Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trung tâm Huấn luyện Quốc gia
Vạn Kiếp
Huy Hiệu
Hoạt động1962-1975
Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Phục vụ Quân lực VNCH
Quân chủngQuân trường
Phân loại-Đào tạo quân nhân cấp thấp
-Bổ túc Quân sự
Bộ phận của[[ ]] Tổng cục Quân huấn
Bộ Tổng Tham mưu
Bộ chỉ huyBà Rịa, Phước Tuy[1]
Khẩu hiệu-Thao trường đổ mồ hôi
-Chiến trường bớt đổ máu
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
-Vĩnh Lộc
-Trần Cửu Thiên
-Nguyễn Bá Thịnh

Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp[2] (tiếng Anh: Van Kiep National Training Center, VKNTC) là một cơ sở đào tạo quân nhân Viễn thám của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ 1962 đến 1975, tọa lạc tại địa phận Thị xã Bà Rịa, tỉnh Phước Tuy (nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu).

Lịch sử hình thành[sửa | sửa mã nguồn]

Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp do Tổng thống Ngô Đình Diệm ký quyết định thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1962, ban đầu nhằm đào tạo lực lượng Viễn thám cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Chỉ huy trưởng đầu tiên là Trung tá Vĩnh Lộc.

Mục tiêu huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]

Sau này, Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Quân huấn giao phó cho Trung tâm nhiệm vụ huấn luyện và đào tạo:
-Tân binh Chủ lực quân, Địa phương quân và Nghĩa quân thuộc Quân khu 3.
-Các khóa hạ sĩ quan Đặc biệt.
-Các khóa bổ túc và nâng cấp Chuyên môn C1, C2 và B1.
-Các khóa bổ túc quân sự và chiến thuật cho các cấp đơn vị Đại đội, Tiểu đoàn.
-Các khóa "Tác chiến trong rừng" (tương tự như khóa "Rừng núi sình lầy" của Quân trường Dục Mỹ) dành cho hạ sĩ quan và sĩ quan của các đơn vị Bộ binh và Địa phương thuộc Quân khu, để có thêm kinh nghiệm ngoài chiến trường.
-Các khóa lấy Chứng chỉ Trung đội trưởng dành cho hạ sĩ quan và Chứng chỉ Đại đội trưởng dành cho sĩ quan, để có kinh nghiệm trong việc chỉ huy và điều động cấp Trung đội, Đại đội.

Trung tâm đã tròn trách vụ được giao phó đến ngày 26/4/1975 thì chấm dứt nhiệm vụ và giải tán.

Chỉ huy trưởng qua từng thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại chức Chú thích
1
Vĩnh Lộc
Võ bị Lục quân Pháp[4]
Trung tá[5]
01/1962-12/1963
Sau cùng là Trung tướng Tổng tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu (28/4-29/4/1975)
2
Nguyễn Văn Huấn[6]
Võ bị Đà Lạt K3
12/1963-05/1965
Sau cùng là Đại tá Chỉ huy phó Trung tâm Huấn luyện Quang Trung
3
Lý Thái Như
Võ bị Viễn Đông
05/1965-03/1967
Giải ngũ ở cấp Đại tá
4
Lê Minh Quý[7]
Võ khoa Thủ Đức K2[8]
Đại tá
03/1967-04/1971
Sau cùng biệt phái qua Tổng nha Cảnh sát Quốc gia, giữ chức vụ Đại tá Chánh Thanh tra
5
Võ Văn Ba[9]
Võ bị Đà Lạt K5
04/1971-08/1972
Sau cùng là Đại tá trong Uỷ ban Quân sự 4 bên
6
Trần Cửu Thiên[10]
Võ bị Địa phương
Nam Việt Vũng Tàu
08/1972-02/1975
Sau cùng là Đại tá Phụ tá Tư lệnh Quân đoàn II, đặc trách Bình định & Phát triển Quân khu 2
7
Nguyễn Bá Thịnh[11]
Võ bị Đà Lạt K8
02/1975-04/1975
Chỉ huy sau cùng (Nguyên Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 bộ binh)

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nay thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
  2. ^ Hội ngộ gia đình Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp
  3. ^ Một sáng tác của Châu Hiệp[liên kết hỏng].
  4. ^ Xuất thân từ Trường Sĩ quan
  5. ^ Cấp bậc khi nhậm chức
  6. ^ Đại tá Nguyễn Văn Huấn sinh năm 1925 tại Nam Định.
  7. ^ Đại tá Lê Minh Quý sinh năm 1927 tại Hà Nội.
  8. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
  9. ^ Đại tá Võ văn Ba sinh năm 1932 tại Vĩnh Bình.
  10. ^ Đại tá Trần Cửu Thiên sinh năm 1929 tại Vĩnh Bình.
  11. ^ Đại tá Nguyễn Bá Thịnh sinh năm 1928 tại Hòa Bình.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kết[sửa | sửa mã nguồn]