Bước tới nội dung

Trường lũy Quảng Ngãi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Trường Lũy Quảng Ngãi)
Một đoạn Trường lũy Quảng Ngãi

Trường Lũy Quảng Ngãi (gọi tắt là Trường Lũy), hay Trường Lũy Quảng Ngãi-Bình Định, Tĩnh Man trường lũy (gọi theo sử Nhà Nguyễn); đều là tên gọi của một công trình kiến trúc lớn, đa dạng, nhiều phần được làm bằng đá hoặc đất, chạy dọc theo đường thượng đạo xưa từ Quảng Ngãi đến Bình Định, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định) thuộc Việt Nam.[1] Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì đây là một trường lũy dài nhất Đông Nam Á.[2]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo các nhà nghiên cứu gần đây, trong đó có GS. Phan Huy Lê, thì lũy cổ khởi xây từ thế kỷ 17 thời các chúa Nguyễn với tính cách phòng thủ quân sự. Sang thế kỷ sau, vì nhiều nguyên nhân, một số dân tộc ở Đá Vách (Quảng Ngãi, phần đông là tộc người H’rê) đã nổi lên chống đối triều đình. Đến triều Gia Long thì cuộc xung đột càng quyết liệt hơn. Sách Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên) chép:

Tháng 4 năm Quý Hợi (1803), Lê Văn Duyệt phá tan mọi Đá Vách. Ngài (Gia Long) hạ chiếu khen thưởng.[3]

Mặc dù phải dùng biện pháp quân sự, triều đình vẫn không sao tiêu diệt được. Suốt các triều đại kế tiếp từ Minh Mệnh đến Tự Đức quan quân phải hao binh tướng đánh dẹp. Mãi cho đến khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, vùng Đá Vách vẫn có nhiều biến loạn.[4] Triều đình phải dùng cả thế công lẫn thế thủ nên một mặt phái quân lên tiễu trừ, mặt kia thì củng cố và khuếch trương thêm dãy lũy cũ.

Thư tịch chính sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Chân dung Tả quân Lê Văn Duyệt trên tờ 100 đồng (tiền Việt Nam Cộng hòa) in năm 1966. Ông là người có công lớn trong việc bồi đắp Trường Lũy Quảng Ngãi.

Theo sử nhà Nguyễn thì để ngăn nguy cơ "bị uy hiếp, tràn lấn của ác man Đá Vách", kể từ năm Gia Long thứ 18 (1819), Tả quân Lê Văn Duyệt đã cho đắp "lũy Bình Man." Sách Vũ Man tạp lục thư (in năm 1898 triều Thành Thái) của Tĩnh Man tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn chép rõ:

Năm Gia Long thứ 18 (1819), Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường lũy, nam giáp ranh giới huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định; bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (thuộc phủ Tam Kỳ), tỉnh Quảng Nam. Dọc theo lũy có đào hào trồng tre, trước lũy là vùng Man, sau lũy có xây đồn...[5]

Sách Viêm Giao trưng cổ ký (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam) của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, hoàn thành năm 1900, cũng chép tương tự:

Năm thứ 18 (1819), Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt đắp Trường lũy, trồng hàng rào, đào hào chắn[6]... Trải lâu năm lũy bị đổ nát, nhiều toán quân Man vượt quan lũy đến cướp bóc các làng dưới xuôi. Năm Tự Đức thứ 8 (1855), trùng tu Trường lũy.[7]

Căn cứ theo đó thì Trường Lũy có từ xưa nhưng được xây dựng thêm vào triều Gia Long - Minh Mạng. Hai vị có công nhiều nhất trong việc kiến thiết và trùng tu là Lê Văn DuyệtNguyễn Tấn; cả hai đều xuất thân ở Quảng Ngãi. Việc xây cất kéo dài đến nửa cuối thế kỷ 19 như ghi lại trong Đại Nam thực lục:

Tháng 4 năm Bính Thìn (1856), "dân hơn 60 xã, thôn, trại, ấp ở ba huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa (nay là Tư Nghĩa), Mộ Đức ủy người về kinh (Huế) kêu xin, vì tình hình khổ quá, (mà) phải đi đắp đê dài... công việc quá nặng, khó gánh chịu nổi". Tháng 3 năm sau (1857), bố chính Quảng Ngãi là Phạm Tỉnh lại tâu xin đắp "Trường lũy" một cách quy mô, tập trung ngót 2500 binh lính và huy động dân đinh ba huyện 3700 người. Tự Đức đồng ý, lại còn ra lệnh khẩn trương sửa đắp xong trong ba tháng.[8]

Khảo cổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc khai quật di tích đã tìm thấy các mảnh gốm địa phương, gốm Bát Tràng, và cả gốm ngoại quốc với niên đại từ thế kỷ 17, chứng minh lũy không chỉ có từ triều Gia Long.[9] Tuy nhiên việc củng cổ và xây đắp lại cho thêm cẩn mật diễn ra từ triều Gia Long về sau.

Kích thước, địa thế, cấu tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Trường Lũy Quảng Ngãi, các tài liệu ghi không thống nhất. Theo Đại Nam thực lục thì lũy có chiều dài117 dặm,[10] còn sách Viêm Giao trưng cổ ký thì ghi là 177 dặm[11] Sở dĩ có sự khác biệt này, có lẽ là do chiều dài của Trường Lũy tùy ở thời điểm khi được ghi chép. Song, trong các công bố gần đây, độ dài của công trình vẫn còn nhiều khác biệt:

-Sau nhiều năm nghiên cứu (2005-2010), tại Hội nghị thông báo khảo cổ học năm 2010 tại Hà Nội, đoàn khảo sát thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp, Viện Khảo cổ học (Hà Nội), đã cho biết độ dài của lũy từ Ba Tơ vào đến Bình Định300 km, riêng đoạn thành chạy trên đất Bình Định là 30 km.[12]
-Theo bài viết "Sức hút kỳ lạ từ Trường Lũy" trên báo Pháp luật (bản điện tử) thì Trường Lũy chỉ dài 133 km.[13]
-Theo TS. Nguyễn Tiến Đông (Viện Khảo cổ học Việt Nam), thì Trường lũy có chiều dài xấp xỉ 200 km.[14]

Về mặt địa thế, lũy nằm theo con đường thượng đạo Bắc Nam, nơi từng là lộ trình cho các cuộc hành quân lịch sử thời xưa. Như vào năm 1786, khi quân Tây Sơn kéo từ Thị Nại ra đánh lấy Phú Xuân, họ đã dùng con đường thượng đạo này để di chuyển mà không bị cản trở như ở hạ nguồn vì nơi đó có những cửa sông lớn chắn lối [15].

Về cấu tạo, Trường Lũy đắp bằng đất và đá (to bằng đầu người), cao 2m, dày 1,5m, phía ngoài có hào sâu rộng trên 3m và một hàng rào tre gai. Khảo sát bờ Trường Lũy chạy qua La Vuông (Bình Định) còn khá nguyên vẹn, thì thấy lũy có dáng hình thang, chân rộng 4-5m, mặt thành 2-3m có thể đi lại tuần tra thuận tiện. Tuy đây là một ranh giới nhưng không phải là một ranh giới đóng kín. Lũy cắt ngang qua nhiều sông, suối. Mỗi chỗ cắt ngang lại có một cổng, do một đồn bảo canh gác điều hành việc đi lại giữa cộng đồng người Việtngười H’rê.

Song cái đáng chú ý của Trường Lũy không chỉ ở độ dài, mà còn vì công trình được đắp hoàn toàn trên một địa hình rất khó khăn và phức tạp, gần như theo địa hình, hướng thành không theo một hướng nào nhất định, khi thì trên đỉnh núi, khi thì sườn đồi, dọc theo suối. Phải là người uyên bác mới tính toán được vậy, và phải tốn biết bao công sức của bao thế hệ người Việt mới được vậy.[16]

Vai trò của Trường Lũy đối với nhà Nguyễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Trường lũy người Man ở cách tỉnh thành 23 dặm về phía tây. Phía bắc lũy giáp huyện Hà Đông (thuộc phủ Tam Kỳ) tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp huyện Bồng Sơn tỉnh Bình Định. Lũy dài 177 dặm. Xét: Một dải dọc theo ranh giới xung quanh tỉnh thành trước nay thường có bọn ác man Thạch Bích ngang ngạnh hoành hành. Hồi đầu dựng nước đã lập ra 6 đạo binh lính bám sát địa phương để phòng thủ.
Năm Gia Long thứ 3 (1804) lập ra 6 kiên cơ đạo Bình Man. Năm thứ 18 (1819), Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt đắp Trường lũy, trồng hàng rào, đào hào chắn. Bên trong thiết lập 115 đồn bảo, mỗi đồn đóng 18 lính, tổng cộng 1.150 người. Lại lấy các xã thôn thượng du của 3 huyện đặt làm 27 lân theo binh lính của 6 Kiên cơ tiến hành phòng thủ...Mỗi lân đặt ra chức Cai lân, Phó lân để cai quản.
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi 6 Kiên cơ thành 6 cơ Tĩnh Man, xây thêm đồn bảo vệ, thành 117 đồn. Năm thứ 17 (1836), trích cơ thứ 6 ra lập thành vệ Nhất Quảng Ngãi, tùy theo tình hình địa bàn mà bổ sung thêm cho 5 cơ còn lại để tiện cho kế hoạch ứng phó. Năm thứ 20 (1830), chuyển giao cho Lãnh binh của tỉnh quản lãnh công việc này.
Sang đời Thiệu Trị, cắt giảm số đồn xuống chỉ còn 56 đồn, số lính của 5 cơ là 2.150 người, mỗi cơ đặt ra một viên Chánh Quản cơ và một viên Phó Quản cơ, mỗi đồn đặt một viên Suất đội, đóng ở các cửa tấn để phòng thủ, tất cả do viên Lãnh binh cai quản chung.
Trải lâu năm lũy bị đổ nát, nhiều toán quân Man vượt quan lũy đến cướp bóc các làng dưới xuôi. Năm Tự Đức thứ 8 (1855), trùng tu Trường lũy. Năm thứ 9 (1856), chia đặt ra 80 đồn, bổ sung thêm binh lính thành 8 cơ, chia thành 3 ban, cứ 2 tháng thay phiên nhau một lần. Năm thứ 10 (1857), đặt chức Tuần phủ 1 viên, về sau lại bãi. Năm thứ 16 (1863), đặt chức Tiễu phủ 1 viên, Phó lãnh binh 1 viên để khi có xảy ra việc thì cùng bàn bạc với nhau mà giải quyết. Năm thứ 17 (1864), lại đổi 8 cơ thành 6 cơ, mỗi cơ 10 đội, lại kén tuyển lính chiến thành 1 vệ, vệ có 12 đội, chiêu mộ 5 đội Nghĩa Hùng, 2 đội Tĩnh Man, đặt 3 đồn lớn Tĩnh Man, còn các cơ đồn khác tùy xét mà cắt giảm. Những nơi xung yếu thì do binh lính của cơ đóng giữ, nơi dễ dàng hơn thì do dân của các lân canh giữ. Hiện nay chỉ còn 47 đồn nhỏ, 3 đồn lớn, tổng cộng 50 đồn.[17]

Trích sách Viêm Giao trưng cổ ký của Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục

Trường lũy xưa, triều Nguyễn xây dựng mang tính chất phòng vệ, song hiệu quả không cao, vì "quân Đá Vách dùng lối đánh du kích ẩn hiện khó lường, mà quân triều từ nơi khác đến đóng giữ lâu ngày không quen thủy thổ", và vì họ đều có "tài nghệ chiến đấu".[18] Tướng Nguyễn Tấn trong Vũ Man tạp lục thư kể:

Người Man ở tỉnh tôi, tính tình hung hãn, đi đứng chạy nhảy lanh lẹ, đến như luồng điện sáng, đi tựa ánh chớp. Dựa vào nơi hiểm yếu, bắn tên phóng lao, đó là môn sở trường của họ vậy... Trước đây quan binh đã từng bị chúng đánh thua, và chẳng phải là một lần mà thôi.[19]

Rút lại, theo GS. Nguyễn Phan Quang trong Việt Nam thế kỷ XIX, thì:

Trải qua các triều vua từ Gia Long đến Tự Đức, "lũy bình Man" liên tiếp được củng cố, đồn bảo trên lũy liên tiếp được sửa đắp, tăng cường, nhưng triều Nguyễn vẫn không sao đè bẹp được cuộc đấu tranh của các dân tộc Đá Vách. Ngay tác giả Vũ Man tạp lục thư cũng đã thú nhật sự bất lực của Trường lũy: "... Kế sách phòng bị quá chu đáo, chặt chẽ, không gì lọt qua được, tuy nhiên không có gì tốt hơn là giữ được (lòng) người vậy."[20]

Thế giới lưu ý

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 27 tháng 3 năm 2011, đoàn đại sứ các nước Châu Âu gồm: Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, România và Trưởng phái đoàn Liên Âu tại Việt Nam Sean Doyle đã cùng các nhà khoa học nước ngoài và nhà chức trách tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức hội thảo "Lịch sử quan hệ kinh tế và dân tộc" về di tích quốc gia Trường Lũy Quảng Ngãi.

Tại hội thảo, tham luận của các nhà khoa học đều thống nhất rằng:

-Trường Lũy không những chỉ có nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quản lý nội địa; mà còn tạo điều kiện cho giao thương, mua bán giữa đồng bào miền ngược và miền xuôi, giữa miền núi và miền biển.
-Công trình không chỉ có ý nghĩa lớn về giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, là đường ranh giới đảm bảo về sự ổn định và hòa bình, là nơi giao thương mà còn có giá trị lớn về mặt quân sự, là cơ sở để quản lý, tạo mối quan hệ hòa hợp, gắn kết giữa cộng đồng các dân tộc.

Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi đã thống nhất giữ nguyên hiện trạng Trường Lũy trên cơ sở lấy Trường Lũy làm tâm, dọc theo hai bên lũy 500m là khu vực di tích.

Theo kỳ vọng của ngành chức năng, với di tích Trường Lũy, không chỉ là việc nghiên cứu mà còn tạo ra cơ hội về du lịch. Những cư dân sống dọc Trường Lũy sẽ có cơ hội về công ăn việc làm.[13]

Ngày 10 tháng 3 năm 2011, Trường Lũy Quảng Ngãi đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp Quốc gia.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 28 (bản dịch). Nhà xuất bản Sử học và Nhà xuất bản Khoa học xã hội hợp tác ấn hành, Hà Nội, 1962-1972.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên, bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2002.
  • Cao Xuân Dục, Viêm Giao trưng cổ ký (bản dịch). Nhà xuất bản thời đại, 2010.
  • Trương Hữu Quýnh-Phan Đại Doãn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập I). Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
  • Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Trường Lũy chạy dọc theo dãy Trường Sơn, đi qua địa phận 6 huyện thuộc Quảng Ngãi, gồm: Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ; và 2 huyện thuộc Bình Định, gồm: Hoài Nhơn, An Lão)
  2. ^ Theo bài viết "Trường Lũy dài nhất Đông Nam Á" trên báo Thanh Niên
  3. ^ Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên, tr. 81)
  4. ^ Đại cương lịch sử Việt Nam (Quyển I), tr. 462.
  5. ^ Dẫn lại theo Việt Nam thế kỷ XIX (tr. 216-217). Chữ trong ngoặc cũng chép theo sách này.
  6. ^ Trích trong Viêm Giao trưng cổ ký, tr. 194.
  7. ^ Viêm Giao trưng cổ ký, tr. 195.
  8. ^ Đại Nam thực lục, Tập 28, tr. 224 và 328.
  9. ^ Trích trong bài viết "Giải mã Trường lũy dài nhất Đông nam Á" trên báo Thể thao Văn hóa (bản điện tử) [1]
  10. ^ Dẫn lại theo bài viết "Sức hút kỳ lạ từ Trường Lũy" trên báo Pháp luật (bản điện tử) [2] Lưu trữ 2011-05-10 tại Wayback Machine
  11. ^ Theo bài viết "Đi tìm dấu tích "Tĩnh man trường lũy" đăng trên website Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định [3][liên kết hỏng], nếu tính 1 dặm là 444,44 m (số đo cổ được áp dụng thời Nguyễn) thì 117 dặm chỉ hơn 50 km. Nếu là 177 dặm thì chưa đầy 80 km
  12. ^ Theo bài viết "Đi tìm dấu tích "tĩnh man trường lũy" đăng trên website Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định [4][liên kết hỏng]
  13. ^ a b “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2011.
  14. ^ Xem bài "Trường Lũy dài nhất Đông Nam Á" trên báo Thanh Niên (bản điện tử) [5] và ở đây [6].
  15. ^ Theo bài viết "Giải mã Trường lũy dài nhất Đông nam Á" trên báo Thể thao Văn hóa (bản điện tử) [7].
  16. ^ Lược theo bài viết "Đi tìm dấu tích "tĩnh man trường lũy" đăng trên website Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định [8][liên kết hỏng].
  17. ^ Viêm Giao trưng cổ ký, tr. 194-195.
  18. ^ Theo Việt Nam thế kỷ XIX, tr 215 và 219.
  19. ^ Dẫn theo Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 219 và 220.
  20. ^ Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 220.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • "Đi tìm dấu tích "tĩnh man trường lũy" đăng trên website Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định [9][liên kết hỏng].
  • "Sức hút kỳ lạ từ Trường Lũy" trên báo Pháp luật (bản điện tử)[10] Lưu trữ 2011-05-10 tại Wayback Machine
  • "Trường Lũy dài nhất Đông Nam Á" trên báo Thanh Niên [11]
  • "Trường Lũy Quảng Ngãi mang đậm dấu ấn tinh thần Việt Nam" trên báo Công an TP. Đà Nẵng
  • "Cần quy hoạch, bảo vệ Trường lũy Quảng Ngãi" [12] Lưu trữ 2011-09-27 tại Wayback Machine
  • "Giải mã Trường lũy dài nhất Đông nam Á" trên báo Thể thao Văn hóa (bản điện tử) [13]