất mãn đã viết đơn xin ra khỏi quân đội.[23] Ngày 23 tháng 4 năm 1955, Trần Dần viết đơn xin rời quân ngũ và ra khỏi Đảng để kết hôn với con gái gia đình theo đạo. Lá thư trên đã bị đưa ra phê phán trong Tuyên huấn và chỉ một thời gian sau sự kiện này, Trần Dần và Nguyễn Anh Chấn (Tử Phác) bị bắt vào ngày 13 tháng 6 năm 1955. Cả hai phải chịu phạt cấm trại để kiểm thảo ba tháng và bị khai trừ khỏi chi bộ văn nghệ cũng như khai trừ đảng. Tới ngày 14 tháng 9 năm 1955, Tử Phác và Trần Dần đã được thả ra.[25][20] Không lâu sau đó, hai người bị điều đi tham gia Cải cách ruộng đất đợt 5 ở Yên Viên (Bắc Ninh), từ 2 tháng 11 năm 1955 đến tháng 2 năm 1956. Theo nhận định, tuy lý do ngầm cho lần phạt này có thể bắt nguồn từ các sự kiện phản kháng, đòi tự do, nhưng về mặt chính thức thì cả hai bị bắt với những lý do hoàn toàn không liên quan. Trần Dần phải chịu phạt vì vi phạm quân kỷ của quân đội. Ông đã tự ý bỏ trại để về với người yêu theo đạo ở phố Sinh Từ – vốn bị quân đội cấm thành hôn trước đó. Tử Phác cùng Trần Dần cũng bị trừng phạt vì không chịu trình diện trước quân đội nhiều lần.[25]

Vụ phê bình tập thơ Việt Bắc và tiểu thuyết Vượt côn đảo[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 12 năm 1954, Tố Hữu cho in tập thơ thứ hai mang tên Việt Bắc; khi ấy ông đang là nguyên Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Ban Tuyên truyền và Cổ động. Thời điểm tập thơ mới ra mắt, hàng loạt các cây bút có tiếng như Hà Xuân Trường, Xuân Diệu,... đã viết những bài khen ngợi Việt Bắc trên báo Nhân Dân, Văn nghệ. Phùng Quán, cùng sinh hoạt trong văn nghệ quân đội với Trần Dần, lúc này cũng cho in cuốn tiểu thuyết cách mạng Vượt côn đảo. Ông đang là một cây bút quân đội có sách bán chạy, tái bản nhiều lần. Trong các ngày tháng 3 và tháng 4 năm 1955, Trần Dần và Tử Phác đã đứng ra tổ chức ba buổi phê bình tập Việt Bắc bên cạnh ba buổi phê bình khác về tiểu thuyết Vượt côn đảo, diễn ra trong khuôn khổ văn nghệ Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, những tranh cãi và phê bình đã nổ ra trên tờ Sinh Hoạt Văn Nghệ của Tử Phác. Nội dung các buổi hội thảo tập trung phê phán hai tác phẩm về phương diện nội dung lẫn tư tưởng vì sự rập khuôn và một chiều của hai tác phẩm; với Việt Bắc nó còn mang đậm "sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh" của Tố Hữu. Cả hai sự kiện phê bình này đã thu hút rất đông người trong quân đội tham gia và để ý. Các nhà thơ Huy Cận, Hồ Dzếnh, và tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng cục chính trị, đã có mặt tại những buổi phê bình tập Việt Bắc. Hoàng Yến, Trương Tửu, Hoàng Cầm và Lê Đạt tham gia vào việc phê bình thơ và góp những bài phát biểu của mình trước mọi người.[20][25]

Hậu buổi bàn luận, Lê Đạt đã nảy ý định đưa những ý kiến phê bình Việt Bắc lên tờ Văn nghệ. Nguyễn Hữu Đang, đồng nghiệp Lê Đạt tại tòa soạn báo, đã ủng hộ dự định này.[88] Khi gặp Tố Hữu để lên kế hoạch nội dung tờ báo, với tư cách là thành viên ban biên tập, Lê Đạt được nhà thơ gợi ý viết một bài phê bình với chủ đích sẽ được khen ngợi. Dựa vào những tư liệu ở buổi nói chuyện trước đó, Lê Đạt đã tập hợp thêm một số bài viết khác, nổi bật là ý kiến từ nhà thơ Hoàng Yến, cuối cùng làm một "số báo đặc biệt" về tập Việt Bắc đăng trên số 65 phát hành ngày 11 tháng 3 năm 1955. Làn sóng phê bình tập thơ bùng lên và lan rộng ra toàn bộ giới văn nghệ, kéo dài suốt nhiều tháng.[25][19]

Ý kiến của những văn nghệ sĩ trong cuộc chia thành hai luồng: một bên là Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt;[d] còn một bên là các đồng nghiệp của Tố Hữu và những người chỉ trích phe phê phán. Ở những ý kiến chê, các tác giả cho rằng Tố Hữu "chưa nắm vững hiện thực", "chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc [...] nhiều đoạn còn giả tạo công thức" (Hoàng Yến); "thiếu chất sống thực tế", "nhạt nhẽo", "hời hợt", "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa. Loãng quá" (Hoàng Cầm); hay như Lê Đạt chỉ ra: "Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu [...] là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ". Ở bên Tố Hữu, ông đáp trả bằng cách tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác và mời những đồng sự tham gia. Họ đã viết những bài ca tụng tập thơ Việt Bắc, trong đó chủ chốt có bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông.[25] Các ý kiến phê bình của bạn đọc cùng nghệ sĩ cũng xuất hiện sôi nổi: họ chỉ trích gay gắt lối phê bình của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, và bên cạnh việc điểm xuyết một vài hạn chế trong tập thơ ở mặt nội dung hay nghệ thuật thì các ý kiến vẫn đa số nghiêng về khen ngợi.[cần dẫn nguồn] Tháng 3 năm 1956, Việt Bắc đã được trao giải Nhất của Hội Văn nghệ năm 1956, gây ra những ý kiến bất bình về vấn đề bè phái, thiếu công bằng.[2][3] Về sau, đây được xem như là ngòi nổ cho sự ra đời của toàn bộ phong trào.[20][25]

Giai Phẩm mùa Xuân và lần bắt giữ thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Trần Dần được thả tự do năm 1952, Lê Đạt chủ trương cùng Hoàng Cầm, bàn với Văn Cao, Tử Phác, Trần Dần và hai họa sĩ là Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng để lên kế hoạch cho một tập thơ định kỳ "trái với nguyên tắc lúc bấy giờ": thay vì chịu sự kiểm duyệt chung thì tập thơ sẽ tự do sáng tác hoàn toàn, mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm cho bài của mình.[47][48] Chính sách in ấn thời này cũng chưa bị thắt chặt, các ấn phẩm in bởi nhà xuất bản tư nhân chưa phải chịu sự quản lý từ chính quyền.[91] Vào cuối tháng 1 năm 1956, cuốn Giai Phẩm mùa Xuân đã được xuất bản.[13] Trần Thiếu Bảo, chủ nhiệm Nhà xuất bản Minh Đức, là người đã cho in ấn phẩm này.[92]

Để góp phần vào việc chuẩn bị Đại hội Văn Nghệ toàn quốc; để phát huy và đẩy mạnh tự do sáng tác văn nghệ theo phương châm trăm hoa đua nở, chúng tôi xuất bản tập Giai phẩm mùa thu này gồm có nhiều bài của nhiều tác giả bản sắc khác nhau, khuynh hướng nghệ thuật khác nhau. Mỗi tác giả chịu trách nhiệm bài viết của mình. Trên tinh thần này, nhà xuất bản thiết tha mong các bạn văn nghệ sĩ cộng tác đông đảo

lời mở đầu của tập san Giai Phẩm mùa Xuân của Nhà in Minh Đức

Trong Giai Phẩm mùa Xuân, nhiều bài thơ mang tư tưởng cách tân nhen nhóm xuất hiện. Có tổng cộng 9 bài thơ trong tập, một truyện ngắn của Sỹ Ngọc và một truyện phiếm mang tên "Lão Rồng" của Trần Dần. Hầu hết các sáng tác trong tập đều là thơ, và những bài thơ này sở hữu đặc trưng khác với dòng Thơ mới như có "các câu dài, ngắn, không đồng đều; nhịp điệu phóng khoáng". Theo Thụy Khuê, bà coi đây là "tạp chí thơ đầu tiên thể hiện cách làm thơ hiện đại không vần ở miền Bắc", dù chúng chỉ mới dừng ở mức thể nghiệm. Ngoài các sáng tác mang tính tuyên truyền, ca tụng, những bài thơ nổi bật mang khuynh hướng chống đối lẫn đòi tự do sáng tác trong Giai Phẩm mùa Xuân đã được biểu hiện rõ ràng trong thơ Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Làm thơMới của Lê Đạt.[47]

Đặc biệt, bài "Nhất định thắng" của Trần Dần đã xuất hiện như là điểm nhấn trong Giai Phẩm, chiếm phân nửa số trang của ấn phẩm.[91] Bài thơ được chia thành 9 đoạn, mỗi đoạn đánh số có thể xem tương ứng với bài thơ hoàn chỉnh.[93] "Nhất định thắng" được viết trong thời gian nhà thơ đang bị giam trong quân đội và ông đã đưa cho Lê Đạt giữ.[25] Đây được xem là bài thơ tiêu biểu nhất của ông giai đoạn này, "phản ánh khá rõ tính cách mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả với giọng anh hùng ca".[47]

Được xếp vào hàng thơ mang nội dung "vừa chống vừa theo",[47] Nhất định thắng là lời tâm sự của tác giả với người yêu về chiến tranh và thống nhất đất nước. Tác giả đã dựng lên không khí miền Bắc hiện ra với sự nghèo đói và ngầm ám chỉ "Mỹ Diệm" là nguồn cơn của tất cả. Kết thúc bài thơ, Trần Dần hướng đến tương lai tốt đẹp thống nhất hai miền – một công thức phổ biến với tác phẩm tuyên truyền cùng thời.[47] Dù vậy, những câu thơ như "Tôi bước đi / Không thấy phố / Không thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ" thời điểm đó đã ngay lập tức gây ra một làn sóng xôn xao trong dư luận và giới văn nghệ sĩ vì cái nhìn tiêu cực về xã hội dưới chính quyền cộng sản.[94] Nhiều cán bộ khi đó cũng nghi ngờ Trần Dần ám chỉ Hồ Chí Minh trong không khí bi quan của đoạn thơ, khi nhiều từ "người" trong bài đã được viết hoa – thường Hồ Chí Minh còn được viết là "Người".[48] Tất cả những điều này đã khiến độc giả đương thời bị ấn tượng mạnh với tác phẩm trên, và đó cũng là nguyên cớ để chính quyền bắt đầu triệt hạ toàn bộ ấn phẩm. Trong bài "Con người Trần Dần" in trên báo Nhân Văn sau đó vào tháng 8 năm 1956, Hoàng Cầm đã phủ nhận vai trò của Trần Dần đối với việc đăng bài "Nhất định thắng", nói rằng nhà thơ không có chủ đích cho công khai bài thơ. Nhưng trong một bài thú tội về vụ việc, Trần Dần lại tự nhận trách nhiệm về mình vì đã cho phép các thành viên của tập san Giai Phẩm tự do sử dụng bài của mình (trong đó có bài "Nhất định thắng"), cũng như viết truyện phiếm "Lão Rồng", "ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng".[47]

Vì sự kiện ra mắt Giai Phẩm mùa Xuân, trước và sau Tết Nguyên đán tháng 2 năm 1956, Lê Đạt bị gọi lên Cục Tư tưởng Văn hóa để kiểm thảo và phải ở lại đây 15 ngày. Hàng loạt các báo trung ương như Nhân Dân, Cứu Quốc,... đã lên bài công kích ấn phẩm. Cũng chỉ năm sáu ngày sau khi Giai Phẩm phát hành, Tố Hữu đã triệu tập ngay một cuộc họp cán bộ tuyên huấn mở rộng toàn miền Bắc từ Vĩnh Linh trở ra, nêu ý kiến về ấn phẩm mới trên. Các ý kiến đều đánh mạnh nhất vào bài "Nhất định thắng", với người mở đầu là nhà thơ Chế Lan Viên. Sau buổi nói chuyện, Tố Hữu gọi riêng các nhà văn, nhà thơ gồm Hoàng Cầm, Văn Phác, Chế Lan Viên để chỉ bàn riêng về bài "Nhất định thắng" của Trần Dần từ tập Giai Phẩm mùa Xuân. Trong cuộc gặp này, Tố Hữu đã ra lệnh Văn Phác "Gọi nó [Trần Dần] về, bắt lấy nó!".[25][91] Trần Dần và Tử Phác ngay lập tức bị bắt lần thứ hai vào mùng 4 Tết âm lịch,[13] còn Giai Phẩm Mùa Xuân thì bị tịch thu. Sau một hội nghị lớn của Hội Văn Học, gồm 150 nghệ sĩ, được tổ chức vào giữa tháng 2 để "luận tội Trần Dần",[34] một chiến dịch "đánh Trần Dần" sớm đã diễn ra với bài mở màn của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần", đăng trên báo Văn nghệ số 110 ra ngày 7 tháng 3 năm 1956.[25][13] Đỗ Nhuận – bạn thân của Trần Dần, người từng ký vào bản dự thảo chính sách văn hoá trước đó – cũng lên bài "đánh Trần Dần" với tựa "Bộ mặt thật của Trần Dần trong nhóm phá hoại Nhân văn – Giai phẩm".[95]

Về vụ Trần Dần cùng Tử Phác bị giam, bài "Con người Trần Dần" in trên báo Nhân Văn số 1 (sau này in) của Hoàng Cầm cùng hồi ký của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh (chưa xuất bản) đã thuật lại chi tiết diễn biến sự việc. Khi vẫn đang ở Yên Viên cải tạo, cả hai đã bị áp giải xuống hai ngục hầm tối riêng. Sau khi bị bắt giam lần thứ hai, nhằm tránh khỏi việc có thể bị "thủ tiêu", Trần Dần giả vờ dựng lên một hiện trường tự sát bằng cách dùng dao cạo cứa cổ. Ông đã được đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay sau đó. Tại bệnh viện, Trần Dần đã viết bức thư phân trần cho tướng Nguyễn Chí Thanh vào ngày 21 tháng 2 năm 1956. 3 tháng sau, cả Tử Phác và Trần Dần đã được thả vào ngày 5 tháng 5.[25][13]

Riêng về phía Văn Cao, tuy được coi là tiếng nói mạnh mẽ nhất về dân chủ trong Giai Phẩm mùa Xuân, nhưng ông đã không phải chịu sự quy chụp và lên án của các lãnh đạo văn nghệ vì vị trí quan trọng của ông trong việc sáng tác "Tiến quân ca".[47] Sau khi Giai phẩm mùa Xuân bị triệt hạ, bộ bốn Văn Cao-Hoàng Cầm-Lê Đạt-Trần Dần vẫn tiếp xuất bản tập thơ Cửa biển vào khoảng nửa cuối năm 1956.[96]

1956: Phát triển trở lại, mở rộng quy mô[sửa | sửa mã nguồn]

Sau cái chết của Joseph Stalin năm 1953, một làn sóng "chống tệ sùng bái cá nhân" cùng chủ trương "chung sống hòa bình" đã xuất hiện và nhân rộng trong các nước khối Cộng sản quốc tế. Khởi đầu cho làn sóng này là Liên Xô. Vào ngày 24 tháng 2 năm 1956, nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev đã tường trình những tội ác của Stalin trong báo cáo Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô.[25] Nhiều nhà văn bị bức ép dưới thời Stalin đã được trả lại danh dự bởi chính quyền.[3] Khrushchev cũng có những chuyến viếng thăm làm dịu đi quan hệ với các nước từng có mâu thuẫn trong quá khứ.[22] Tháng 4 cùng năm, Khrushchev tiếp tục đến Bắc KinhHà Nội để giới thiệu đường lối mới của Liên Xô.[97] Ngày 26 tháng 5 năm 1956, Mao Trạch Đông đã phát động một phong trào tự do quan điểm mang tên Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng. Mục đích của phong trào này nhằm kêu gọi các ý kiến xây dựng của giới trí thức, người dân tới Đảng cộng sản cầm quyền để giải quyết các vấn đề hiện hữu, cũng như gắn kết hơn mối quan hệ giữa trí thức và Đảng.[25] Các văn kiện tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô và sự kiện Trăm hoa đua nở đã được chính quyền miền Bắc công bố, đáng chú ý là bản tham luận của Mikhail Sholokhov cùng diễn văn của Lục Định Nhất – nguyên Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hô hào phát động Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng.[97][23]

Cũng ở giai đoạn 1954–1958, một trong những ưu tiên chính của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa là xây dựng xã hội mới và ổn định đời sống người dân; mục tiêu thống nhất đất nước bị đẩy xuống thứ yếu hơn.[22] Chịu ảnh hưởng từ Liên Xô, Đảng Lao động Việt Nam bắt đầu thi hành các chính sách nới lỏng tự do về văn nghệ và ngôn luận.[34] Trong Nghị quyết 9 và Nghị quyết 10 Trung ương tháng 8 năm 1956, Đảng đã đề ra các chính sách khắc phục sai lầm Cải cách ruộng đất để giữ yên dư luận. Đảng đồng thời khẳng định đã tiếp thu tinh thần của Đảng Cộng sản Liên Xô và yêu cầu phổ biến tinh thần "chống sùng bái cá nhân, thực hiện lãnh đạo tập thể, phê bình và tự phê bình" đến các cấp các ngành.[22][74] Ngày 1 tháng 8 năm 1956, thực hiện nghị quyết trên của Trung ương, Hội Văn Nghệ Việt Nam đã tổ chức một lớp học tập dân chủ 18 ngày. Lớp học – do nhà báo Nguyễn Hữu Đang phụ trách – thu hút hơn 300 cán bộ tham dự trong giới văn nghệ và khoa học xã hội.[13][42] Kết thúc khóa học, ngày 26 tháng 8 cùng năm, Nguyễn Hữu Đang đã đứng lên phát biểu bài tham luận tổng kết lớp học. Trong lần phát biểu này, ông chỉ trích đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng một cách gắt gao và kêu gọi một cuộc "cải cách ruộng đất trong văn nghệ". Bản tham luận này đã nhận được sự ủng hộ từ những thành viên có trong hội nghị và đã đem lại "sức vang dội rất lớn".[42] Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi cùng một bộ phận lãnh đạo văn nghệ, trước sự lên án của nhiều văn nghệ sĩ đã phải tự kiểm điểm, "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa".[22] Tháng 10 cùng năm, thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam đã ra thông báo nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ "Nhất định thắng".[3] Hoài Thanh sau đó cũng viết một bài nhận lỗi "đánh Trần Dần".[25]

Tôi muốn phê bình. Nhưng có người lại bảo rằng “phê bình nội bộ thì được, không nên viết trên sách báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc ra”. Tôi cũng không tin. Cái thời kỳ “đóng cửa dạy nhau” đã qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn gì giữa nội bộ cần phải giải quyết trước mặt quần chúng nhân dân, không nhờ ánh sáng của quần chúng nhân dân soi dẫn cho, thì không thể giải quyết nổi. Vả lại, đã nhận rằng ăn của nhân dân, làm việc cho nhân dân, nhân dân là chủ, có quyền kiểm tra mọi việc, thì sao lại cứ giấu im ỉm với nhau, không cho nhân dân biết?

Phan Khôi, Phê bình lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập I

Chỉ 3 ngày sau sự kiện trên, tập I của Giai Phẩm mùa Thu đã ngay lập tức được phát hành, lần này cũng bởi nhà in Minh Đức. Trong lần ra mắt trở lại, những bài viết, sáng tác mới mang tính đả kích đã được đăng tải, chủ chốt bao gồm "Phê bình lãnh đạo văn nghệ" của Phan Khôi; truyện Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính; Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy.[25] Đây được xem là ấn phẩm tỏ thái độ kịch liệt nhất ở khía cạnh phê phán, đả kích chế độ, cũng như truyền cảm hứng cho các trí thức khác tham gia phong trào. Trong đó bài góp mặt đầu tiên, phê bình lãnh đạo của Phan Khôi là gay gắt nhất. Ông đã thể hiện quan điểm rằng văn nghệ nên được phục vụ theo cách riêng, phù hợp với đặc trưng thẩm mỹ riêng của nó.[27] Ông đã chỉ tên đích danh những thành viên chủ chốt giới văn hóa văn nghệ khi đó gồm Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi,... "xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ". Ông cũng nêu ý kiến về vụ đàn áp Trần Dần trong Giai Phẩm mùa Xuân, đồng thời lên án thói kỵ húy trong văn chương thời phong kiến, thói sùng bái lãnh đạo bắt nguồn từ Hồ Chí Minh; tố cáo sự gian dối của các nhà văn, thơ cách mạng trong công tác chấm và trao giải văn học.[5] So sánh với nền dân chủ ở các nước phương Tây, ông còn đề cập đến vấn đề áp đặt dân chủ dưới chính quyền chuyên chính: "ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt".[98]

Báo Nhân Văn ra đời cùng các ấn phẩm hưởng ứng phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Tôi phải nói khẳng định rằng: tất cả anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ muốn ra tờ Nhân Văn nhằm đấu tranh với những hiện tượng quan liêu và mất dân chủ trong sinh hoạt xã hội. Trần Dần và tôi, cả Nguyễn Hữu Đang nữa quá rõ lực lượng của Đảng để làm một chuyện rồ dại là "chống lại" sức mạnh hùng hậu đó bằng một tờ báo.

Lê Đạt, [41]

Trong không khí dân chủ qua những hoạt động mà Đảng đề ra, vào cuối năm 1956, Nguyễn Hữu Đang chủ trương lập ra tờ bán nguyệt san Nhân Văn – tiếng nói đại diện cho phong trào tự do dân chủ nói chung tại miền Bắc Việt Nam.[26] Về mặt tác động, tờ báo được nhìn nhận có sức ảnh hưởng lớn hơn cả Giai Phẩm.[35] Biết phong trào đấu tranh của nhóm "Giai Phẩm" từ trước, Đang quyết định rủ Hoàng Cầm cùng tham gia vào việc lập nên tờ báo. Hoàng Cầm sau đó đặt vấn đề với 5 thành viên khác trong nhóm gồm Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Văn Cao và Đặng Đình Hưng. Ban đầu, những ý kiến còn e ngại vì động cơ chính trị của Nguyễn Hữu Đang; Trần Dần và Lê Đạt muốn rút lui vì những bắt bớ trước đó của chính quyền. Sau cùng, Hoàng Cầm đã nhận biên tập phần văn nghệ của trang báo; tới số thứ 2 Lê Đạt nhập cuộc làm một trong những thành viên chính của ban biên tập; còn Văn Cao trách nhiệm pháp lý tờ báo. Trần Dần vẫn lập lờ giữa việc bỏ ngang hay không tham gia vào tòa báo, chủ yếu là vì nghi kỵ Nguyễn Hữu Đang và chỉ muốn "đòi tự do sáng tác", nhưng đến giai đoạn sau vẫn tham gia vào công tác của Nhân Văn.[35]

Tên của tờ báo được cho là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt ra. Về phía Hoàng Cầm, ông tự nhận là người nghĩ ra tên Nhân Văn, nhưng trong một lời thú nhận trên báo Văn nghệ năm 1958, nhà văn đã viết: "Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước, bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là "tên báo gì gì cũng được" miễn là có báo ra được".[25] Sau đó, Phan Khôi và họa sĩ Trần Duy lần lượt được Hoàng Cầm mời làm chủ nhiệm trên danh nghĩa và thư ký của tờ báo; tất cả bài vở đều do Nguyễn Hữu Đang cùng Lê Đạt và Trần Duy soạn.[35][64] Hoàng Cầm thì đứng ra vận động các đồng nghiệp góp bài cho báo, đồng thời kiêm nhiệm cả việc biên tập.[28][17] Cơ quan in ấn của tờ báo là Nhà xuất bản Minh Đức của Trần Thiếu Bảo, bạn thân Nguyễn Hữu Đang.[35] (kiểm tra lại vì in bởi nxb xuân thu, độc lập với giai phẩm) Về nguồn tiền chính để tờ báo hoạt động, theo thư ký Trần Duy, đều là các cá nhân tự động vay góp tiền làm báo.[3]

Tóm lại, báo Nhân Văn đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác- Lênin với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà, để dọn đường đi đến thực hiện xã hội chủ nghĩa, theo như ý muốn của Đảng cũng là ý muốn của nhân dân cả nước.

lời phi lộ của ban biên tập báo Nhân Văn trong số 1

Trước khi số 1 báo Nhân Văn ra mắt, chính quyền sớm đã nhận ra ý định của các văn nghệ sĩ, lập ra một tờ báo cổ động tự do dân chủ. Các chính khách Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ và Lê Liêm đã lần lượt được cử ra để thuyết phục Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Hoàng Cầm bỏ Nhân Văn. Dù vậy, Nguyễn Hữu Đang đã từ chối và thuyết phục các thành viên khác trong nhóm. Cả ba đi đến quyết định vẫn giữ nguyên kế hoạch ra mắt số thứ nhất của báo.[35]

Số đầu tiên của báo Nhân Văn xuất bản ngày 20 tháng 9 năm 1956. Trong lần đầu tiên ra mắt, tờ Nhân Văn được ghi nhận đã trở thành một "ngày hội của quần chúng". Số báo được ghi nhận thu hút rất nhiều người đến mua, đặc biệt là trí thức với sinh viên trẻ. Theo lời nhà thơ Lê Đạt, số báo khi đó đắt khách đến mức "người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại". Cũng theo ông, chỉ một thời gian ngắn sau đó, Nhân Văn đã phải tái bản để kịp phục vụ cho bạn đọc.[30][99]

Bài "Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ"; bài "Con người Trần Dần" của Hoàng Cầm (đăng trên trang chính, kèm tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ);[5][33] "Chống bè phái trong văn nghệ" của Lê Đạt (ký tên Trần Công) là những tiếng nói được cất lên trong số báo ra mắt, chủ yếu đề cập tới vấn đề kêu gọi tự do và dân chủ.[25] Nổi bật nhất, nhà thơ Lê Đạt đã viết một bài thơ tự do với tựa đề "Nhân câu chuyện mấy người tự tử". Ông đã mượn chuyện một đôi tình nhân tự vẫn trên báo để lên án sự kiểm soát quá mức của Đảng áp đặt lên người dân. Bên cạnh bài "Nhất định thắng" của Trần Dần, các câu thơ "Nhưng đem bục công an / máy móc / đặt giữa tim người" của Lê Đạt cũng gây ra không ít những xôn xao từ độc giả.[14] Trong số này, Nguyễn Hữu Đang cũng từng viết một bài dưới bút danh XYZ của Hồ Chí Minh, nhại giọng ông để "giáo huấn" cán bộ.[39]

Bên cạnh việc xuất bản Nhân Văn còn có hai số tờ Sáng Tạo – nói về điện ảnh do nhà in tư nhân Lê Cường thực hiện, phát hành từ 5 tháng 11 đến 20 tháng 11 năm 1956. Trước đó, nhà viết kịch Phan Tại đã chủ trương lập ra hội điện ảnh độc lập Sáng Tạo. Trần Thịnh, con rể thị trưởng Hà Nội Thẩm Hoàng Tín, đã tham gia vào nhóm này. Với điều kiện tài chính của mình, ông tự lập ra tờ báo tư nhân của hội và đảm trách vai trò chủ nhiệm tờ báo. Hội Sáng Tạo của Phan Tại đã tổ chức các buổi chiếu phim Pháp, Ý, Nhật và khai thác các khía cạnh văn nghệ mới của Tây phương, cũng như khôi phục những tác phẩm kịch nghệ tiền chiến như vở Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng. Cả hội và tờ báo Sáng Tạo cũng bị cáo buộc có khuynh hướng đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo chủ nghĩa Tân hiện thực của Ý và Nhật, đả phá phim tuyên truyền Liên Xô. Nhiều nghệ sĩ như Thụy An, Trần Công (không phải Lê Đạt), Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Phạm Kỳ Nam đã viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh đăng trên Sáng Tạo.[68] Phan Tại và Thụy An cũng được cho là tổ chức các buổi tập kịch, chiếu phim, hội họp tại nhà riêng. Ngoại trừ Thụy An và một số cái tên khác, phần đa những nghệ sĩ này trước hoặc sau cũng đã góp những bài viết nhất định về điện ảnh vào hai ấn phẩm chính của phong trào.[28][79]

Trong ngày 30 tháng 9 năm 1956, Giai Phẩm mùa Thu tập II cùng báo Nhân Văn số tiếp theo đã cùng được xuất bản. Những bài "Phấn đấu cho Trăm hóa đưa nở" của Trần Duy;[27] báo phỏng vấn thực hành dân chủ trong giới trí thức, nghiên cứu với Đào Duy Anh; cùng bài trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân Dân của Nguyễn Hữu Đang đã được đăng lên Nhân Văn. Không lâu sau đó, Giai Phẩm mùa Xuân tái bản trở lại tới công chúng vào ngày 8 tháng 10.[25]

So với tập I, những bài viết phê phán đường lối lãnh đạo văn nghệ và chính quyền trong Giai Phẩm mùa Thu tập II lần này đã được tiếp nối và mang giọng điệu mạnh mẽ hơn, với "Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ" của Trương Tửu; "Những người khổng lồ" của Trần Duy; "Thơ cái chổi - Chống tham ô lãng phí" của Phùng Quán,...[25] Với bài viết nói về nạn sùng bái trong văn nghệ của mình, Trương Tửu một mặt thừa nhận sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng là "tất yếu", nhưng mặt khác, giống với Phan Khôi, đòi hỏi Đảng phải "phải trả quyền điều khiển chuyên môn cho những người chuyên môn đồng thời nêu quan điểm rằng "Văn nghệ sĩ yêu Đảng nhưng họ yêu sự thực hơn Đảng [...] Vận mạng của văn nghệ dài hơn vận mạng của Đảng, dài hơn vận mạng của chế độ".[27] Đáng chú ý, Phan Khôi cũng viết một bài khảo luận về hình tượng "Ông bình vôi" trong bài Mới của Lê Đạt, đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân tập đầu tiên. Bài thơ này trước đó được cho là mang hàm ý chế giễu Hồ Chí Minh. Nhà thơ bị cáo buộc đã sử dụng hình ảnh cái bình vôi đựng trầu – ống nhổ mà người nhai trầu sử dụng được chứa vôi để ngăn mùi, khi vôi đầy thì vứt đi – để nói Hồ Chí Minh đã già và vô dụng. Trong bài khảo luận của Phan Khôi, ông kể khi 18 tuổi từng "hất một loạt "ông bình vôi" thờ trên tường thành xuống đất". Điều này được coi là nhằm ám chỉ về việc lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[29]

Từ tháng giữa tháng 10 đến đầu tháng 12 năm 1956, các số Giai Phẩm mùa Thu tập III, Giai Phẩm mùa Đông đã ra mắt tới bạn đọc.[25] Trong đó, ấn phẩm có các bài thơ nổi bật là "Cũng những thằng nịnh hót" của Hữu Loan[100] và nhiều văn nghệ sĩ khác. Nhiều bài viết bàn về tự do trong văn nghệ, dân chủ của các cây bút Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo,[101] Đào Duy Anh, Trương Tửu; bác sĩ Đặng Văn Ngữ; Trần Thịnh–Trần Công,[68]... cũng tiếp tục xuất hiện trên Nhân Văn từ số thứ 3, góp phần định hình rõ hơn đường lối đấu tranh của giới trí thức với tự do dân chủ.[5][98] Theo sự nở rộ của phong trào, tờ báo sinh viên Đất mới đã ra số đầu tiên, trong đó có các bài "Phê bình lãnh đạo sinh viên" của Q. Ngọc và T. Hồng, truyện Lịch sử một câu chuyện tình của Bùi Quang Đoài.[25] Tờ Trăm Hoa (bộ mới) do Nguyễn Bính lập ra từ tháng 10 năm 1956 cũng đăng được 11 số, với nhiều bài hưởng ứng theo xu hướng của phong trào.[3]

Cuối 1956-1958: Dập tắt phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Những biểu lộ đàn áp của Đảng đối với phong trào tự do của giới trí thức đã bắt đầu xuất hiện từ cuối năm 1956. Điều này là bởi những sách lược chính trị của Liên Xô về chủ nghĩa xét lại và chung sống hòa bình bắt đầu đi ngược lại đường lối đấu tranh vũ trang mới thành hình của miền Bắc Việt Nam, nhất là sau khi các cuộc thương thảo xoay quanh Tổng tuyển cử 1956 hậu Hiệp định Genève không thành. Những phong trào đòi biểu tình, nổi dậy ở các nước khối Đông Âu cũng gây lo ngại cho chính quyền vì liên quan đến xu hướng dân chủ trong khối quốc tế cộng sản.[e] Tương tự ở Việt Nam, một số cuộc bạo động, khởi nghĩa, như cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, đã nhen nhóm xuất hiện tại các vùng nông thôn để phản ứng các đợt Cải cách ruộng đất. Trường Chinh, trong báo cáo ngày 13 tháng 3 năm 1958, đã thừa nhận những điều này và cho rằng các sự kiện trên xảy ra là do tranh thủ cơ hội từ diễn văn của Khrushchev.[2]

Ngày 30 tháng 10 năm 1956, khoảng ba tháng sau khi Trung ương dừng chiến dịch Cải cách ruộng đất và thực hiện các biện pháp sửa sai, Luật sư, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã đọc bài diễn văn "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" trong một phiên họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội.[102][103] Nguyễn Hữu Đang đã đến phỏng vấn ông và đăng bài phát biểu lên số thứ nhất báo Tự Do diễn đàn.[25] Bài diễn văn còn lọt ra đến Yangon và lan truyền sang Paris, tạo được tiếng vang quốc tế. Nhưng chính vì bài diễn văn trên, với giọng điệu gay gắt và mang những tư tưởng trái chiều, sau này đã khiến ông Tường bị tước hết mọi chức vụ cũng như không thể hành nghề luật sư suốt nhiều thập kỷ.[14][54] Vào ngày 14 tháng 12 năm 1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về quyền tự do báo chí,[104] theo đó "ngǎn cấm những kẻ lợi dụng báo chí hại đến công cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà"; phạt 5 năm tù nếu ai vi phạm vào sắc lệnh trên.[105][35] Trong năm 1957, các Luật về tự do hội họp, lập hội, báo chí tiếp tục được quốc hội thông qua, một mặt thừa nhận tinh thần tự do sáng tác, phát biểu nhưng mặt khác ngầm đặt ra những điều cấm kỵ liên quan đến việc mở rộng tự do dân chủ.[3]

Sự kiện đóng cửa Nhân Văn[sửa | sửa mã nguồn]

Khi tờ Nhân Văn ra đến số thứ 3, Đảng đã bắt đầu cảnh giác với tờ báo khi có xu hướng ngả về hướng đấu tranh chính trị.[35][106] Phạm Văn Đồng đã gọi họa sĩ Trần Duy lên để một lần nữa thuyết phục dừng xuất bản tờ báo, nhưng người đứng đầu tờ báo Nguyễn Hữu Đang vẫn giữ nguyên ý định, không dừng xuất bản. Không thành công, chính quyền gây khó dễ bằng việc giới hạn số lượng giấy in cung cấp cho tòa báo, buộc báo phải mua giấy ngoài với giá gấp đôi giá mậu dịch. Đây là lý do khiến các số báo qua mỗi kỳ giá ngày càng tăng, gây khó tiếp cận tới độc giả.[35]

Từ ngày 20 đến 23 tháng 10 năm 1956, Đại diện ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động Việt Nam đã tổ chức những buổi tọa đàm với ngành văn học nghệ thuật. Ba cái tên của báo Nhân Văn, trong đó có Trần Dần, đã được cử đi để dự buổi nói chuyện. Lúc này, sau khi các cuộc thương thảo bất thành, tờ báo đã nghiêng hẳn lập trường sang đấu tranh chính trị từ số thứ 4, đăng ngày 5 tháng 11 năm 1956. Những bài ý kiến của Nguyễn Hữu Đang về xây dựng một nhà nước pháp trị; bài chỉ trích của Trần Duy tới Đảng vì muốn đàn áp phong trào;[35] sáng tác châm biếm lãnh đạo như "Con ngựa già của chúa Trịnh" của Phùng Cung, "Những ngày báo hiệu mùa xuân" của Văn Cao... đã được đăng tải và thu hút chú ý lớn.[5][25] Lợi dụng những buổi tọa đàm, số thứ 4 của Nhân Văn cũng viết bài "Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng" của Lê Đạt, ngoài điểm tin về sự kiện còn ca ngợi Đảng và tạo thanh thế cho tờ báo trước các luồng chỉ trích từ văn nghệ sĩ khác. Nguyễn Hữu Đang, dưới bút danh Người Quan Sát, đồng thời viết một bài thuật lại sự kiện Nguyễn Bính bị hành hung vì không đăng bài phê phán Nhân Văn lên Trăm Hoa và lưu ý với thủ tướng Phạm Văn Đồng về vụ này.[35]

Sau khi Nhân Văn số 4 phát hành, chính quyền thực hiện các chiêu thức để gây chia rẽ phong trào. Ngay từ số thứ 3, tờ báo Nhân Văn đã vấp phải những chỉ trích dữ dội. Sang đến số thứ 4, tòa báo bị thi hành kỷ luật vì nộp lưu chiểu chậm.[35] Ngoài việc gây chia rẽ nội bộ, Đảng đã bắt đầu chỉ đạo các cấp ủy phổ biến cán bộ, đảng viên nhận định về phong trào, yêu cầu họ phải "kiên định lập trường" và đi sâu vào tuyên truyền giáo dục để quần chúng "nhất trí với nhận định của Đảng". Trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Trung ương và Hà Nội, hàng loạt bài phê phán phong trào đã được đăng tải. Theo ghi nhận của chính quyền, cũng có hàng trăm thư kiến nghị của nhiều tầng lớp người dân khác nhau đã được gửi về để "phản đối những sai trái của Nhân Văn – Giai Phẩm".[107][108] Các nghệ sĩ trong nội bộ báo Nhân Văn lúc này đã mâu thuẫn nhau giữa việc giải tán hay duy trì hoạt động của tờ báo. Theo lời Hoàng Cầm, ông cùng với Văn Cao và Trần Dần bày tỏ quan điểm muốn rút lui, đóng cửa tờ báo, trong khi Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo và Lê Đạt vẫn nhất quyết tiếp tục ra báo theo hướng đấu tranh chính trị.[35]

Nhân các sự kiện biểu tình, đàn áp ở Ponzan và Hungary của quân đội Liên Xô, ngày 20 tháng 11 năm 1956, số 5 của Nhân Văn đã tung ra 2 bài xã luận, trong đó bài thứ nhất là "Hiến Pháp Việt Nam và Hiến Pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ như thế nào" của Nguyễn Hữu Đang[42] và bài thứ hai có tựa đề "Bài học Ba Lan và Hung-ga-ry" của Người Quan Sát (Lê Đạt), được cho là mang ngụ ý "nếu chính quyền không chịu cải tổ chính trị thì miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành một Ba Lan, một Hung-ga-ry". Trần Dần bằng bút danh H.L cũng chính thức lên tiếng trên tờ báo với bài "Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở".[35]

Lo ngại trước sự lan truyền ngày một rộng của báo Nhân Văn trong xã hội,[108] trong khi báo Nhân Văn đang in số 6 tại Nhà in Minh Đức (xem lại), chính quyền Hà Nội đã cử người xuống đình chỉ việc in ấn báo.[35][107] Nội dung trong ấn phẩm này ban đầu được Trần Duy soạn theo một hướng, nhưng sau buổi gặp của Nguyễn Hữu Đang với Phạm Văn Đồng, tờ Nhân Văn số 6 đã được ông Đang chuyển sang một hướng khác. Đặc biệt, trong một bài xã luận của số báo, Nguyễn Hữu Đang đã viết "nhân dân có quyền biểu tình", được cho là chơi chữ với tờ báo Nhân Dân khi báo chỉ trích tờ Nhân Văn, dù có thể thực ra không nói gì về việc xuống đường biểu tình.[35] Tố Hữu được cho là người đã phát hiện ra chi tiết trên và sau đó cũng lên tiếng yêu cầu dừng in báo.[108] Thời điểm này, phong trào phản đối Nhân Văn – Giai Phẩm bắt đầu lên mạnh, Lê Đạt muốn thoái lui và đóng tờ báo nhưng Trần Đức Thảo và Trường Xuân,[ai?] Phan Khôi vẫn thắng thế.[35] Dù vậy, đến ngày 15 tháng 12 năm 1956, tòa báo Nhân Văn đã chính thức bị Ủy ban nhân dân thành phố ra lệnh đóng cửa.[107][108]

Cùng thời gian này, tạp chí Tự Do diễn đàn, cũng của những người trong phong trào, khi mới ra mắt ngay lập tức đã bị cấm. Cuốn sách bao gồm nhiều bài phê bình về Cải cách ruộng đất và tự do văn nghệ của nhiều tác giả khác nhau, tiêu biểu gồm "Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" của Nguyễn Mạnh Tường; "Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ?" của Nguyễn Hữu Đang; "Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách" của Phan Ngọc.[25] Tính đến cuối năm 1956, hầu hết các ấn phẩm liên đới tới phong trào đã bị đình bản và ngăn cấm phổ biến rộng rãi ra quần chúng.[36]

Song song với biện pháp cấm xuất bản báo, Đảng đã tổ chức chiến dịch hạ bệ uy tín các tờ báo và nhân vật trong phong trào bằng báo chí.[3] Trong đó, họ đã dùng tiếng nói của những văn nghệ sĩ trong Nam của tờ Thống Nhất, cùng lên tiếng cáo buộc phong trào bị chính quyền miền Nam lợi dụng và tuyên truyền để làm công cụ chia rẽ Nam Bắc. Tiếp sau đó, tờ báo này đã đăng một tâm thư ký tên 235 nghệ sĩ Nam Bộ, đồng loạt lên án Nhân Văn – Giai Phẩm.[108]

Báo Văn ra đời[sửa | sửa mã nguồn]

Dù ấn phẩm chính của phong trào là tờ Nhân Văn đã bị đình bản và phong trào bị thu hẹp lại đáng kể, dư âm của Nhân Văn – Giai Phẩm vẫn tiếp tục kéo dài tới cuối năm 1957. Trong đó, báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh đã tham gia hưởng ứng, còn Tập san phê bình của nhật báo Hà Nội hàng ngày thì đứng về phía phê phán.[13] Các tờ Sáng Tạo thuộc điện ảnh và tập san Giai Phẩm vẫn chưa bị cấm lưu hành và tiếp tục để lại ảnh hưởng sâu rộng tới giới văn nghệ sĩ, cả ở trong một số cơ quan ngôn luận của nhà nước.[68] Sau khi hoạt động trở lại, nhà xuất bản Minh Đức đã cho in tập Sách Tết 1957 – được xem là tiếp nối phong trào – tập hợp tác phẩm của nhiều cây bút khác nhau.[3] Lúc này, vì Trung Quốc vẫn đang diễn ra "Trăm hoa đua nở", cũng như phong trào phi Stalin hóa chưa hạ nhiệt, Đảng chưa thể mạnh tay với các văn nghệ sĩ tham gia vào phong trào. Thay vào đó họ đã điều số nghệ sĩ trên vào các tổ chức ở trong chính quyền để giám sát. Không khí lúc này tạm dần lắng xuống.[36]

Từ cuối tháng 2 đến tháng 4 năm 1957 đã diễn ra Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội. Trong đó, Nghị quyết của đại hội đã không đặt vấn đề liên quan tới đấu tranh với nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm.[89] Đại hội lần này đánh dấu sự của ra đời của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam thay cho Hội Văn nghệ cũ.[74] Những cái tên tham gia vào phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm trước đó vẫn tiếp tục được nhiều văn nghệ sĩ tín nhiệm, bầu vào ban chấp hành của hội và một số hội đoàn văn nghệ khác.[3] Hội Nhà văn thuộc Hội Liên hiệp lúc này thống nhất cho ra tuần báo Văn, số đầu tiên phát hành tháng 5 năm 1957. Chủ nhiệm của báo là Nguyễn Công Hoan, phó chủ nhiệm là Nguyễn Tuân, còn thư ký tòa soạn là Nguyên Hồng.[36][109]

Nhà văn này thiên về ca ngợi ư? Anh cứ làm việc của anh. Nhà văn sở trường mổ xẻ khuyết điểm ư? Đả kích ư? Anh cứ việc đi sâu. Rồi thì có bạn chuyên về những nhân vật trẻ tuổi, những vấn đề tình yêu, vấn đề đồng áng, nhà máy, quân đội, cả những chuyện đánh cá, vấn đề người sơn tràng và người làm công sở tư nữa. Mặc sức. Chỉ xin đừng cái gì cũng ngớp rồi không chuyên, không làm được cái gì ra hồn mà thôi

lời tuyên bố trên báo Văn số 22 (1957)

Trên tờ báo Văn đã chứng kiến xuất hiện trở lại của các tác giả trong Nhân Văn – Giai Phẩm, với những bài của Thụy An; Hoàng Cầm;[17] thơ "Lời mẹ dặn" của Phùng Quán;[77] Trần Dần; tranh hý họa của Trần Duy về văn nghệ miền Bắc,...[109] Báo Văn cũng cho đăng nhiều sáng tác trái ngược với đường lối sáng tác "phản đế và phản phong" của Đảng với các chủ đề đa dạng khác nhau, từ tình yêu lứa đôi đến nêu những bất công trong xã hội. Sự hưởng ứng lớn từ giới văn nghệ sĩ và công chúng đương thời đối với tờ báo tiếp nối này có thể thấy rõ qua việc nhiều cây bút đã chủ động gửi tác phẩm của mình đến Văn. Sự hưởng ứng đồng thời lan rộng ra các cơ quan tuyên truyền khác trong Đảng. Trong đó, tờ Văn nghệ Quân đội đã cho đăng nhiều truyện ngắn nói về mất mát trong cuộc sống mới hoặc khi kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc.[110] Một số tiểu thuyết về tình yêu thời chiến tranh như Sắp cưới của Vũ Bão và Mùa hoa dẻ của Văn Linh; hay nói về đề tài cải cách ruộng đất như Ông lão hàng xóm của Kim Lân, Những ngày bão táp của Hữu Mai, Thôn Bầu thắc mắc của Sao Mai đã được phát hành rộng rãi tới độc giả miền Bắc Việt Nam.[110]

Những tiếng nói từ các nhà văn về vấn đề phản ánh hiện thực trong văn nghệ cũng trở thành đề tài sôi nổi trong các buổi thảo luận tại Câu lạc bộ Hội Nhà văn. Chu Ngọc, Ngô Thông, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tế Hanh đã cùng đưa ra đòi hỏi mở rộng phạm vi hiện thực trong sáng tác của họ, cho phép nhà văn được phản ánh và phê phán các vấn đề, hiện tượng trong xã hội. Nổi bật, Phùng Quán đã lên tiếng về việc "làm tất cả đề tài mà không nghĩ lập trường", không để giai cấp lập trường ảnh hưởng đến ngòi bút nhà văn. Các ý kiến này sau đó được ghi lại trên báo Văn số 33.[110]

Chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những thiên hướng lệch lạc đi trệch ra ngoài đường lối văn nghệ của Đảng. Chúng ta cũng kiên quyết phản đối thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn kiểm điểm và thành tâm sửa chữa, trái lại, lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng. Thái độ đó rõ ràng là không lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ.

lời bình luận tại cuối bài viết của Hồng Chương và Trịnh Xuân An "Phải thấu suốt đường lối văn nghệ của Đảng. Bút ký sau khi đọc cuốn “Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Trường Chinh". Đăng trên tạp chí Học Tập số tháng 8 năm 1957

Sau khi 10 số đầu của Văn ra mắt, phía tạp chí Học Tập – cơ quan ngôn luận Đảng – đã bắt đầu lên tiếng phê phán. Trong đó, tác giả Thế Toàn (Trịnh Xuân An) trên số tháng 7 năm 1957 của Học Tập lên bài chỉ trích ấn phẩm Văn "nghèo nàn", "xa rời thực tế cách mạng". Một bài viết của Hồng Chương và Trịnh Xuân An trên tạp chí cũng nối dài sự chỉ trích này. Điều này cuối cùng dẫn đến một cuộc bút chiến lớn giữa phía những nghệ sĩ tại tòa báo Văn gồm Nguyễn Văn Bổng, Tô Hoài, Tế Hanh, Nguyễn Tuân với Học Tập. Vụ bút chiến cũng kéo theo các tờ Văn Nghệ, Cứu Quốc, Thống Nhất, Nhân Dân cùng hướng mũi nhọn công kích vào Văn. Đáng chú ý, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ thái độ nước đôi với cả hai bên, tuy nhiên vẫn ngả về hướng chỉ trích Văn nhiều hơn.[109] Đến số 36 ngày 10 tháng 1 năm 1958, Văn đã chính thức bị đình bản.[13][36] Trong số 36 của Văn, truyện ngắn "Ông Năm Chuột" của Phan Khôi – mang ngụ ý chỉ trích chế độ – bị cho là nguyên nhân chính dẫn tới việc đóng cửa tòa báo hoàn toàn.[111] Cùng thời gian này, tập thơ Cửa hàng Lê Đạt của nhà thơ đang in tại Nhà in Xuân Thu đã bị đình chỉ và bị thu hồi ngay lập tức; Lê Đạt sau đó cũng bị khai trừ khỏi Đảng vào tháng 7 năm 1957.[37]

Hội nghị Thái Hà[sửa | sửa mã nguồn]

Các hành động mang tính quyết liệt hơn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm dập tắt hoàn toàn phong trào đã bắt đầu từ đầu năm 1957.[13] Trong các ngày 20 đến 28 tháng 2 năm 1957, tại Đại hội Văn nghệ lần thứ II tổ chức ở Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội, đường lối tuyền truyền phục vụ mục đích để "cộng sản hoá miền Bắc và chuẩn bị thống nhất với miền Nam [...] xích hoá luôn phía bên kia vĩ tuyến" đã được đề ra. Dù các văn nghệ sĩ vẫn đa số ủng hộ phong trào, Truờng Chinh, đại diện lãnh đạo đảng tham dự đại hội, đã đứng dậy phát biểu quan điểm trái ngược từ Trung ương Đảng về vấn đề văn nghệ nói chung. Trong đó, ông đã thuật lại bức thư gốc của Trung ương Đảng nhưng tự ý chêm thêm những ý khác với tinh thần bức thư gốc,[89] bao gồm cả việc kêu gọi mọi người đấu tranh "đập nát bọn Nhân Văn – Giai Phẩm". Cuối cùng năm, sự kiện Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng đã bị Mao Trạch Đông đảo lại thành chiến dịch loại bỏ phe hữu khuynh – là những tiếng nói phát biểu nhiều nhất trong phong trào. Suốt thời gian diễn ra chiến dịch, Hồ Chí Minh đã có dịp qua quan sát và sau đó cử Tố Hữu, Huy CậnHà Xuân Trường sang Trung Quốc để học tập chính sách và đem về áp dụng đối với Việt Nam.[25][3] Ngày 6 tháng 1 năm 1958, Bộ Chính Trị ra "Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ" do Nguyễn Duy Trinh ký, phát động một chiến dịch đấu tranh tư tưởng "quét sạch tư tưởng "Nhân văn" là biểu hiện của tư tưởng thù địch về mặt chính trị, đồng thời cũng là biểu hiện nghiêm trọng của quan điểm văn nghệ tư sản".[36][109]

Sang đầu năm 1958, khi các cán bộ văn nghệ Việt Nam trở về, Đảng đã thi hành chính sách "triệt hạ nọc độc Nhân Văn".[25] Việc đầu tiên chính quyền làm là tổ chức hai lớp đấu tranh ở Thái Hà ấp, tập trung tổng cộng gần 500 người tham dự từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1958.[36][35] Hai lớp này mang cái tên chính thức là "hội nghị nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957", nhưng nhà văn Hồng Cương thì gọi ngắn gọn đây là hai lớp chỉnh huấn chính trị.[36]

Địa điểm tổ chức lớp Thái Hà là tại trường Tuyên huấn Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Ban lãnh đạo hội nghị gồm có Lê Duẩn, Hoàng Tùng, Tố Hữu, Nguyễn Văn Bổng và các nhà thơ khác gồm Nguyễn Đình Thi, Huyền Kiêu, Chính Hữu, Vũ Tú Nam, Huy Cận, Xuân Diệu.[36][88] Lớp đầu họp từ tháng 2 năm 1958, tập hợp 172 đảng viên, trong đó có Văn Cao, Đặng Đình Hưng tham dự, mục đích là để tập cách "phát hiện" và "tố giác", làm công tác chuẩn bị cho hội nghị sau. Lớp đấu tố chính diễn ra từ tháng 3 tới tháng 4 năm 1958 với 304 đảng viên, quần chúng và những thành viên ngoài Đảng đã tham gia vào Nhân Văn – Giai Phẩm; tất cả đều cùng lớn tiếng phê phán phong trào và vạch tội các thành viên. Tại lớp đấu tố chính thức, hơn 300 người sẽ được phân thành 15 hoặc 16 tổ, mỗi tổ gồm một tổ trưởng, tổ phó và thư ký. Mỗi tổ được quy định chỉ chứa hai thành viên phong trào vì lo sợ các thành viên sẽ cấu kết với nhau khó điều khiển.[36]

Tại lớp đấu tranh này, các văn nghệ sĩ chủ chốt trong phong trào như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng[28] đã viết các bài tự kiểm điểm và thú tội trước các cán bộ văn nghệ sĩ khác và nhân vật trong Đảng. Dưới áp lực cách mạng, họ đều bị buộc phải nhận tội chống phá chính quyền.[47][35] Những bài thú nhận của các nhà văn, thơ, sau khi đã qua kiểm tra từ hội đồng cũng như nhiều bản viết sửa chữa, lần lượt được đăng lên những số đầu tiên của tuần báo Văn NghệVăn Học từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1958. Hàng loạt các bài đăng đả kích phong trào cùng nhiều cá nhân văn nghệ sĩ cũng xuất hiện chủ yếu trên đây và một vài tạp chí nghiên cứu khác.[35][36] Ở lĩnh vực điện ảnh, sau khi tờ báo nhà nước Điện Ảnh thành lập thì một chiến dịch đả phá nhóm Sáng Tạo đã được tổ chức với bài mở đường của chủ nhiệm Trần Đức Hinh, trong đó một mực kiên quyết đấu tranh chống các xu hướng Nhân Văn – Giai Phẩm và những quan điểm xét lại giá trị điện ảnh Liên Xô. Hàng loạt những cái tên góp mặt trong tờ Sáng Tạo cũ sau đó đã đồng loạt lên bài nhận lỗi trên tờ Điện Ảnh.[68] Những đợt phê phán không dừng lại ở việc nhằm vào giới nghệ sĩ mà còn xoay sang chính trị.[112] Trong đó, Trương Tửu và Phan Khôi đã bị hàng loạt các cây bút có vị trí quan trọng trong chính quyền như Đào Vũ, Nguyễn Công Hoan,... viết bài thóa mạ vì là đầu tàu cho phong trào.[22] Các nhân vật ít xuất hiện hơn như Thụy An, Nguyễn Hữu Đang và Trần Duy thì không được dự lớp vì bị coi là "phần tử xấu".[36] Một số thì do vẫn giữ nguyên thái độ cứng rắn, như Phùng Cung, nên đã bị đuổi ra khỏi lớp.[28] Ngày 10 tháng 4 năm 1958, trong khi lớp Thái Hà vẫn đang diễn ra, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang và Trần Thiếu Bảo đã bị Công an Hà Nội bắt giữ.[3] Trong thời gian này, sáu sư đoàn từ các nơi đã được điều về Hà Nội để vây thủ đô "đề phòng bọn Nhân Văn".[33]

Hệ quả[sửa | sửa mã nguồn]

Kỷ luật[sửa | sửa mã nguồn]

Trước hết là trí thức và văn nghệ sĩ bị chụp ngay là phản động, theo đế quốc. Do đó họ bị trừng trị nặng nề. Đó là bi kịch của những Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán... Lúc bấy giờ tôi còn biết có "nhân văn xã, nhân văn huyện, nhân văn tỉnh". Tất cả những ai tàng trữ những bài thơ, bài viết đòi tự do của Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán... thì đều bị liên lụy; tuổi trẻ thì bị đuổi học, người lớn tuổi thì bị tù vì cho là phản động. Và bi kịch Nhân Văn – Giai Phẩm cũng kéo dài hơn 30 năm.

Bùi Tín, [113]

Ngày 4 tháng 6 năm 1958, chiến dịch hạ gục Nhân Văn – Giai Phẩm chính thức kết thúc tại Đại hội Văn nghệ lần thứ III ở Hà Nội, với việc Tố Hữu đọc bài báo cáo "Tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân văn Giai Phẩm"". Ngay ngày tiếp theo, một nghị quyết lên án "bọn Nhân Văn Giai Phẩm" đã được đề ra bởi 800 văn nghệ sĩ, hưởng ứng theo Đại hội.[36]

Theo sau sự chấm dứt của phong trào là một đợt kỷ luật rộng khắp toàn bộ giới trí thức cùng văn nghệ, với số lượng lớn các văn nghệ sĩ, luật sư, nhà giáo bị lên án và cảnh cáo, nhẹ thì bị giáng chức vụ, hạ tầng công tác, nặng thì điều đi lao động cải tạo hay bị cô lập bởi chính quyền.[3] Bên cạnh hai bộ phận trên, những sinh viên, trí thức hay người dân từng đọc các ấn phẩm của phong trào hoặc giúp đỡ, tỏ thái độ thông cảm, ủng hộ cũng bị trừng phạt bằng cách thuyên chuyển công tác, lưu lại vào lý lịch, hay cho đi lao động vùng xa. Không có một con số ước lượng đầy đủ những người thuộc nhóm này.[36][114] Nhưng chỉ riêng một thống kê của Công an Hà Nội đã tiết lộ con số 170 cái tên, được quản lý bởi thành phố, bị quản thúc vì liên quan đến vụ án, trong đó số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người; còn số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực thì lên đến hàng ngàn cá nhân.[3][28] Trong số này còn bao gồm bạn hay đồng nghiệp của những người liên quan đến vụ án như Đặng Đình Hưng, Nguyễn Huy Tưởng, Phạm Ngọc Khuê,... dù vai trò của họ gần như là không lớn.[115][116][117]

Không dừng lại ở sự kết tội từ ban lãnh đạo, các thành viên trong phong trào cũng bị buộc phải đứng lên để kết tội các thành viên khác từng tham gia với mình. Nhà thơ Trần Dần, trong các trang nhật ký của mình, đã xác nhận việc phải đứng ra tố cáo bạn bè để được tha tội và trở lại cuộc sống bình thường.[112] Có nhiều nguồn khác nhau, từ những cá nhân khác nhau, đã xác nhận khoảng cuối năm 1960, nhà văn Phùng Cung đã bị đấu tố công khai riêng hai buổi tại trụ sở Hội Nhà văn, trước đông đảo quần chúng. Tại đây, ông bị coi là "tên phản động ngoan cố nhất của "Nhân Văn Giai Phẩm"" và bị các đồng nghiệp là Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm đứng ra xác nhận tội trạng của ông.[28] Các sáng tác mà Phùng Cung viết trong giai đoạn đàn áp phong trào lên mạnh nhất, từ 1957 đến 1960, đã bị nhắm đến vì hàm ý đả kích chính trị sâu xa của nó. Đặc biệt, truyện ngắn "Dạ Ký" (chưa xuất bản) của Phùng Cung, với việc khắc họa một cách châm biếm toàn cảnh phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm sau khi kết thúc, cùng sự tung hoành của lá cờ "lưỡi câu thép ngoại", sau này được xem là cái cớ chính cho việc kết tội nhà văn.[28][72]

Giới nghệ sĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Thêm phần kỷ luật quân đội với các nghệ sĩ

Từ ngày 21 tháng 6 đến 3 tháng 7 năm 1958, ban chấp hành của các hội văn nghệ, gồm Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật và Hội Nhạc sĩ đã lần lượt đưa ra mức kỷ luật đối với các thành viên của hội tham gia vào phong trào, cụ thể:[36][68][109]

  • Hội Nhà văn: Khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh khỏi ban chấp hành. Đối với Hoàng Cầm và Phùng Quán: khai trừ khỏi 1 năm khỏi hội, 3 năm đối với Trần Dần, và Lê Đạt. Thống nhất khai trừ Trương Tửu, Phan Khôi, Thụy An ra khỏi hội.
  • Hội Mỹ thuật: cảnh cáo Sỹ Ngọc, chấp nhận cho Sỹ Ngọc và họa sĩ Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành hội. Khai trừ Trần Duy trong hội.
  • Hội Nhạc sĩ: chấp nhận cho Văn Cao và Nguyễn Văn Tý rút khỏi ban chấp hành hội. Đối với Tử Phác và Đặng Đình Hưng: khai trừ 3 năm khỏi hội.
  • Hội Sân khấu: chấp nhận cho Trúc Quỳnh rút khỏi ban chấp hành hội.

Bên cạnh những án kỷ luật đối với số thành viên trên, một số cá nhân trong các hội cũng bị nhận cảnh cáo vì hoạt động tích cực trong Nhân Văn – Giai Phẩm. Sau đó, rất nhiều thành viên chủ chốt của phong trào đã bị đưa đi chỉnh huấn, lao động cải tạo ở vùng sâu vùng xa. Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng,... đã bị điều đi cải tạo suốt vài tháng và theo từng đợt trong nhiều năm kéo dài.[36] Văn Cao cũng bị thôi chức Phó tổng Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật để điều về làm nghiên cứu âm nhạc.[96] Các văn nghệ sĩ sau khi hết chịu lệnh kỷ luật đều không được phép sáng tác và trở lại văn đàn suốt nhiều thập kỷ liên tiếp. Thay vào đó, họ phải đi làm nghề tay trái, nghề lao động để kiềm tiền. Một số người trong giai đoạn này đã âm thầm sáng tác thơ, truyện ngắn nhưng không công khai cho ai biết.[28][67][20]

Sau khi xét xử vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, Bộ Chính trị ra quyết nghị đưa gần 500 văn nghệ sĩ trong tờ Văn đi học chỉnh huấn. Hơn 300 người đã ký tên cam kết chấp hành đường lối chính trị của Đảng. (Abuza, Zachary)

Giới trí thức[sửa | sửa mã nguồn]

Không có một tài liệu nào chính thức đề cập tới những hình phạt mà giới trí thức phải chịu. Nhưng những đợt trừng phạt các trí thức được cho là đã diễn ra song song với những kỷ luật trong giới văn nghệ.[28][36] Các giáo sư từng tham gia vào phong trào đã phải chịu một cuộc đấu tố ở phạm vi các trường đại học nơi công tác, cơ quan trung ương. Viết cuốn hồi ký tiếng Pháp Kẻ bị khai trừ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, ông kể lại bản thân từng phải đi qua ba "đấu trường": thứ nhất là trước Mặt trận Tổ quốc, thứ hai là trước quần chúng, và thứ ba là trước đại diện của giới cầm quyền; nhưng không có một án chính thức nào được đưa ra cho ông. Cũng giống như Trần Đức Thảo, Trương Tửu và Đào Duy Anh, ông Tường sau cùng đã bị cách chức tại các cơ quan, đoàn hội luật và phải chịu sự quản thúc từ chính quyền. Không chỉ vậy, ông còn bị ly khai hoàn toàn khỏi xã hội, không được dạy thêm, không được tiếp xúc với người ngoài. Vì cuộc sống khó khăn và bị hạn chế nhiều mặt, giai đoạn sau này, những trí thức sau Nhân Văn – Giai Phẩm đều phải chịu đói rét và bệnh tật.[36]

Phiên xét xử tại Tòa án nhân dân Hà Nội[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 19 tháng 1 năm 1960, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử "5 tên cầm đầu" Nhân Văn – Giai Phẩm, bao gồm Nguyễn Hữu Đang, Thụy An (Lưu Thị Yến), Trần Thiếu Bảo (Minh Đức), Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Phiên xét xử diễn ra từ 7 giờ sáng đến 6 giờ tối, với hơn 500 người, phần lớn là đảng viên, cán bộ, trí thức tới tham dự. Chánh án của phiên tòa là Nguyễn Xuân Dương, còn hội thẩm có Nguyễn Tử Các và Phùng Bảo Thạch. Dương Văn Đàm, Viện trưởng Viện Công tố, đã trực tiếp ngồi ghế công tố, còn luật sư Đỗ Xuân Sảng bào chữa cho các bị can. Về hồ sơ vụ án, tòa án đã dựa vào bản điều tra của Bộ Công an, kết hợp với điều tra và bổ sung thêm một số phát hiện mới để bổ sung tội trạng cho những bị can.[79] Trong bài tường thuật của báo Nhân Dân đăng ngày 21 tháng 1 năm 1960, tất cả những nhân vật có mặt tại phiên tòa đều bị cáo buộc là gián điệp có tổ chức, với Nguyễn Hữu Đang và Thụy An cầm đầu. Ba người Phan Tại, Hữu Đang và Thụy An bị cáo buộc lập cùng tụ tập kín và xuất bản báo Nhân Văn cùng Sáng Tạo; Nguyễn Hữu Đang và Trần Thiếu Bảo bị cáo buộc cấu kết để lợi dụng nhà xuất bản làm cơ sở vật chất cho tổ chức phản cách mạng; Hữu Đang, Thụy An và Lê Nguyên Chí bị cáo buộc có ý định trốn vào Nam để tránh tội.[f][36][28] Trả lời cáo buộc này, Nguyễn Hữu Đang đã khai tại phiên tòa rằng ông muốn đến một quốc gia khác để "đấu tranh cho thống nhất, thống nhất hai miền" nhưng đáp lại là tiếng cười nhạo của toàn bộ những cá nhân có mặt tại phiên tòa.[8]

Bản án sau cùng của tòa đã được tuyên bố, theo đó Nguyễn Hữu Đang và Thụy An phải chịu 15 năm tù giam, 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo chịu 10 năm tù giam, 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm mất quyền công dân và Lê Nguyên Chí là 5 năm tù cộng 3 năm mất quyền công dân.[36] Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo và Phan Tại đã bị giam trong các buồng tù kiên cố nhất cùng với các phạm nhân loại A1, B1; tại các trại tù dành cho tù nhân chính trị bao gồm trại Mai Côi – Tân Lập và trại giam Cổng Trời ở Hà Giang. Họ đều bị biệt giam và cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài, không được liên lạc với họ hàng người thân.[8]

Tháng 10 năm 1974, Nguyễn Hữu Đang và Thụy An đã được thả tù sớm theo diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris". Sau khi ra tù, hai người vẫn bị chính quyền quản thúc chặt chẽ, hạn chế giao tiếp cũng như đi lại cho đến cuối đời.[67][39] Về Trần Thiếu Bảo, tuy đã mãn hạn tù từ 1970, ông vẫn bị giam ba năm tiếp cho tới tháng 4 năm 1973 mới được thả ra.[29]

Về phiên tòa 1960, ngoài một bài báo của Nhân Dân loan tin về sự việc thì gần như không có tài liệu nào khác đề cập đến phiên tòa này. Mùa hè năm 2014, trong khi đang tra tìm tư liệu về phong trào tại Trung tâm lưu trữ quốc gia III ở Hà Nội, giáo sư Peter Zinoman thuộc Đại học California tại Berkeley, Hoa Kỳ đã tìm thấy một tài liệu tổng kết nghiệp vụ của chánh án Nguyễn Xuân Dương liên quan đến phiên tòa. Đây được xem là tài liệu hiếm về Nhân Văn – Giai Phẩm, trong đó tường thuật lại quá trình chuẩn bị cho phiên tòa, hỏi cung các bị cáo và kết quả phiên tòa. Đáng chú ý, về quá trình lập án và hoàn thiện hồ sơ, dựa theo tài liệu trên, Viện công tố và Tòa án Hà Nội đã đồng ý với hồ sơ ban đầu của Bộ công an về tội danh của các bị cáo là lợi dụng quyền tự do dân chủ để tuyên truyền phá hoại, bôi đen chế độ tiến đến tập hợp lực lượng phiến loạn. Nhưng sau khi hồ sơ được đệ trình lên Trung ương xin ý kiến, dựa trên diễn biến những vụ bạo loạn tại Đông Âu, phía Trung ương Đảng đã yêu cầu sửa lại bản án sang hướng kết án các thành viên thành "bọn gián điệp, phản cách mạng". Việc chuyển hướng kết án này được cho là để "đánh đúng tội" các bị cáo và nâng cao cảnh giác quần chúng, không bị quần chúng cho là hẹp hòi, xử người trái ý chính quyền.[79][112]

Sau đề nghị từ phía Trung ương được đưa ra, cả ba cơ quan đã tiến hành điều tra mở rộng và bổ sung các tình tiết mới để củng cố hồ sơ. Sau khi bị tra hỏi bởi phía công an, các bị cáo tiếp tục bị thẩm vấn lần hai. Một số tình tiết mới trong lần hỏi cung này đã được tiết lộ: theo đó, Thụy An trong quá trình thẩm vấn đã tự chọc mù một mắt, tuyệt thực, giả điên và cởi quần áo để tỏ thái độ với chính quyền; hai người Nguyễn Hữu Đang và Thụy An được dành nhiều thời gian hỏi cung nhất so với những người còn lại. Bản buộc tội và bản án dành cho các bị cáo cũng đã được chuẩn bị từ trước; việc của người hỏi cung và tòa án chỉ là phân tích và chỉ điểm, giáo dục họ để nhận tội, đưa ra lời khai khớp với bản cáo buộc cùng các tài liệu thu thập được. Sau khi kết thúc phiên tòa, phản ứng của dư luận và những người tham gia phiên tòa được báo cáo đều có chung một nhận định rằng đây là một vụ án gián điệp. Diễn biến của phiên xét xử cũng đã củng cố cho họ nhận thức về tính chất chính trị của vụ án và tinh thần dân chủ của phiên tòa.[79]

Ngoài phiên tòa chính thức này, còn có một trường hợp bị giam khác nhưng không xử án là Phùng Cung. Sau Nhân Văn – Giai Phẩm, ông đã bị bắt khoảng đầu năm 1961.[g] Theo đó, sau các buổi đấu tố tại Hội Nhà văn từ trước, nhà thơ Chế Lan Viên đã ngay lập tức ra lệnh công an lục soát, tịch thu toàn bộ bản thảo trong nhà Phùng Cung và bắt ông. Đây cũng là vụ bắt giữ thứ hai trong phong trào, sau khi Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần; nhưng lần bắt giữ của Chế Lan Viên đã trở nên công khai. Phùng Cung sau đó đã phải chịu giam 12 năm không có án, hay như chính quyền gọi là đưa đi "cải tạo", với 11 năm bị biệt giam,[112] được cho là do mang nhưng tư tưởng "xấu" trước đó và cũng một phần vì liên quan tới phong trào. Nhưng theo Phùng Hà Phủ, tội chính của Phùng Cung khi đó bị cho là "mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình [cải cách ruộng đất]".[28][36] Ông đã bị giam tại nhiều nhà tù ở những nơi khác nhau, trước khi được thả năm 1973. Sau khi thoát tù, ông vẫn bị công an canh gác cạnh nhà thường xuyên và theo dõi.[28]

Tác động[sửa | sửa mã nguồn]

Miền Bắc Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Xuyên suốt thời gian diễn ra, phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm đã tạo được tiếng vang mạnh mẽ, sâu rộng trong giới văn nghệ sĩ cũng như nhiều tầng lớp nhân dân miền Bắc Việt Nam, thậm chí đến cả vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa.[30][110] Các ấn phẩm của Giai Phẩm mỗi số in ra 3100 bản đến 3200 bản với giá 1500 đồng và vẫn bán được hết.[29][cần dẫn nguồn] Theo lời Hữu Loan, tuy đã có các cơ quan "giải oan" được thành lập để giúp người bị xử oan do những sai lầm trước đó, nhưng một chồng lớn đơn từ kêu oan vẫn được gửi về Nhân Văn; tòa báo sau đó đã phải xếp thành văn kiện để gửi cho Trung ương Đảng nghiên cứu và xử lý.[33] Theo báo cáo của chính quyền, các tài liệu phong trào còn bị tuồn vào Nam và ra nước ngoài.[2] Đặt trong bối cảnh của xã hội đương thời, Nhân Văn – Giai Phẩm đã được xem như là phong trào chỉ trích đảng duy nhất trước năm 1986.[118] Viết về phong trào này, tác giả Hoàng Tiến, một nhà văn chuyên tìm hiểu về sự vụ, nhìn nhận Nhân Văn – Giai Phẩm như một vụ án văn học "kinh thiên động địa, chưa bao giờ xảy ra ở Việt Nam với tầm vóc quy mô như thế". Theo Nguyễn An (2006), thì phong trào có sức ảnh hưởng trên cả ba bình diện, gồm cá nhân, nền văn học và cả xã hội. Tính nổi bật của sự kiện này còn đáng được lưu tâm hơn cả khi thực tế đây chỉ là một phong trào thiếu tổ chức, lãnh đạo và phương tiện.[30][119]

Sự thành công trong việc dập tắt phong trào đã giúp Đảng dễ dàng hơn trong việc quản lý giới văn nghệ sĩ nói chung, buộc họ phải viết theo yêu cầu của bên trên và phục tùng mọi chính sách mà Đảng đề ra hoặc nếu đi ngược lại sẽ bị trừng phạt.[27] Bằng chứng là trong suốt giai đoạn Chiến tranh Việt Nam, tất cả các tác phẩm và báo chí chỉ ca ngợi thành tựu của Đảng mà không nhắc đến mặt trái xã hội hay những thất thoát trong chiến tranh.[11][120][121] Không chỉ vậy, các cơ quan xuất bản tư nhân trước 1954, vì vụ việc mà đã bị giải tán để thay thế bằng các cơ quan xuất bản do chính quyền nắm giữ.[3][122] Tuy nhiên, những điều này được cho là đã dẫn đến sự "đóng băng" của toàn bộ nền văn hóa văn nghệ Việt Nam từ sau 1954 và làm "hỏng" cả một thế hệ nghệ sĩ cả trong phong trào lẫn hậu thế vì phải viết theo lối văn chương "phải đạo";[120][34] luôn ở tình trạng lo sợ bị bắt bớ, kiểm duyệt.[119] Sau này, một vài chiến dịch chống xét lại trong văn nghệ tiếp tục được chính quyền tổ chức để dập đi những tư tưởng hữu khuynh, theo chủ trương "chung sống hòa bình" của Thủ tướng Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov, hay có tinh thần bi quan, chủ nghĩa cá nhân ủy mị, mà trường hợp bị tấn công tiêu biểu nhất là cuốn tiểu thuyết Vào đời của Hà Minh Tuân.[121] Ở mặt chính trị, sự dập tắt các tư tưởng đi ngược lại chủ trương chiến tranh, theo trường phái hữu khuynh của một bộ phận lãnh đạo trong nội bộ Đảng đồng thời diễn ra thông qua Vụ án Xét lại Chống Đảng từ năm 1967.[2][cần dẫn nguồn]

Trước khi quá trình Đổi Mới diễn ra, trong không khí kiểm duyệt gắt gao kể từ Nhân Văn – Giai Phẩm, vẫn có những sự kiện liên quan đến kêu gọi dân chủ, tự do sáng tác ở miền Bắc, như trường hợp của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từng bị bắt tù tổng cộng 27 năm vì liên quan đến viết thơ "chống chế độ"; nhóm kín Văn nghệ Chân đất thành lập thành lập thập niên 1970 – 1980 nhằm lên án chính sách đàn áp văn nghệ của chế độ.[3] Năm 1979, sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, xã hội chuyển từ thời chiến sang thời bình, nhà văn Nguyên Ngọc đã soạn thảo bản "Đề cương đề dẫn thảo luận ở Hội nghị Đảng viên bàn về sáng tác văn học". Trong đó, ông chỉ điểm ra những yếu kém, bế tắc của sáng tác văn học miền Bắc và đề cập đến vấn đề dân chủ, tự do sáng tác. Vì bản nghị quyết này mà cùng năm Nguyên Ngọc đã bị cách chức Bí thư Đảng đoàn và bị lên án kịch liệt. Sau này, bản "Đề cương đề dẫn" trên được nhắc đến như là một "hiện tượng tiền đổi mới của Việt Nam".[3]

Thành viên phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các thành viên trong Nhân Văn – Giai Phẩm đều phải chịu sự đàn áp của chính quyền suốt nhiều thập kỷ, không dừng lại ở chính họ mà còn ảnh hưởng tới người thân, chẳng hạn như con cái không được kết nạp Đoàn, Đảng, không được theo học đại học; bị gây khó dễ bởi lý lịch;[123][124] bị người thân, hàng xóm xa lánh, không tìm được việc;[17][55] cá biệt như trường hợp của nhà văn Phan Khôi thì bị đuổi khỏi ngôi nhà đang ở.[61] Chính quyền cũng từng tổ chức các cuộc vận động lớn, gây sức ép buộc vợ các thành viên phong trào phải li hôn chồng. Trong đó, nhà viết kịch Hoàng Yến đã tiết lộ việc vợ ông bị các cấp lãnh đạo tuyên truyền, xem chồng như là một tên phản động để sớm chủ động đệ đơn li hôn nhà thơ.[88] Sau này, ông phải sống gá nghĩa với nhà thơ Thùy Linh và không thể trở lại gia đình cũ tới cuối đời.[89]

Phần đa các tác giả phong trào đều bị hạn chế ra sách, một số bị cấm hẳn việc công bố xuất bản.[125][cần dẫn nguồn] Nhiều sáng tác nhạc, thơ, truyện trước và sau phong trào của các văn nghệ sĩ cũng bị tịch thu và ít nhiều đã thất lạc vĩnh viễn hay bị cất trong kho không cho xuất bản, phát sóng.[20][61][66] Những ghi nhận về xã hội dưới thời kỳ Cải cách tầng lớp trong xã hội hay thực trạng văn nghệ sĩ đương thời của các nghệ sĩ vì đó mà bị giữ kín, không thể tiếp cận tới công chúng.[20] Sau này, vì lo sợ nguy cơ tác phẩm mới sáng tác của mình bị công an tịch thu tư liệu và tiêu hủy, các nghệ sĩ phải tìm cách lưu giữ lại trong âm thầm, trong đó có việc tặng nhiều bản cho bạn bè để phòng trường hợp bản thảo gốc bị thu hồi.[28][126]

Trong một quãng thời gian dài cho đến trước Đổi Mới, các tác phẩm của tác giả trong Nhân Văn – Giai Phẩm đều bị cấm xuất bản, hạn chế phổ biến để luận bàn đánh giá, giảng dạy trong nhà trường. Họ cũng bị gọi là "phản động, là tàn dư của tư tưởng tư sản và tiểu tư sản".[127] Nhiều người chỉ được trả một số lương để làm công việc dịch thuật, sáng tác thuê và không được dùng tên thật khi hoàn thành.[3][128][129] Trong tập hồi ký di cảo Ba phút sự thật của Phùng Quán, ông thuật lại những năm bị chèn ép hậu phong trào: không những bị hạ tầng công tác, ông bị đi lao động 15 năm và còn bị giảm bậc lương dưới cả mức tiêu chuẩn.[130] Để kiếm tiền nuôi gia đình, ông đã phải viết văn và đăng dưới tên của một người khác, trong đó có ba tập tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội nổi tiếng sau này.[78] Không những kiểm duyệt nghiêm ngặt các tác phẩm của những thành viên thuộc phong trào, chính quyền cũng "xóa sổ" tên của những người này ra hầu hết sách báo đại chúng, và chỉ nhắc lại trong một số dịp nhưng với giọng điệu đấu tố, lên án hay bịa đặt, bôi nhọ tiểu sử để quy vào hàng "phản cách mạng" mà trong đó nổi bật được cho là trường hợp của Phan Khôi. Sự biến mất kéo dài của họ trên văn đàn, báo chí đã dần khiến dân chúng quên đi và quên cả sự vụ không lâu sau đó.[61][29]

Theo ghi nhận của Thái Kế Toại, sau 1975, nhiều nhà văn, thơ trong phong trào như Trần Dần, Văn Cao đã có những hành động đề nghị chính quyền nới lỏng tự do sáng tác, tuy nhiên tất cả đã bị làm thinh.[95] Suốt hàng thập kỷ sau sự kiện, giới cầm quyền vẫn tiếp tục thi hành những lệnh hạn chế, kiểm duyệt gắt gao với văn nghệ sĩ trong nước.[131][132] Tiêu biểu, năm 1982, nhà thơ Hoàng Cầm đã bị công an bắt và giam trong 18 tháng vì tập thơ Về Kinh Bắc mà ông viết từ cuối 1959-đầu 1960. Trong đó, tập thơ bị cáo buộc lồng ghép các tư tưởng phản động vào những bài thơ trữ tình nhằm đánh lạc hướng người đọc, bao gồm bài "Lá diêu bông", "Váy đình bảng",... Trần Thiếu Bảo, người chủ động tổ chức in ấn tập thơ này, đã bị gọi lên thẩm vấn nhiều ngày liên tiếp. Các ông Bùi Xuân Phái, Văn Cao có tham gia vẽ tranh, bìa thơ nhưng đã không bị gọi điều tra.[17] Cùng với Hoàng Cầm, nhà thơ Hoàng Hưng cũng bị giam 39 tháng do xin một bản để đem vào Nam. Để được thả tù sớm, Hoàng Cầm bị ép phải viết bản nhận tội là phản động, chống chế độ xã hội chủ nghĩa.[133] Suốt một thời gian dài sau đó, ông bị rơi vào tình trạng hoảng loạn, trầm uất kéo dài và chỉ bình phục trở lại khi được phục hồi danh dự vào năm 1988.[17][134] Vợ của Hoàng Cầm, bà Lê Hoàng Yến, cũng đã qua đời vào năm 1985 trong hoàn cảnh nghèo đói và áp lực phải nuôi gia đình nhiều người.[135]

Vì vai trò của Văn Cao trong Nhân Văn – Giai Phẩm, bài quốc ca "Tiến quân ca" do nhạc sĩ sáng tác cũng phải chịu những khó khăn tương tự khi đã nhiều lần bị đem ra thảo luận để thay thế. Từ những năm 1958 sau khi phong trào kết thúc, chính quyền đã định thay bài quốc ca đầu tiên sang bài "Bài ca cách mạng tiến quân" của Đỗ Nhuận. Tính đến năm 1980, hiến pháp mới ban hành của chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục không công nhận quốc ca "Tiến quân ca".[16] Chỉ một năm sau đó, nhà nước đã tổ chức cuộc thi quốc ca để tìm bài thay thế Văn Cao, nhưng đến cuối cùng "Tiến quân ca" vẫn được giữ nguyên. Sau khi nhạc sĩ được hồi phục danh dự trở lại, Quốc hội đã xác định lại vai trò "Tiến quân ca" như là quốc ca chính thức của Việt Nam.[16][65]

Phản ứng[sửa | sửa mã nguồn]

Đương thời[sửa | sửa mã nguồn]

Miền Bắc Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Giới lãnh đạo miền Bắc đã xem phong trào như một vụ án chính trị hơn là một vụ án văn nghệ;[79] là "một cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản". Họ coi những thành viên liên quan tới Nhân Văn – Giai Phẩm là "tay sai" của địch, ở đây là chính quyền Mỹ-Diệm, đả phá chế độ cộng sản, "chống cộng trong lòng cộng", hay là hạt giống xấu "gieo trên miếng đất của những tư tưởng sai lầm".[36] Một số thành viên trong phong trào đã quy vào thành phần chủ chốt và bị coi là gián điệp được chính quyền miền Nam cài vào, móc nối các trí thức cùng nghệ sĩ bất mãn để "chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền nhân dân".[136] Trong một bài báo cáo tháng 3 năm 1958, Trường Chinh đã lên án riêng báo Nhân văn "đề xướng những tư tưởng của chủ nghĩa xét lại" là phá hoại chế độ trên bốn diện: chính trị, kinh tế, văn hoá và ngoại giao.[2] Theo sau bài viết đầu tiên tố Nhân Văn – Giai Phẩm của Tố Hữu, các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Hồng Chương đã đồng loạt viết những bài lên án phong trào với cùng một nội dung tư tưởng, đều nhìn nhận sự nở rộ của phong trào gây nguy hại đến thế lực của Đảng. Tiêu biểu, bài "Chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ" của Nguyễn Đình Thi đã cáo buộc 6 điểm chủ trương của nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, nguyên văn:[36][137]

  1. Bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản là không "nhân văn", là "chà đạp con người", bôi nhọ những đảng viên cộng sản là "khổng lồ không tim", không phải là "cộng sản chân chính", xuyên tạc sự giáo dục của Đảng là "rập khuôn đầu óc và tâm hồn", văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa là "công thức, giả tạo", đẻ ra những "thi sĩ máy". Dưới chiêu bài "đề cao con người", "chống công thức", báo Nhân văn, Giai phẩm đã đề cao chủ nghĩa cá nhân, "tự do" cá nhân, đòi quyền, "tự do" cho những lối sống và tình cảm ích kỷ trụy lạc.
  2. Phản đối chuyên chính, đòi "dân chủ", "tự do" theo lối tư sản trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Đả kích từ Mậu dịch, quản lý hộ khẩu, Bưu điện, cơ quan báo chí, bệnh viện, cho tới Quốc hội, nói chung là đả kích vào bộ máy Nhà nước của ta, đòi tự do đối lập với Chính phủ, trong lúc bọn phản động đang âm mưu phá hoại và một vài giới tư sản đang tiến công ta.
  3. Đưa ra chiêu bài "chống sùng bái cá nhân" để xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng là "đảng trị" (...) Đem đối lập quần chúng với lãnh đạo, khích quần chúng chống lãnh đạo (...)
  4. Phỉnh nịnh đầu óc quốc gia chủ nghĩa tư sản, đả kích Liên-xô, cho sự giáo dục con người ở Liên-xô là "rập khuôn", văn học nghệ thuật Liên-xô là "công thức", không có giá trị. Vin vào khẩu hiệu "trăm hoa đua nở" để xuyên tạc đường lối văn học nghệ thuật của Trung quốc, (...)
  5. Phủ nhận những thành tích to lớn của nhân dân ta, của Đảng ta trong công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, phủ nhận những kết quả to lớn của cải cách ruộng đất (...)
  6. Riêng về văn nghệ, thì trong Nhân văn, Giai phẩm đã đề xướng "trăm hoa đua nở" theo lối tự phát vô chính phủ, "hoa lành, hoa độc, hoa thối, hoa thơm" đều có quyền nở tự do như nhau. Thực chất là nó đòi hủy bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu khẩu hiệu "trả văn nghệ về cho văn nghệ", "văn nghệ và chính trị vỗ vai nhau hai bên cùng có lợi" v.v..
    — Nguyễn Đình Thi, viết trên tạp chí Học Tập số 3, tháng 3 năm 1958

Theo Boudarel, dù thực tế là các thành viên chủ chốt trong Nhân Văn – Giai Phẩm hầu hết có dính dáng tới sự vụ đòi tự do sáng tác ở quân đội, song suốt thời gian diễn ra phong trào, không văn bản nào của các tướng lĩnh trong tổng cục chính trị viết nhằm lên án phong trào. Dựa vào điều trên, ông đã phân tích và chỉ ra rằng những nhân vật cấp cao trong quân đội đã bị mắc kẹt giữa hai luồng tư tưởng: "khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống".[25] Một ví dụ nổi bật là xuyên suốt sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm, tướng Nguyễn Chí Thanh đã có nhiều phản ứng mâu thuẫn nhau. Những mâu thuẫn này đã được chỉ ra từ các phân tích về thái độ của ông với vụ yêu cầu tự do sáng tác trong quân đội và lập trường của ông với Trần Dần. Theo suy luận của tác giả Thụy Khuê, dựa trên những tài liệu tổng hợp từ nhà thơ Hoàng Cầm và Vũ Tú Nam thời điểm đầu 1955, Nguyễn Chí Thanh đã sớm bộc lộ sự xung đột về thái độ ở trong quân đội: ông vừa "bật đèn xanh" cho Trần Dần và các bạn đòi hỏi tự do sáng tác nhưng cũng đồng thời dập tắt bản dự thảo đòi tự do sáng tác chỉ ngay sau đó không lâu. Lúc Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời và Trần Dần bị bắt lần thứ hai, Nguyễn Chí Thanh tiếp tục "can thiệp" để cứu nhà thơ khi Trần Dần bị nhốt và phải cứa cổ để thoát ra ngoài.[25] Tuy vậy, ông lại cung cấp các tài liệu, hồ sơ cá nhân về Trần Dần cho cháu mình là nhà văn Vũ Tú Nam, bao gồm hai lá thư Trần Dần viết xin ra khỏi Đảng năm 1955, để lên bài "tố Trần Dần".[20]

Miền Nam Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tại miền Nam, phong trào đã được biết đến rộng rãi và được chính quyền Việt Nam Cộng hòa sử dụng để công kích chính quyền miền Bắc Việt Nam.[47] Phong trào cũng được xem như là một sự kiện mang tính biểu tượng cho "tầng lớp trí thức tài năng, sáng suốt, dũng cảm và bất khuất trước cường quyền và bạo lực".[2]

Bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần đã được sử dụng phổ biến bởi nhiều người như là tác phẩm nổi bật phản ánh tâm tưởng của những văn nghệ sĩ dưới chính quyền cộng sản. Mặc dù bài thơ có những câu chứa đựng sự hận thù với chính quyền miền Nam, những câu này đã bị cắt đi (cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí) và chỉ sử dụng những câu mang tính bi quan về xã hội miền Bắc của nhà thơ ở một số câu nhằm mục đích chính trị.[47]

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Hậu thế[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nước[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nhiều nguồn khác nhau, báo chí Việt Nam hậu cải cách đã dẫn lại vụ việc như một sai lầm trong số nhiều vấn đề khác bị làm "thái quá và có những sai sót", nhưng đã được "sửa sai".[126] Xét lại những kết luận trong quá khứ, Thái Kế Toại, công an Hà Nội nắm giữ hồ sơ vụ án, đã tin rằng Nhân Văn – Giai Phẩm không phải là một vụ án gián điệp phản động. Đồng thời, các văn nghệ sĩ, trí thức trong phong trào cũng không có ý muốn "lật đổ chính quyền" mà mong muốn Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ sửa chữa sai lầm và xây dựng nền dân chủ pháp trị và nới lỏng tự do tư tưởng, tự do sáng tác hơn.[3] Một nghiên cứu của Đại học Thái Nguyên (2019) đã nhìn qua phong trào như một cuộc cách tân văn học và xem đây là "thành tựu rất quan trọng của phê bình văn học thời kỳ đổi mới".[138]

Tuy nhiên, trong một thông báo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 4 năm 1991, chính quyền đã xác định rõ quan điểm với hai vụ án gồm Nhân Văn – Giai Phẩm và Xét lại chống đảng là vẫn giữ nguyên và "không thừa nhận sai lầm". Dư luận sau này vẫn tiếp tục kêu gọi nhà nước nên bày tỏ công khai lại vụ việc cùng những sai lầm trong việc xử lý án trên.[3] Trong đám tang của Nguyễn Hữu Đang năm 2007, nhà nước cũng tuyên bố việc ông tham gia vào phòng trào là một "sai lầm".[39] Đa số các quan điểm trong nước đến nay vẫn nhất quán coi phong trào là một vụ án chính trị, đi ngược lại với đường lối đấu tranh thống nhất của chính quyền. Tuy nhiên khi được hỏi chi tiết về sự vụ thì hầu hết sẽ trả lời rằng đó là một vụ án đã qua và không nên nhắc lại.[33][22]

Hải ngoại[sửa | sửa mã nguồn]

Đa số các nguồn hải ngoại đều nhìn nhận phong trào như một vụ án văn học, thuần túy oan sai về văn học được chính quyền miền Bắc tạo ra để đàn áp văn nghệ sĩ.[3] Cũng như miền Nam Việt Nam 1975, cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã coi danh xưng Nhân Văn – Giai Phẩm là một biểu tượng cao đẹp trong giới trí thức, trái ngược với sự buộc tội và lên án của chính quyền miền Bắc trong quá khứ.[2]

Bài phát thanh của Đài Á Châu Tự Do đã dẫn một trường hợp cụ thể đối với nhà thơ Quang Dũng trong phong trào, theo đó nhấn mạnh vào sự nổi bật của bài thơ Tây Tiến của ông suốt từ thời kháng chiến chống Pháp và ngay cả sau Nhân Văn – Giai Phẩm, để chỉ trích chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam với các văn nghệ sĩ độc lập, "không [chịu] uốn cong ngòi bút theo đảng".[139]

Tái công nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Từ cuối năm 1986, hậu Đổi Mới, chính quyền đã có những chính sách nới lỏng hạn chế văn hóa văn nghệ thông qua Nghị quyết số 5 do tướng Trần Độ, nguyên Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, soạn ra.[3] Một trong số những nới lỏng này bao gồm việc phục hồi danh dự cho các nghệ sĩ trong phong trào và in tác phẩm hoặc trưng bày tranh của họ ra công chúng, đưa vào giảng dạy, nghiên cứu.[140][141] Những người từng bị khai trừ khỏi các ban, hội trong chính quyền cũng đã được phục hồi tư cách hội viên.[15][95]

Về tác phẩm, các tác phẩm trước và trong Nhân Văn – Giai Phẩm của các nhà văn, nhà thơ thuộc phong trào đã được tái bản tới công chúng. Các tác phẩm đã được chính quyền nhìn nhận lại về giá trị và di sản, trong đó nhiều trường hợp được xếp vào vị trí đặc biệt trong văn chương Việt Nam.[142] Năm 1987, Hoàng Cầm và Phùng Quán đã trở thành hai cây bút tiên phong trở lại văn đàn.[3] Nhiều tập thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết của những thành viên phong trào sau đó bắt đầu được cho phép xuất bản, trên báo và cả thành sách. Trong số này nổi bật có tập Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm (1994);[133] tập Xem đêm của Phùng Cung (1995), do Nguyễn Hữu Đang và Phùng Quán đứng ra hỗ trợ tiền xuất bản. Về tập Xem đêm, trước đó những bài thơ làm trong thời gian bị kiểm duyệt của Phùng Cung, cùng với Trần Dần, đã xuất hiện trên tạp chí Sông Hương và thành công gây ấn tượng mạnh với độc giả cả nước.[28][143] Tập thơ tiểu thuyết Cổng tỉnh của Trần Dần ngay sau khi được in năm 1994 đã đoạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1995.[89] Nhiều sách tiểu sử, hồi ký của các tác gia; các buổi hội thảo về các nghệ sĩ, trí thức thuộc phong trào cũng dần được tổ chức, trong đó nhiều trường hợp có phần đề cập trực diện vào vụ Nhân Văn – Giai Phẩm.[3][144] Một số nhà xuất bản cũng đã in những bài báo, sáng tác cũ thời Nhân Văn – Giai Phẩm vào tuyển tập sách các nhà văn thuộc phong trào.[112] Các lưu trữ về tài liệu của Phan Khôi trước 1945 cũng được nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân tập hợp lại và in thành nhiều bộ trong nước từ thập niên 1990 và 2010.[125][145][146]

Về tác giả, các văn nghệ sĩ, trí thức trong phong trào đã dần được trả lại những quyền cơ bản như quyền sáng tác, mức lương, nhà ở.[147] Một trường hợp đại diện được đặc biệt quan tâm là Nguyễn Hữu Đang. Kể từ 1989, ông đã trở lại bình thường và nhận lương hưu từ năm 1990. Từ năm 1993, ông được nhà nước cấp một căn hộ nhỏ tại Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội[h] và cư trú tại đây cho tới khi qua đời.[39][148] Tuy vậy, những thay đổi trên phần lớn chỉ diễn ra trong âm thầm mà không công khai.[149] Một số người thì bị che lấp vai trò cũ đi, khi trong các bản tiểu sử hay các dịp kỷ niệm ngày sinh của những nhân vật trong Nhân Văn – Giai Phẩm hầu hết ít ai nhắc lại về quãng thời gian này mà cố ý bỏ qua nó.[52][61][96] Văn Cao chỉ được đa số báo chí Việt Nam ca ngợi vai trò sáng tác âm nhạc của ông, nhưng ít người dám bàn luận về thơ của ông, vốn chủ yếu sáng tác trong giai đoạn cực thịnh của phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm.[96] Các bài viết chỉ trích, bôi nhọ những thành viên phong trào, như với Phan Khôi, không được đưa vào các tuyển tập văn sau này và bị cho vào quên lãng bởi người viết nó.[22]

Một số thành viên chủ chốt của phong trào sau này đã được nhà nước truy tặng các giải thưởng cao quý như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước. Từ năm 2000, triết gia Trần Đức Thảo, cùng với Đặng Văn Ngữ, Cao Xuân Huy, Văn Cao, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng, đã trở thành một trong những người đầu tiên thuộc hội Nhân Văn – Giai Phẩm được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh.[2][3] Năm 2001, Quang Dũng, Trần Huyền Trân, Yến Lan và Phạm Kỳ Nam đã được trao Giải thưởng Nhà nước.[24] Đến ngày 4 tháng 12 năm 2007, ba ngày trước Tết Nguyên Đán, Bộ Văn hoá – Thông tin đã họp báo công bố quyết định của Chủ tịch nước trao năm giải thưởng Hồ Chí Minh và 158 giải thưởng Nhà nước. Trong số đó, có bốn cây bút đứng đầu phong trào là Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán và Lê Đạt. Sự kiện này đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm từ dư luận, nổi bật là trên các báo đài tại hải ngoại.[150][149] Nhiều quan điểm đã nhìn nhận sự kiện này như một lời "xin lỗi một cách không chính thức" của chính quyền trước vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm.[150] Theo lời nhà thơ Lê Đạt, trong bài phỏng vấn với trang VietNamNet, ông cho biết nhà văn Đỗ Chu – thành viên của Hội đồng Giải thưởng chuyên ngành Văn học – đã phát biểu: "Có thể cho đây là lời xin lỗi của anh em đối với các anh". Lê Đạt cũng nhận định rằng đây là "một cử chỉ đẹp tuy muộn nhưng còn hơn không".[151]

Quan điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Góc nhìn chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Ở những người chủ chốt tham gia phong trào, tất cả đều nhất quán với quan điểm phong trào xuất hiện nhằm cải cách hơn là chống đối chính quyền.[152][88][cần dẫn nguồn] Trong một bài phỏng vấn với RFI, Nguyễn Hữu Đang, thành viên trụ cột của Nhân Văn – Giai Phẩm, đã nhận định bản chất phong trào là "một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống – không phải chống Đảng Cộng sản đâu, mà đấy là chống – cái chủ nghĩa Stalin và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông". Sự thâm nhập của hai chủ nghĩa này đã đưa đến tình trạng "cực quyền toàn trị" một cách gay gắt; những khẩu hiệu tuyên truyền "quái gở" về tầng lớp tư sản, địa chủ, chịu ảnh hưởng từ khuynh hướng tả khuynh, theo ông đã góp phần làm chia rẽ dân tộc. Tuy nhiên, vì sự ảnh hưởng từ Liên Xô và Trung Quốc khi ấy quá mạnh nên những luồng tư tưởng cách tân và trung dung đã bị dập tắt, "không có kết quả".[13]

Khi nhìn nhận về phong trào, Thụy Khuê đã xem Nhân Văn – Giai Phẩm như là một cuộc "cách mạng văn hóa toàn diện của các trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc", chống lại sự kìm kẹp của chính quyền sau 1954.[28] Cũng theo bà, vụ việc này đã được lặp lại một lần nữa bởi chính quyền sau 1975, khi các nhà trí thức của chính quyền cũ Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục bị bắt bớ, đem đi học tập cải tạo. Nhà phê bình đã nhận định rằng chính sách "triệt hạ văn nghệ sĩ và trí thức" đã trở thành một trong số các chính sách chung của những nước cộng sản để tạo nên một thế hệ nghệ sĩ hoàn toàn "thuần phục" Đảng.[153]

Tuy nhiên, trái ngược với các cây bút Việt Nam, nhìn nhận lại diễn tiến phong trào, một nghiên cứu của học giả người Mỹ Peter Zinoman (2011) cho rằng tầm vóc và danh tiếng của Nhân Văn – Giai Phẩm đã bị "thổi phồng". Theo đó, ông chỉ ra sự tập trung đa số chỉ vào những tình tiết chống đối kịch tính nhất của các cây bút nghiên cứu trên và lưu ý rằng sự thiếu liên kết với tầng lớp trong quần chúng; truyền thống đối kháng nội bộ yếu ớt và những hạn chế trong tư tưởng và quan điểm với chính quyền đã khiến Nhân Văn – Giai Phẩm không thể bị coi là một phong trào "bất đồng chính kiến". Thay vào đó, nhìn nhận sự vụ trên bình diện quốc tế, với xu hướng chung của khối Quốc tế cộng sản khi đó là cải tổ và xét lại sau cái chết của Stalin, Zinoman đã xem phong trào như một biểu lộ "tương đối nhẹ của một hiện tượng toàn cầu", với những nỗ lực hạn chế của các thành viên trong việc "cứu chủ nghĩa cộng sản Việt Nam bằng cách chuyển hóa nó từ bên trong".[118]

Khác quan điểm với Zinoman, theo tác giả Đặng Tiến (2016) thì quy mô của phong trào không dừng lại ở một "triệu chứng biểu hiện", cũng không phải nằm ở chính những văn nghệ sĩ mà nhìn rộng ra "là cái cớ, cơ hội cho những phe phái cầm quyền tranh chấp và răn đe nhau". Theo đó, ông xem Nhân Văn – Giai Phẩm giống với phông cảnh cho một cuộc tranh chấp quyền lực nội bộ Đảng khoảng 1957, trong giai đoạn quá độ từ nền hành chính tạm hoà hoãn đến một chế độ chuyên chính toàn trị. Cũng theo tác giả, sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm thực chất không phải là một sự "tình cờ" mà là một quy luật tất đến đối với nhà cầm quyền trong quá trình thống nhất tư tưởng đánh vào miền Nam.[2]

Thái Kế Toại (2010) đã quan sát phong trào là một "trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách tân văn học không thành". Theo đó, trong bối cảnh diễn ra phong trào dân chủ, phi Stalin hóa, ông đã xem vụ Nhân Văn – Giai Phẩm là "cuộc cải cách dân chủ lần thứ nhất" ở miền Bắc, nhưng thay vì là các cuộc bạo động giống Đông Âu thì sự đấu tranh lại nằm ở ngôn từ.[3] Nhận định về nguyên do dập tắt phong trào, ông cho rằng sự áp đảo của bộ phận chính trị theo xu hướng tả khuynh, nóng lòng muốn thống nhất đất nước bằng vũ lực, kết hợp với những thành phần từng tham gia tổ chức Cải cách ruộng đất tạo ra nhiều sai lầm, đã cùng chia sẻ một chí hướng đó là lấy nguy cơ dân chủ (Nhân Văn – Giai Phẩm) để biện minh cho đường lối và hậu quả do chính quyền gây ra.[3]

Về người đứng ra lên án, đàn áp phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong những nhân vật đóng vai trò quan trọng nhất và được nhiều người nhắc đến nhất khi dập tắt phong trào là Tố Hữu.[154] Ông được cho là người đã khơi mào làn sóng lên án Giai phẩm mùa Xuân; dựa vào bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần để làm lệnh bắt giam nhà thơ cùng Tử Phác lần thứ hai. Trong bài viết "Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", chính Tố Hữu đã liên hệ vụ phê bình tập Việt Bắc trước đó cùng một số vụ khác làm nguyên cớ để cáo buộc các thành viên phong trào với những từ ngữ như "những tên phản Đảng", hay "những đứa con hư hỏng của Hà Nội cũ" (Trần Dần, Tử Phác).[25]

Nhưng theo một số quan điểm khác nhau, Hồ Chí Minh mới là người chịu trách nhiệm chính cho sự đàn áp của phong trào, dựa trên việc Hồ Chí Minh lúc đó đang kiêm nhiệm cả hai chức vụ: Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.[155] Ban đầu, ông được cho là vẫn còn giữ thái độ thiện chí với Nhân Văn – Giai Phẩm khi phát biểu "không nên dùng dao mổ trâu để giết gà"[i][35] nhưng một thời gian sau đã trở nên quyết liệt hơn.[cần dẫn nguồn] Trong một cuộc phỏng vấn, Lê Đạt đã gián tiếp xác nhận sự tham gia của Hồ Chí Minh trong việc thanh trừng phong trào.[13] Thụy Khuê thì cho rằng Tố Hữu – vốn bị nhiều người coi là nhân vật chính dập tắt Nhân Văn – Giai Phẩm – "chỉ là người thi hành". Bà cho rằng Tố Hữu đơn thuần thực hiện từ chỉ đạo của Trường Chinh, theo yêu cầu của Hồ Chí Minh.[13] Bà kết luận: "Trong chế độ toàn trị những người như ông Mao, ông Hồ không thể nói họ không có trách nhiệm".[156]

Các tài liệu về phong trào[sửa | sửa mã nguồn]

Tại miền Bắc Việt Nam, các tài liệu chính thức về Nhân Văn – Giai Phẩm đều rất bị hạn chế bởi chính quyền. Phần lớn những gì người ta biết được chỉ xuất phát từ một số đầu sách phản đối và lên án phong trào, hoặc là những nhật ký, hồi ký, di cảo của các thành viên tham gia phong trào đã bị cắt xén hay bị sửa lại cho đúng đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.[1][16] Tác phẩm nổi bật nhất nói về sự vụ này có thể kể đến cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (1959) – là một tập sách dài 370 trang, thu thập những bài báo lên án và bài trừ Nhân Văn – Giai Phẩm từ 83 trí thức, người lao động khác nhau.[69] Sớm hơn thì có cuốn Chống quan điểm phi vô sản về văn nghệ và chính trị của bộ đôi nhà phê bình Văn TânNguyễn Hồng Phong (1957), hay sách Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân văn Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ của Tố Hữu, với nội dung là bài báo cáo tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai vào giữa năm 1958.[1]

Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và bên ngoài quốc tế, từ cuối thập niên 1960 đã có một số tác giả tìm hiểu về vụ việc và xuất bản các đầu sách nghiên cứu liên quan. Tại Sài Gòn, nhà khảo cứu Hoàng Văn Chí, em rể của Phan Khôi, đã hoàn thành tập Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (1959), in bởi nhà xuất bản Mặt trận tự do văn hóa. Sách là tập hợp những tư liệu mà ông có được từ người thân ngoài Bắc từ năm 1955, liệt kê các nhân vật trong phong trào nhưng ngoại trừ Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bởi lý do cá nhân. Đến năm 1991, Georges Boudarel – một Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, từng phục vụ Việt Minh – là người thứ hai phát hành sách về vụ việc mang tên Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (tạm dịch: Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam). Sách là tổng hợp của hai bài viết nghiên cứu mà ông từng đăng vào những năm 1988-1989 trên một vài tập san khoa học tại Pháp. Cả hai tiêu đề sách đều lấy cảm hứng từ phong trào Trăm hoa đua nở tại Trung Quốc và đây cũng được xem như những nguồn tư liệu sớm nhất và hoàn chỉnh nhất về phong trào, mặc dù một số hạn chế trong việc tiếp cận thông tin và lập trường chính trị đã được chỉ ra.[1][25] Vào năm 2009, nhà xã hội học người Đức Heinz Schutte đã xuất bản công trình nghiên cứu về phong trào dưới tên Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954- 1960 (tạm dịch: Năm mươi năm sau:Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954- 1960). Trong đó, ông đã khai thác tư liệu từ Sứ quán Đông Đức kết hợp với thực chứng qua đó tiết lộ nhiều thông tin, đánh giá mới về phong trào.[3]

Những năm 1990 trở đi, hàng loạt các thông tin mới về vụ án đã xuất hiện rải rác trong và ngoài Việt Nam, viết dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác thơ,... của các thành viên Nhân Văn – Giai Phẩm, do chính họ xuất bản hoặc do con cháu sưu tầm lại. Các tựa sách đáng chú ý về phong trào này gồm hồi ký tiếng Pháp Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ) của Nguyễn Mạnh Tường – một luật sư từng phải chịu những kỷ luật từ chính quyền miền Bắc Việt Nam. Cuốn sách – là tác phẩm duy nhất được xuất bản ngoài 6 cuốn khác của Nguyễn Mạnh Tường[52] – thuật lại các giai đoạn lịch sử Việt Nam sau giải phóng miền Bắc và hành trình hơn 30 năm của tác giả, kể từ khi ra Bắc năm 1954 đến khi hoàn thành xong bản thảo hồi ký, với những khó khăn phải trải qua vì tham gia vào phong trào. Trong các hồi ký, Mạnh Tường cũng nhắc tới những đồng nghiệp tham gia phong trào và phải chịu sự trừng phạt khác như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu.[1][5] Cuốn tiếp theo có tựa đề Trần Dần ghi 1954 1960, xuất bản tại Mỹ năm 2001. Khác với các tập hồi ký với chủ đích để xuất bản hoặc lưu lại cho con cháu, những trang nhật ký của Trần Dần được viết một cách ngẫu nhiên và tập hợp lại sau nhiều thập kỷ, qua đó phản ánh nhiều thông tin chân thực về diễn tiến phong trào.[95] Trong tập ký này, nhà thơ Trần Dần đã "ghi lại những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ [...] nhưng vô hiệu".[1][20] Từ năm 2003, nhiều di cảo, hồi ký và thơ của Phùng Quán đã được xuất bản trong nước với số lượng đáng kể và được tái bản nhiều lần. Các cuốn Nhớ Phùng Quán, Ba phút sự thật và những tác phẩm khác đã tiết lộ nhiều thông tin quan trọng về thân phận của giới văn nghệ sĩ hậu Nhân Văn – Giai Phẩm, bao gồm Nguyễn Hữu Đang, Tố Hữu, Trần Đức Thảo, Văn Cao,...[157]

Một số nhà khảo cứu văn học hiện đại sau này đã lưu trữ những bài viết liên quan đến phong trào trong nỗ lực nhằm tái hiện lại một góc nhìn chân thực nhất về phong trào một thời. Những người này bao gồm nhà văn Phạm Thị Hoài (chủ trang Talawas), hay nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân, v.v..[1] Từ năm 2006, Đài Á Châu Tự Do đã đăng tải loạt bài 10 kỳ về phong trào của Nguyễn An, trong đó phỏng vấn nhiều cựu chính khách, trí thức khác nhau như Nguyễn Minh Cần, Trần Gia Phụng,... Đây là một trong nhũng loạt bài nghiên cứu sớm nhất xuất hiện trên mạng.[30] Năm 2010, nhà thơ Lê Hoài Nguyên (tên thật Thái Kế Toại), đại tá công an đặc trách hồ sơ vụ Nhân Văn – Giai Phẩm,[148] đã trở thành người trong cuộc đầu tiên của ngành lên bài viết nhận định về vụ án với tiêu đề "Vụ Nhân Văn - Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành". Bài viết được đăng trên trang web của nhà báo Nguyễn Trọng Tạo lần đầu vào tháng 8 năm 2010[61] và sau đó đã đăng lại lên website của Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ.[3] Ở phía báo chí Việt Nam, từng có một loạt bài dài 30 kỳ viết về Nguyễn Hữu Đang được đăng trên báo Dân sinh vào năm 2015, mang tựa "Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng". Loạt bài, trích từ tập sách Người đeo lục lạc (chưa xuất bản) của nhà văn Võ Bá Cường, khai thác theo hướng tường thuật tiểu sử, ghi nhận ông với nhiều vai trò mà đáng chú ý là cuộc sống của Hữu Đang hậu Nhân Văn - Giai Phẩm. Tuy nhiên không lâu sau khi đăng tải, toàn bộ các kỳ báo này đã bị gỡ bỏ.[158] Tờ Dân sinh đã bị đình bản và chủ nhiệm báo phải chịu kỷ luật. Tuy nhiên, các chương truyện đầy đủ của Người đeo lục lạc vẫn được đăng tải trên trang web Văn Đoàn Việt của Hội Văn Đoàn Độc lập.[8]

Thụy Khuê với Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ 'phải biết' Nhân Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai 'nghe nói' đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa trong ký ức quần chúng, và như vậy, 'nọc độc' Nhân Văn đã hoàn toàn bị tẩy sạch.
Ðó là lý do chính khiến vài năm sau, khi thực sự bước vào nghề cầm bút, tôi đã coi Nhân Văn Giai Phẩm là một trong những nghi vấn văn học hàng đầu, cần phải tìm hiểu.

Thụy Khuê, viết trong lời đề tựa cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc.

Từ tháng 4 năm 1988, tác giả Thụy Khuê bắt đầu tham gia tìm hiểu phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm. Các nghiên cứu của bà từng xuất hiện trên nhiều báo đài hải ngoại, nổi bật là Đài phát thanh quốc tế Pháp (RFI), suốt hàng thập kỷ.[156] Trong quá trình biên soạn sách, Thụy Khuê đã chịu ảnh hưởng lớn từ cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí. Không dừng lại ở tra tìm các sử liệu cũ, bà cũng tìm cách liên hệ với các nhân vật chủ chốt trong Nhân Văn – Giai Phẩm: Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao và Trần Duy để thực hiện các cuộc phỏng vấn, trải dài từ 1995 đến 2008. Dù Thụy Khuê đã bị chính quyền Việt Nam cấm nhập cảnh, hầu hết những nhân vật được mời phỏng vấn đã đồng ý tham gia và tiết lộ nhiều thông tin mới quan trọng dưới nhiều hình thức như nói chuyện điện thoại hoặc bay sang Pháp để thảo luận riêng.[159] Trong một số trường hợp, các cuộc phỏng vấn qua điện thoại này đã cố tình bị gây trở ngại và có lúc bị ngắt đột ngột giữa chừng.[1][39] Tháng 5 năm 2009, bà đăng một chuyên luận nhiều kỳ với tổng cộng 17 phần,[55] kéo dài trong 2 năm nói về phong trào. Năm 2012, phần lớn số bài đăng trên đã được đưa vào cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, xuất bản bởi Tiếng Quê Hương tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.[156] Trong các bài viết này, bên cạnh việc tập trung phân tích bản chất của phong trào bà cũng liên hệ những "giả mạo lịch sử" trong lý lịch của Hồ Chí Minh thời còn ở Pháp, so với những gì đã được công bố trong tập Hồ Chí Minh toàn tập và nhiều tư liệu khác của chính quyền Việt Nam.[160][156]

Cuốn sách đã có buổi ra mắt tại Washington, Mỹ vào ngày 19 tháng 5 năm 2012. Với độ dài 976 trang, tác phẩm sau khi phát hành đã ngay lập tức gây được dư luận sôi nổi ở cả trong Việt Nam lẫn người Việt hải ngoại. Bên ngoài Việt Nam, cuốn sách đã được khen ngợi như là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống và đồ sộ nhất nói về vụ án,[156][161] và cho đến nhiều năm sau vẫn được trích dẫn lại như một nguồn uy tín về vụ việc. Trong khi đó, báo chí Việt Nam đã đồng loạt lên bài phê phán Thụy Khuê và chất lượng khảo cứu của cuốn sách. Đặc biệt, những chương phụ lục của bà về Nguyễn Ái Quốc đã trở thành trung tâm của vô số lời cáo buộc, chỉ trích.[162] Báo Công an nhân dân cá biệt đăng tải một loạt bài dài kỳ, chỉ ra những nhận định bị cho là nhầm lẫn của tác giả về các nhân vật trong Nhân Văn – Giai Phẩm như Hoàng Cầm, Tố Hữu, Thụy An, Văn Cao,...[163][164] Bản in của sách cũng không được phép lưu hành tại Việt Nam và đã bị liệt vào loại sách phản động, chống phá chính quyền.[165]

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Bước vào giai đoạn Đổi Mới cũng như Cởi Mở trong văn học, hơn 30 năm kể từ Nhân Văn – Giai Phẩm, phong trào đã được đề cập trở lại như là tiền đề cho quá trình mở rộng dân chủ trong xã hội Việt Nam nói chung và lĩnh vực văn nghệ nói riêng.[25] Đề cập đến phong trào, Boudarel (1991) nhận định thực tế từ Đổi Mới đã cho thấy rằng "tất cả những vấn đề cơ bản [của Văn học Việt Nam] đều quy về những năm 1955-1956".[25] Thụy Khuê (2009) cũng chia sẻ cùng quan điểm, nhìn nhận rằng sự dập tắt của chính quyền miền Bắc đối với phong trào mang tính "mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, [...] công cuộc đổi mới văn học, tinh thần" này không hề chấm dứt mà chỉ "ngủ đông" cho đến những năm trước thềm Đổi Mới mới "bùng phát" trở lại".[25] Ở góc độ phê bình văn học, các học giả đều nhất trí nhận định những bài đấu tố trong Nhân Văn – Giai Phẩm và sự vụ khác đều là những ví dụ tiêu biểu cho lối phê bình "kiểm dịch" hay "chỉ điểm", tức là vạch ra một số ý hiểu nhỏ trong đại thể tác phẩm để quy chụp và đàn áp người sáng tác tác phẩm. Điều này vẫn tiếp diễn ở những trường hợp tương tự trong các giai đoạn sau này.[3][166][167][138]

Ở phương diện nghệ thuật, các tác phẩm thơ và văn xuôi trong phong trào được ghi nhận như những thể nghiệm mới của các văn nghệ sĩ muốn tạo ra sự chuyển biến về hình thức sáng tạo. Nhìn chung, theo Thái Kế Toại, họ đã có ý thức "làm mới một nền văn học đã bị xơ cứng vì chủ trương phục vụ tuyên truyền, vì bị lãnh đạo quan liệu gò ép mệnh lệnh" trong những năm kháng chiến. Thể loại thơ tự do đã được phát triển và mở rộng; những thể nghiệm như lối thơ bậc thang của Mayakovsky cũng được áp dụng. Văn học không còn dừng lại ở lối văn tả thực, tường thuật đơn giản mà đã bắt đầu lồng ghép những hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc mà ít có trong văn học kháng chiến nhằm phê phán lãnh đạo đương thời. Tuy những nỗ lực trên chưa tạo được ấn tượng sâu rộng trong thời gian ngắn ngủi nhưng nhiều thành viên phong trào vẫn tiếp tục theo đuổi đường lối của mình. Sau này, các nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm đã được công nhận là những nhà cách tân thành công thơ hiện đại Việt Nam.[3] Tư tưởng và cống hiến của Phan Khôi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu, phê bình, lý luận cũng được xem là đi trước thời đại.[168]

Trong thời gian đầu của chương trình Đổi Mới, tuần báo Văn nghệ do Nguyên Ngọc chủ nhiệm đã được tạo điều kiện để xuất bản các tác phẩm trái chiều như bút ký Cái đêm hôm ấy... đêm gì? của Phùng Gia Lộc, Thủ tục làm người còn sống của Minh Chuyên; truyện ngắn "Người đàn bà quỳ" của Lê Văn Ba, v.v..[169] Dù nhà văn Nguyên Ngọc đã phải chịu nhiều bắt bớ từ phe bảo thủ, song nhiều báo chí khắp nơi khi đó vẫn viết bài ủng hộ tờ báo nói riêng và khuyến khích tự do báo chí nói chung. Nhà thơ Hữu Loan đã xem sự ra đời của tờ Văn nghệ như một sự tiếp nối cho những gì mà báo Nhân Văn đã làm trong quá khứ.[33]

Sau Đổi Mới, đã tiếp tục nổi lên một số hội nhóm, xu hướng bộc phát liên quan đến đấu tranh chính trị trong văn nghệ, báo chí. Năm 2000, nhóm thơ Mở Miệng gồm Lý Đợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán và Bùi Chát đã chính thức được lập ra với việc sáng tác các bài thơ bị chính quyền cáo buộc là phản động, bôi nhọ lãnh tụ. Đến năm 2013, nhóm lại một lần nữa được biết đến qua vụ cấm luận văn của Nhã Thuyên viết về Mở Miệng. Bình luận về nhóm, một số ý kiến đã cho rằng đây là một "Nhân Văn Giai Phẩm thứ hai".[170][167] 50 năm sau Nhân Văn – Giai Phẩm, vào năm 2006, các ý kiến độc lập, bày tỏ quan điểm về dân chủ và chính quyền của các nhà tri thức như Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trung đã đồng loạt xuất hiện trên các tờ báo chính thống ở Việt Nam trong một thời gian ngắn, đặt ra mối dây liên hệ với diễn biến trong phong trào cũ.[98][171] Từ năm 2014, hội Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam do nhà văn Nguyên Ngọc chủ động thành lập đã đi vào hoạt động. Hội ban đầu bao gồm 62 thành viên là các văn nghệ sĩ, trí thức thuộc chính quyền hoặc đấu tranh dân chủ trong nước.[172] Sau khi ra đời, hội đã bị chính quyền nhắm đến để tập trung phê phán và tác động gián tiếp khiến nhiều thành viên phải rút lui.[173] Những người còn lại, vì vai trò trong Văn Đoàn Độc Lập mà sau này đã bị gạch tên khỏi các hội đoàn nghệ thuật, bị đề nghị loại bỏ tác phẩm trong sách giáo khoa, v.v..[34][174]

Mặc dù đã có nhiều phong trào về văn hóa và dân chủ nổi lên, song tình trạng dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam qua nhiều giai đoạn vẫn không thay đổi đáng kể, khi các vụ bắt giữ tù nhân lương tâm, trấn áp quan điểm trái chiều về dân quyền và nhân quyền,... đã dẫn tới những hạn chế về mặt tự do ngôn luận và dân chủ trong xã hội, tuy không còn toàn diện như trước.[124][30] Ứng xử của chính quyền đối với giới nghệ sĩ và báo chí cũng bị cho là không thay đổi đáng kể sau phong trào.[175][176][141] Như một số vụ việc liên quan tới vấn đề văn hóa sau này đã tiếp tục bị gọi là "Nhân Văn Giai Phẩm thứ hai"', như vụ Nhã Thuyên, sự kiện Văn Đoàn Độc Lập.[34] Năm 2008, đã nổ ra vụ tranh luận sôi nổi xung quanh việc phát hành tập Trần Dần – Thơ. Thời điểm tập thơ mới phát hành, chính quyền đã có động thái cho dừng xuất bản và ngăn chặn việc bày bán sách công khai trên thị trường. Sau đó, 134 giáo sư, trí thức đã đồng loạt lên tiếng yêu cầu thu hồi quyết định ngừng phát hành tập thơ và viết thư ngỏ tới quốc hội cùng chính phủ Việt Nam. Sức ép từ dư luận đã thành công giúp tập thơ lưu hành trở lại nhưng nhà xuất bản sau đó phải chịu lệnh đình chỉ hoạt động suốt ba tháng.[177] Đến năm 2023, 31 bức tranh gò đồng, trong đó chứa chân dung các thành viên chủ chốt phong trào, của họa sĩ Phạm Xuân Trường đã bị Sở Văn hóa – Thông tin Hà Nội cấm trưng bày tại một triển lãm ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Sự kiện này đã dấy lên nhiều ý kiến chỉ trích vì cách xử lý "quan liêu", "cảm tính" của lãnh đạo sở và yêu cầu một lời giải thích thỏa đáng. Về phía chính quyền, không một lý do chính thức đã được đưa ra.[178][179][180]

Do những lý do khác nhau, những cái tên của phong trào như Tử Phác, Thụy An, Lê Nguyên Chí... đến nay vẫn chưa được phục hồi danh dự gần như ở bất cứ khía cạnh nào bởi chính quyền.[67][28] Đáng chú ý là trường hợp của Thụy An, khi tính đến năm 2011, bà vẫn bị báo chí trong nước xem như là một gián điệp.[163] Theo nhà thơ Lê Hoài Nguyên (Thái Kế Toại), cho tới những năm thập niên 2010, vẫn chưa có một cơ quan nghiên cứu nào hay nhà nghiên cứu nào thuộc chính quyền thực sự bắt tay vào nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầy đủ về phong trào. Tính tới đầu thế kỷ 21, Nhân Văn – Giai Phẩm vẫn bị xem là một chủ đề nhạy cảm trong xã hội Việt Nam.[3][181]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cụ thể, Lê Đạt đã thuật lại sự vụ như sau: "Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ "bộ mặt phản động của Lê Đạt và khuyên cô cắt đứt với tôi [...] Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. [...] Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được".
  2. ^ "Nhà văn dấn thân" hay "Văn học dấn thân" nói chung (tiếng Pháp: littérature engagée) là một khái niệm dùng để chỉ những tác giả có xu hướng tiếp cận các đề tài về chính trị, xã hội để khẳng định hoặc bảo vệ một quan điểm của họ. Thuật ngữ này đã phổ biến ở Pháp từ thế kỷ 20.
  3. ^ Trong số các thành viên theo Trần Dần, có: Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, Lê Đạt, Vũ Tú Nam, Từ Bích Hoàng, Đỗ Nhuận.[20]
  4. ^ Trần Dần cũng có viết bài phê phán tập thơ nhưng không được đăng. Trong đó, ông đã chê tập thơ của Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour – tí ti căm thù, tí ti tình yêu". Toàn bộ bài viết được in trong cuốn Trần Dần ghi, xuất bản năm 2001.[90][89]
  5. ^ Tiến trình của các cuộc biểu tình, bạo động diễn ra như sau: Biểu tình Tbilisi 1956 (tháng 3 năm 1956), Cuộc nổi dậy Posener ở Ba Lan (tháng 6 năm 1956), Cuộc bạo động ở Hungary (tháng 10 đến tháng 11 năm 1956).
  6. ^ Về cáo buộc trốn vào Nam, theo lời Lê Đạt, công an đã bắt được một lá thư do Nguyễn Hữu Đang soạn và nhờ đưa thư đến nhà người quen ở Hải Phòng, yêu cầu sắp xếp cho ông vào Nam.
  7. ^ Cụ thể, theo Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, ông bị công an đến tận nhà bắt đi vào tháng 5 năm 1961. Nhưng theo Nguyễn Hữu Hiệu, bạn của Phùng Cung, thì đó là ngày "19 tháng Chạp năm Canh Tý", hay ngày 4 tháng 2 năm 1961.[28]
  8. ^ Có nguồn ghi căn hộ của ông ở quận Ba Đình, tại khu tập thể của Hội Sân khấu.[8]
  9. ^ Nhưng theo nhà thơ Trần Dần, ông cho rằng Trường Xuân, người duy nhất thuật lại ý kiến này của Hồ Chí Minh, chỉ đang "bịa tin" nhằm thuyết phục các văn nghệ sĩ duy trì hoạt động tờ Nhân Văn.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Thụy Khuê (12 tháng 5 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm Phần I : Tìm hiểu phong trào”. RFI. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  2. ^ a b c d e f g h i j k Đặng Tiến (5 tháng 4 năm 2007). “1956- 2016: Kỉ niệm 60 năm Giai Phẩm, Nhân Văn”. Talawas. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av Thái Kế Toại (2 tháng 12 năm 2020). “Nhân văn Giai phẩm – một trào lưu dân chủ, một cuộc cách tân văn học không thành”. Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ. Đại học Oregon. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2024.
  4. ^ a b Thụy Khuê (5 tháng 9 năm 2010). “Phần XV: Phan Khôi - Chương 1a : Những phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX”. RFI. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2023.
  5. ^ a b c d e f g h i j Thụy Khuê (14 tháng 10 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần VI : Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX, một truyền thống đấu tranh từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm. (Bài 1)”. RFI. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2023.
  6. ^ Nguyễn Thị Thanh 2019, tr. 33.
  7. ^ Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm & Lê Mậu Hãn 2005, tr. 602.
  8. ^ a b c d e f g h i j k l m n o Thái Kế Toại (11 tháng 5 năm 2021). “Nguyễn Hữu Đang – Thủ lĩnh một cuộc cách mạng”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2024.
  9. ^ “Toàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập”. VietNamNet. 2 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2023.
  10. ^ a b c Kính Hòa (8 tháng 8 năm 2017). “Những nhân sĩ trí thức theo đảng cộng sản sau cách mạng tháng Tám”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2023.
  11. ^ a b Nguyễn An (15 tháng 9 năm 2006). “Phỏng vấn ông Trần Gia Phụng về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 2)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2023.
  12. ^ Nguyễn An (16 tháng 9 năm 2006). “Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2023.
  13. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Thụy Khuê (21 tháng 7 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần IV : Nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng”. RFI. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
  14. ^ a b c d e f g Thụy Khuê (5 tháng 12 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần VI : Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX, một truyền thống đấu tranh từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm. (bài 2)”. RFI. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2023.
  15. ^ a b “Phần hai cuộc trò chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm”. BBC Tiếng Việt. 26 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  16. ^ a b c d e Thụy Khuê (11 tháng 4 năm 2010). “Nhân Văn Giai Phẩm - phần XIII : Văn Cao”. RFI. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2023.
  17. ^ a b c d e f g h i j k l m n Thụy Khuê (2 tháng 3 năm 2010). “Nhân Văn Giai Phẩm phần XII : Hoàng Cầm”. RFI. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2023.
  18. ^ Đỗ Lai Thúy (28 tháng 11 năm 2021). “Quang Dũng từ nhân cách đến thi cách”. Tạp chí Người Đô Thị. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2023.
  19. ^ a b c Đặng Văn Sinh (26 tháng 8 năm 2015). “Tình người soi dặm đường, bi kịch của một nhà thơ không chịu… đánh mất mình”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
  20. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Thụy Khuê (27 tháng 1 năm 2010). “Nhân Văn Giai Phẩm phần XI : Trần Dần”. RFI. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2023.
  21. ^ “Tưởng nhớ thi sĩ Hữu Loan”. BBC Tiếng Việt. 20 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2023.
  22. ^ a b c d e f g h i Thái Kế Toại (20 tháng 4 năm 2020). “Phan Khôi trong bối cảnh văn học từ thời chiến sang thời bình 1954-1958”. Tạp chí nghiên cứu Việt Mỹ. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
  23. ^ a b c d e Nguyễn Hưng Quốc (6 tháng 4 năm 2011). “Vài nét về nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm”. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  24. ^ a b Thái Kế Toại (7 tháng 8 năm 2021). “Niên biểu Hữu Loan”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2024.
  25. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak Thụy Khuê (1 tháng 6 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần II : Nguyên nhân phát xuất”. RFI. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  26. ^ a b Phạm Tường Vân (6 tháng 5 năm 2008). “Nghe Lê Đạt kể chuyện mình”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2023.
  27. ^ a b c d e Nguyễn Hưng Quốc (7 tháng 4 năm 2011). “Nội dung tranh đấu của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm”. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  28. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v Thụy Khuê (5 tháng 6 năm 2010). “Phần XIV: Phùng Cung - Chương 1: Tại sao Phùng Cung bị bắt, bị biệt giam không có án?”. RFI. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2023.
  29. ^ a b c d e f g h Phan An Sa (5 tháng 5 năm 2021). “Tản mạn người xưa chuyện xưa”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2024.
  30. ^ a b c d e f g Nguyễn An (15 tháng 9 năm 2006). “Mở lại hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2023.
  31. ^ Lê Nam (22 tháng 12 năm 2017). “Sai, Nguyễn Bính từng làm chủ bút báo Trăm hoa”. VnExpress. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  32. ^ a b Thụy Khuê (19 tháng 3 năm 2010). “Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài "Mầu tím hoa sim" đã qua đời”. RFI. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2023.
  33. ^ a b c d e f Bùi Minh Quốc (31 tháng 12 năm 2021). “Lục chồng tài liệu cũ: Nhà thơ Hữu Loan nói về vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  34. ^ a b c d e f Nam Dao (22 tháng 5 năm 2015). “Từ Nhân Văn-Giai Phẩm đến Văn Đoàn Độc Lập”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  35. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Thụy Khuê (16 tháng 8 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần V : Nội bộ báo Nhân Văn”. RFI. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2023.
  36. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa Thụy Khuê (4 tháng 10 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần VII : Biện pháp thanh trừng”. RFI. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  37. ^ a b c d e Thụy Khuê (12 tháng 9 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần X : Lê Đạt”. RFI. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2023.
  38. ^ Việt Hùng (14 tháng 2 năm 2007). “Nhà thơ Hoàng Cầm nói về sự ra đi của ông Nguyễn Hữu Đang”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  39. ^ a b c d e f g h Thụy Khuê (24 tháng 11 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần IX : Nguyễn Hữu Đang”. RFI. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2023.
  40. ^ “Vĩnh biệt trụ cột Nhân văn giai phẩm”. BBC Tiếng Việt. 15 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
  41. ^ a b Phạm Tường Vân (6 tháng 5 năm 2008). “Lê Đạt kể về đời thơ và tình vợ”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2023.
  42. ^ a b c d Đặng Tiến. “Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
  43. ^ Nguyên Vũ (16 tháng 7 năm 2005). "Kiều Loan" của thi sĩ Hoàng Cầm”. Thanh Niên. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2023.
  44. ^ Luư Khánh Thơ (9 tháng 5 năm 2011). “Hoàng Cầm với vở kịch thơ đầu tiên”. Công an nhân dân. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2023.
  45. ^ Ngọc Lan (21 tháng 2 năm 2022). “100 năm Ngày sinh nhà thơ Hoàng Cầm: Hồn thơ đẹp của xứ Kinh Bắc”. Thể thao & Văn hóa. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2023.
  46. ^ Nguyễn Xuân Hoàng (8 tháng 5 năm 2010). “Chia tay thi sĩ 'Lá Diêu Bông'. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  47. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Thụy Khuê (29 tháng 6 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần III : Giai phẩm mùa xuân”. RFI. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2023.
  48. ^ a b c Nguyễn An (16 tháng 9 năm 2006). “Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp về diễn tiến của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (phần 4)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2023.
  49. ^ “Một số bài thơ của Lê Đạt”. BBC Tiếng Việt. 23 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2023.
  50. ^ P.V (25 tháng 12 năm 2019). “Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố GS.TS Nguyễn Mạnh Tường”. Đại học Quốc gia Hà Nội. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  51. ^ Trần Hinh (9 tháng 8 năm 2015). “Ông thầy của hai bằng tiến sĩ”. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  52. ^ a b c d e Thụy Khuê (15 tháng 7 năm 2011). “Phần XVII : Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) - Bài 1: Giai đoạn trước 1954”. RFI. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  53. ^ Lệ Nguyễn (27 tháng 8 năm 2023). “Ai là tiến sĩ lưỡng khoa trẻ nhất hai nước Việt - Pháp?”. VnExpress. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  54. ^ a b Nguyễn Văn Hoàn (tháng 10 năm 2009). “Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường”. Hồn Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  55. ^ a b c Thụy Khuê (19 tháng 7 năm 2011). “Phần XVII : Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) - Bài 2: Từ 1954 đến 1997”. RFI. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  56. ^ “Trần Đức Thảo "Người Việt Nam duy nhất được coi là triết gia". VUSTA. 19 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  57. ^ “Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Cố Giáo sư Trần Đức Thảo”. Khoa Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. 31 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  58. ^ Hạ Anh (8 tháng 5 năm 2013). 'Món nợ' với giáo sư Trần Đức Thảo”. VietNamNet. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  59. ^ Thụy Khuê (7 tháng 1 năm 2011). “Phụ lục : Vì sao Phan Châu Trinh phó thác "đại sự" cho Phan Khôi ?”. RFI. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2023.
  60. ^ Phạm Thanh 1959, tr. 117-122.
  61. ^ a b c d e f g h Thụy Khuê (26 tháng 2 năm 2011). “Phần XVI : Phan Khôi - Bài 1: Phan Khôi và sự chôn vùi Phan Khôi”. RFI. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
  62. ^ Phạm Thanh 1959, tr. 116-117, 125-131.
  63. ^ Thụy Khuê (17 tháng 5 năm 2011). “Phần XVI: Phan Khôi - Bài 3: Con đường văn hóa”. RFI. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2023.
  64. ^ a b Thái Kế Toại (14 tháng 6 năm 2023). “103 năm ngày sinh họa sỹ Trần Duy”. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2024.
  65. ^ a b “Trăm năm Văn Cao – công thần hay nạn nhân của chế độ?”. VOA Tiếng Việt. 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2024.
  66. ^ a b Nguyễn An (19 tháng 9 năm 2006). “Vai trò của nhạc sĩ Văn Cao trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 9)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2023.
  67. ^ a b c d e Thụy Khuê (1 tháng 11 năm 2009). “Nhân Văn Giai Phẩm phần VIII : Thụy An”. RFI. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
  68. ^ a b c d e f g h Thái Kế Toại (8 tháng 5 năm 2018). “Trần Thịnh và hai số báo Sáng tạo 1956”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2024.
  69. ^ a b Nguyễn An (18 tháng 9 năm 2006). “Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 8)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  70. ^ Thanh Thanh (29 tháng 6 năm 2012). “Thơ Phùng Cung: Xem đêm, xem số phận”. Báo điện tử VOV. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2024.
  71. ^ Thụy Khuê (27 tháng 6 năm 2010). “Phần XIV: Phùng Cung - Chương 3: Đường Lâm thi chí, một nền thơ chống chiến tranh và tù ngục”. RFI. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023.
  72. ^ a b Thụy Khuê (17 tháng 6 năm 2010). “Phần XIV: Phùng Cung - Chương 2: Mộ phách - Mồ chôn văn hóa”. RFI. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023.
  73. ^ Xem các nguồn:
  74. ^ a b c Lại Nguyên Ân (4 tháng 5 năm 2023). “Hội Văn hóa Việt Nam (1948 - 1950) và Hội Văn nghệ Việt Nam (1948 - 1957)”. ArtTimes. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.
  75. ^ Phùng Quán 2014, tr. 14.
  76. ^ a b Thái Kế Toại (10 tháng 12 năm 2023). “Mấy mẩu chuyện về Phùng Quán (kỳ 1)”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.
  77. ^ a b Thái Kế Toại (11 tháng 12 năm 2023). “Mấy mẩu chuyện về Phùng Quán (kỳ 2)”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.
  78. ^ a b Ngô Minh Thuyên (15 tháng 4 năm 2023). “Từ "rượu chịu, văn chui" đến Quỹ Phùng Quán”. Báo Đà Nẵng. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.
  79. ^ a b c d e f “Tư liệu "Nhân văn Giai phẩm" – Báo cáo của Chánh án Nguyễn Văn Dương năm 1960”. Đại học Oregon. 25 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.
  80. ^ a b c Phan Hoàng (24 tháng 9 năm 2016). “Chuyện đời và nghề của bậc tài hoa Kim Lân”. Báo Đà Nẵng. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2024.
  81. ^ a b Quốc Phong (4 tháng 12 năm 2017). “Những điều ít biết về thầy tôi - nhà thơ Thúc Hà”. Đại Đoàn Kết. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2024.
  82. ^ “Đầu Xuân nói chuyện về thi sỹ Đặng Đình Hưng và 'Một Bến Lạ'. BBC Tiếng Việt. 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  83. ^ “Nhà văn Bùi Hiển bây giờ”. Báo Văn nghệ. 11 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2024.
  84. ^ Huỳnh Phan (4 tháng 11 năm 2020). “Nghệ sĩ guitar Cao Xuân Minh - một hình ảnh khác của GS Cao Xuân Huy”. VietTimes. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2024.
  85. ^ Nhật Tuấn (29 tháng 2 năm 2012). “Con chim chỉ được hót trong đêm”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
  86. ^ a b Lại Nguyên Ân (2014). “Đời sống văn nghệ ở miền Bắc Việt Nam qua báo chí đương thời”. lainguyenan.free.fr. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2024.
  87. ^ Cánh Cò (4 tháng 12 năm 2018). “Tố Hữu, người ta đang bỉ bôi ông ấy”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2023.
  88. ^ a b c d e f Thái Kế Toại (3 tháng 2 năm 2024). “Lê Đạt”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2024.
  89. ^ a b c d e f Thái Kế Toại (23 tháng 1 năm 2024). “Trần Dần ở giữa ngã tư (1)”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2024.
  90. ^ Trần Dần (tháng 5 năm 1955). “Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu”. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2023 – qua Lại Nguyên Ân.
  91. ^ a b c Hoàng Cầm; Hoàng Hưng (24 tháng 2 năm 2015). “Giai phẩm Mùa Xuân ra đời như thế nào?”. Talawas. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
  92. ^ Lê Thiếu Nhơn (23 tháng 9 năm 2020). “TRẦN THIẾU BẢO và những oan khuất cùng Nhân Văn - Giai Phẩm”. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  93. ^ Lương Duy Cán (25 tháng 12 năm 2023). “Mọi chuyện bắt đầu từ một bài thơ của Trần Dần”. Hội Nhà Văn Việt Nam. Ngày Nay. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2024.
  94. ^ “Bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần”. Tuổi Trẻ. 10 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2023.
  95. ^ a b c d Thái Kế Toại (25 tháng 1 năm 2024). “Trần Dần ở giữa ngã tư (3)”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2024.
  96. ^ a b c d Thái Kế Toại (8 tháng 11 năm 2023). “Văn Cao – bất tử của sự cô đơn”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2024.
  97. ^ a b Lục Định Nhất (16 tháng 8 năm 1956). “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Văn nghệ (134): 3 – qua Talawas.
  98. ^ a b c “1956 và 2006: Những điều trùng hợp”. BBC Tiếng Việt. 21 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2023.
  99. ^ Nguyễn An (16 tháng 9 năm 2006). “Giai Phẩm Mùa Thu ra đời với những bài vở nặng về chính trị hơn (phần 5)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2023.
  100. ^ “Cũng những thằng nịnh hót”. Bảo tàng Văn học Việt Nam. 6 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2023.
  101. ^ Thái Vũ (27 tháng 6 năm 2023). “Triết gia Trần Đức Thảo - nước đại dương kết giọt chốn không bờ”. Nông nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  102. ^ Kiều Mai Sơn (11 tháng 12 năm 2023). “Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường: Nhà biện lý đáng gờm”. Công an nhân dân. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  103. ^ Nguyễn Mạnh Tường (30 tháng 10 năm 1956). “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất - Xây dựng quan điểm lãnh đạo” – qua Talawas.
  104. ^ “Sắc lệnh số 282/SL của Chủ Tịch nước: Sắc lệnh quy định chế độ báo chí”. 14 tháng 12 năm 1956. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2023 – qua Cổng thông tin điện tử chính phủ.
  105. ^ Tất Bình (9 tháng 12 năm 2022). “Ngày này năm xưa 9/12: Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về báo chí”. Báo Công Thương. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.
  106. ^ Nguyễn An (18 tháng 9 năm 2006). “Những nhân vật trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (phần 7)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  107. ^ a b c Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm & Lê Mậu Hãn 2005, tr. 969.
  108. ^ a b c d e Nguyễn An (17 tháng 9 năm 2006). “Sắc lệnh Báo chí bóp chết các tờ Trăm Hoa, Giai Phẩm, và Đất Mới không kèn không trống (phần 6)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2023.
  109. ^ a b c d e Lại Nguyên Ân (15 tháng 5 năm 2017). “Tuần báo Văn (1957-1958)”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023 – qua Văn Đoàn Việt.
  110. ^ a b c d Nguyễn Hưng Quốc (12 tháng 4 năm 2011). “Ảnh hưởng của Nhân Văn - Giai Phẩm”. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  111. ^ Phạm Thanh 1959, tr. 146-156.
  112. ^ a b c d e Thái Kế Toại (2 tháng 2 năm 2024). “Phùng Cung – Người xem đêm”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2024.
  113. ^ Thanh Quang (27 tháng 9 năm 2011). “Sự tàn bạo trong quá khứ qua mắt bloggers”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  114. ^ Lại Nguyên Ân (22 tháng 5 năm 2023). “Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam Việt Nam”. ArtTimes. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  115. ^ Trần Vũ (27 tháng 11 năm 2016). “Phỏng vấn Xuân Bính Thân 1-2-3-4”. Trẻ Magazine. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2023 – qua Văn Đoàn Việt. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  116. ^ Nguyễn Huy Thắng (4 tháng 11 năm 2007). “Chuyện ít biết về cha tôi - nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và bác Nguyễn Tuân”. Tiền phong. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  117. ^ H.Đ (16 tháng 1 năm 2022). “Nhà văn - bác sĩ Phạm Ngọc Khuê: Bước chân người lính Tây Tiến năm xưa”. Văn nghệ Quân đội. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2023.
  118. ^ a b Lê Quỳnh (2 tháng 9 năm 2011). “Một đánh giá mới về Nhân Văn - Giai Phẩm”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
  119. ^ a b Nguyễn An (20 tháng 9 năm 2006). “Nhận định của những nhà nghiên cứu về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 10)”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2023.
  120. ^ a b “Chủ nghĩa hiện thực phải đạo”. Đài Á Châu Tự Do. 27 tháng 2 năm 2000. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2023.
  121. ^ a b Grossheim 2013, tr. 91.
  122. ^ Nguyễn Hưng Quốc (6 tháng 8 năm 2015). “Truyền thông dưới các chế độ độc tài”. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  123. ^ Đào Phương Liên (16 tháng 4 năm 2009). “Bố ơi, những câu chuyện của con...”. Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2023.
  124. ^ a b Việt Hùng (15 tháng 3 năm 2011). “Hữu Loan, một nhân cách "vuông chành chạnh"”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2023.
  125. ^ a b Phan An Sa (25 tháng 12 năm 2020). “60 năm ngày nhà báo Phan Khôi qua đời (1959-2019): Tác phẩm Phan Khôi, nhìn từ việc sưu tầm tái công bố đến việc xuất bản di cảo (1)”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2024.
  126. ^ a b “Quang Dũng và những bài thơ bị đốt”. Báo Văn nghệ. 30 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2023.
  127. ^ Nhiều tác giả 2019, tr. 60.
  128. ^ Mai An Nguyễn Anh Tuấn (17 tháng 4 năm 2016). “Nhân kỷ niệm 60 năm phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm: Đi tìm dịch giả Trần Dần”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2024.
  129. ^ Thúy Toàn (25 tháng 4 năm 2012). “Đi tìm dịch giả của bộ tiểu thuyết "Jăc Vantrax". Công an nhân dân. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2024.
  130. ^ Phùng Quán 2014, tr. 265.
  131. ^ VietTuSaiGon (5 tháng 10 năm 2022). “Cấm, kiểm duyệt và tác dụng ngượ”. RFA Vietnam. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  132. ^ Nguyễn An (1 tháng 10 năm 2006). “Vấn đề kiểm duyệt tác phẩm văn học tại Việt Nam”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  133. ^ a b Thái Kế Toại (3 tháng 1 năm 2024). “Hoàng Cầm: Quan họ lại bắt đầu”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2024.
  134. ^ Nguyễn Hà Hùng (2 tháng 3 năm 2022). “Nhà thơ Hoàng Cầm và vụ án 'Về Kinh Bắc'. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
  135. ^ Giới, Một Thế (2 tháng 2 năm 2015). “Nàng thơ 'nuôi đủ 10 con với 1 chồng' của thi sĩ Hoàng Cầm là ai?”. Báo Một thế giới. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2023.
  136. ^ Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm & Lê Mậu Hãn 2005, tr. 968.
  137. ^ Nguyễn Đình Thi (tháng 3 năm 1958). “Chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ”. Học Tập. tr. 5-22. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2023 – qua Talawas.
  138. ^ a b Nhiều tác giả 2019, tr. 54.
  139. ^ “Những Tiếng Nói Độc Lập: QUANG DŨNG (1921-1988)”. Đài Á Châu Tự Do. 16 tháng 11 năm 1998. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2023.
  140. ^ Nhiều tác giả 2019, tr. 60-61.
  141. ^ a b Mỹ Hằng (17 tháng 8 năm 2022). “Vì sao 29 bức tranh của họa sĩ Bùi Chát bị buộc phải tiêu hủy?”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2023.
  142. ^ Xem các nguồn:
  143. ^ “Tìm lại tác giả Phan Khôi”. BBC Tiếng Việt. 22 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  144. ^ Xem các nguồn:
  145. ^ Phan An Sa (3 tháng 10 năm 2017). “Mừng 130 năm ngày sinh Phan Khôi (6/10/1887 – 6/10/2017) (1)”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2024.
  146. ^ Lại Nguyên Ân (14 tháng 10 năm 2007). “Nhà báo Phan Khôi, người mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  147. ^ Lương Hàn (15 tháng 8 năm 2020). "Màu tím hoa sim" - bi kịch của Hữu Loan”. Phụ nữ. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2023.
  148. ^ a b Thái Kế Toại (7 tháng 8 năm 2015). “Chuyện giải tỏa cho ông Nguyễn Hữu Đang”. Văn Đoàn Việt. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2024.
  149. ^ a b “Nhân Văn-Giai Phẩm được tặng giải”. BBC Tiếng Việt. 22 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
  150. ^ a b “Hà Nội xin lỗi một cách không chính thức phong trào Nhân Văn Giai Phẩm?”. Đài Á Châu Tự Do. 24 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2023.
  151. ^ Từ Nữ Triệu Vương (22 tháng 2 năm 2007). “Nhà thơ Lê Đạt: Giải thưởng này là một cử chỉ đẹp”. VietNamNet. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2023.
  152. ^ “Tác giả 'Bên kia sông Đuống' qua đời”. BBC Tiếng Việt. 6 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  153. ^ “Việt Luận phỏng vấn Thụy Khuê về tác phẩm Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc”. thuykhue.free.fr. Việt Luận. 2012. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2023.
  154. ^ Các nguồn quan điểm:
  155. ^ Xem các nguồn quan điểm:
  156. ^ a b c d e Mặc Lâm (19 tháng 5 năm 2012). “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc”. RFA. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2023.
  157. ^ Phạm Khải (25 tháng 7 năm 2008). “Phùng Quán còn đây…”. Công an nhân dân. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.
  158. ^ Xem các nguồn:
  159. ^ Hà Vũ (29 tháng 5 năm 2012). “Tác giả 'Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc'. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2023.
  160. ^ Loạt bài gốc đăng tải trên RFI, sau này được trích dẫn vào cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc:
  161. ^ “Tác giả 'Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc'. Voice of America. 29 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2023.
  162. ^ Các bài viết phê phán trong nhóm này gồm loạt bài của báo Quân đội nhân dân và báo Nhân Dân:
  163. ^ a b Trần Thiên Lương (18 tháng 1 năm 2010). “Sự thật và một nửa sự thật”. Công an nhân dân. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2023.
  164. ^ Danh sách các bài đăng từ trước đến nay bởi Công an nhân dân liên quan đến vụ việc (có thể chưa đầy đủ):
  165. ^ Liên Phương (17 tháng 3 năm 2013). “Phát hiện văn hoá phẩm phản động tuồn vào TPHCM”. Báo Tin tức. Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2023.
  166. ^ Trần Đình Sử (17 tháng 7 năm 2013). “Phê bình kiểm dịch”. trandinhsu.wordpress.com. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2023.
  167. ^ a b Thanh Phương (5 tháng 8 năm 2013). “Luận văn Đỗ Thị Thoan, một Nhân Văn Giai Phẩm thứ hai”. RFI. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2023.
  168. ^ Lê Minh Quốc (18 tháng 6 năm 2022). “Phan Khôi - một nhà báo "mới quá". Báo Đà Nẵng. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2024.
  169. ^ “Nắng cháy cho thơ, mưa dông cho báo...”. Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 4 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  170. ^ Mặc Lâm (20 tháng 7 năm 2013). “Nhóm "Mở Miệng": lịch sử văn học đẫm máu sắp lập lại?”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  171. ^ “Hiệu ứng Nguyễn Trung”. BBC Tiếng Việt. 18 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  172. ^ Mặc Lâm (8 tháng 3 năm 2014). “Sự ra đời của Văn đoàn độc lập Việt Nam”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2023.
  173. ^ xem các nguồn:
  174. ^ “Hội Nhà văn VN 'loại Văn đoàn độc lập'. BBC Tiếng Việt. 5 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2024.
  175. ^ “Kỷ niệm với Phan Vũ cho thấy ứng xử thời Nhân văn - Giai phẩm 'vẫn tái diễn'. BBC Tiếng Việt. 18 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  176. ^ Cát Linh (3 tháng 10 năm 2016). “Khi thông tin vượt rào 'tuyên giáo'. RFA Tiếng Việt. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  177. ^ xem các nguồn xoay quanh vụ Trần Dần – Thơ:
  178. ^ An Tôn (4 tháng 12 năm 2023). “Sở VH-TT Hà Nội bị chỉ trích vì cấm 30 tác phẩm của nghệ sĩ Phạm Xuân Trường”. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2024.
  179. ^ Trân Văn (4 tháng 12 năm 2023). “Quản lý văn hoá theo kiểu 'Tao không thích thì tao... cấm!'. VOA Tiếng Việt. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2024.
  180. ^ Các nguồn về sự kiện này:
  181. ^ Vũ Viết Tuân (20 tháng 8 năm 2017). “Sách giáo khoa phải viết cụ thể về cuộc chiến chống Trung Quốc”. Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2023.

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

Sách[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Anh[sửa | sửa mã nguồn]

Tạp chí[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Anh[sửa | sửa mã nguồn]

Đề tài nghiên cứu[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  1. Gibb, Camilla (2010). The Beauty of Humanity Movement. Canada: Doubleday Canada. (nguồn tiếng Việt về cuốn sách: “Tiểu thuyết về Phở và Nhân Văn - Giai Phẩm”. BBC Tiếng Việt. 1 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.)
  2. Việt Hùng (22 tháng 9 năm 2006). “Thêm một tờ báo đối lập phát hành ở Việt Nam”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  3. Quốc Phương (20 tháng 12 năm 2013). 'Ảnh hưởng của Mao không còn nữa ở VN'. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  4. Phạm Viết Đào (11 tháng 7 năm 2015). “Thêm một tờ báo đối lập phát hành ở Việt Nam”. BBC Tiếng Việt. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]