Bước tới nội dung

U-77 (tàu ngầm Đức) (1940)

Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-77
Đặt hàng 25 tháng 1, 1939
Xưởng đóng tàu Bremer Vulkan, Bremen-Vegesack
Số hiệu xưởng đóng tàu 5
Đặt lườn 28 tháng 3, 1940
Hạ thủy 23 tháng 11, 1940
Nhập biên chế 18 tháng 1, 1941
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 38 391
Chỉ huy:
Chiến dịch:
  • 11 chuyến tuần tra:
  • 1: 29 tháng 5 – 7 tháng 7, 1941
  • 2: 2 tháng 8 – 10 tháng 9, 1941
  • 3: 11 tháng 10 – 13 tháng 11, 1941
  • 4: 10–19 tháng 12 & 21 tháng 12, 1941 – 14 tháng 1, 1942
  • 5: 28 tháng 3–3 tháng 4 & 7–11 tháng 4, 1942
  • 6: 6–17 tháng 6 & 23 tháng 6–9 tháng 7, 1942
  • 7: 16 tháng 7–21 tháng 8 & 25–30 tháng 8, 1942
  • 8: 12 tháng 10 – 1 tháng 11, 1942
  • 9: 3 tháng 11 – 5 tháng 12, 1942
  • 10: 26 tháng 1 – 10 tháng 2, 1943
  • 11: 3 – 29 tháng 3, 1943
Chiến thắng:
  • 14 tàu buôn bị đánh chìm
    (31.171 GRT)
  • 1 tàu chiến bị đánh chìm
    (1.050 tấn)
  • 2 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (11.637 GRT)
  • 2 tàu buôn bị hư hại
    (5.384 GRT)
  • 2 tàu chiến bị hư hại
    (2.880 tấn)

U-77 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tổng cộng mười một chuyến tuần tra, đánh chìm hoặc gây tổn thất toàn bộ cho mười sáu tàu buôn với tổng tải trọng 42.808 GRT và một tàu chiến tải trọng 1.050 tấn, đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn và hai tàu chiến khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Địa Trung Hải, U-73 bị hư hại nặng do trúng mìn sâu từ hai máy bay Lockheed Hudson của Anh, nên đã tự đánh đắm ngoài khơi Cartagena, Tây Ban Nha vào ngày 29 tháng 3, 1943.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-77 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 1, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer Vulkan-Vegesacker Werft tại Bremen-Vegesack vào ngày 28 tháng 3, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 11, 1940,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 28 tháng 1, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Heinrich Schonder.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-77 khởi hành từ Kiel vào ngày 29 tháng 5, 1941 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh.[3] Chiếc tàu ngầm băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để vòng qua quần đảo Anh và đi đến khu vực tuần tra về phía Đông Newfoundland, Canada. Nó đã đánh chìm tàu buôn Anh Tresillian 4.743 GRT bằng hải pháo và ngư lôi về phía Đông Nam mũi Race, Newfoundland vào ngày 13 tháng 6,[5] và sau đó là tàu buôn Anh Arakaka 2.379 GRT ở vị trí 450 nmi (830 km) về phía Đông St. Johns vào ngày 22 tháng 6.[6] Ba ngày sau đó, nó lại đánh chìm tàu buôn Hy Lạp Anna Bulgaris 4.603 GRT ở phía Nam mũi Farewell, Greenland.[7] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng St. Nazaire bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 7 tháng 7.[1][8]

Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ hai kéo dài từ ngày 2 tháng 8 đến 10 tháng 9, xuất phát từ St. Nazaire, U-77 đi đến khu vực tuần tra về phía Tây ScotlandIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[3] Sau đó trong chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 11 tháng 10 đến ngày 13 tháng 11, nó mở rộng khu vực hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương xa hơn về phía Tây.[3] Tuy nhiên trong cả hai lượt hoạt động nó không đánh chìm được mục tiêu nào, và kết thúc chuyến thứ ba tại cảng Lorient cùng tại bờ biển Đại Tây Dương của Pháp.[1] [3]

Chuyến tuần tra thứ tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Rời cảng Lorient vào ngày 10 tháng 12,[3] U-77 băng qua eo biển Gibraltar được Hải quân Hoàng gia Anh canh phòng chặt chẽ để tiến vào Địa Trung Hải và đi đến cảng Messina ở phía Bắc đảo Sicilia vào ngày 19 tháng 12.[9] Trên đường đi nó đã đánh chìm tàu buôn Anh SS Empire Barracuda 4.972 GRT ở vị trí cách mũi Trafalgar 34 nmi (63 km) vào ngày 15 tháng 12.[10] Sau đó chiếc tàu ngầm rời Messina vào ngày 21 tháng 12 cho chuyến tuần tra phía Đông Địa Trung Hải dọc bờ biển LibyaAi Cập.[9] Lúc 01 giờ 57 phút ngày 12 tháng 1, 1942, U-77 phát hiện hai tàu khu trục đối phương ngoài khơi Tobruk, Libya, nên đã phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công. Một quả đã đánh trúng đuôi HMS Kimberley khiến phần sau chiếc tàu khu trục nổ tung và nó chết đứng giữa biển; tuy nhiên Kimberley né được một quả ngư lôi phóng bồi thêm, và sau đó được kéo về Alexandria, Ai Cập để sửa chữa.[11] U-77 sau đó đi đến đảo Salamis, Hy Lạp vào ngày 14 tháng 1.[9][1]

Chuyến tuần tra thứ năm

[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất phát từ cảng Salamis vào ngày 28 tháng 3, 1942, U-77 thực hiện chuyến tuần tra thứ năm để tiếp tục hoạt động ngoài khơi Libya và Ai Cập.[3] Vào ngày 1 tháng 4, nó bị một máy bay ném bom ngư lôi Fairey Swordfish thuộc Liên đội 815 Không lực Hải quân Hoàng gia Anh tấn công về phía Đông Bắc Sidi Barrani, Ai Cập. U-77 chịu hư hại đến mức không thể lặn, nên phải kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Salamis vào ngày 3 tháng 4.[12]

Chuyến tuần tra thứ sáu

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chuyển từ Salamis đến cảng La Spezia ở phía Bắc Ý trong tháng 4, U-77 xuất phát từ cảng này vào ngày 6 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ sáu bao gồm hai giai đoạn.[3] Vào ngày 12 tháng 6, nó tấn công tàu khu trục HMS Grove thuộc Đoàn tàu MW 11, là đoàn tàu tham gia Chiến dịch Vigorous để tiếp liệu cho Malta]. Grove trúng hai quả ngư lôi và đắm ngoài khơi Sollum, Ai Cập, tại tọa độ 32°05′B 25°30′Đ / 32,083°B 25,5°Đ / 32.083; 25.500.[13] Sau đó chiếc tàu ngầm ghé đến cảng Salamis từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 6 để được tiếp liệu trước khi tiếp tục chuyến tuần tra.[14]

Vào ngày 24 tháng 6, ở vị trí về phía Bắc Tobruk, tại tọa độ 34°20′B 24°09′Đ / 34,333°B 24,15°Đ / 34.333; 24.150, tàu ngầm Anh HMS Ultimatum phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công U-77 từ khoảng cách 7.000 yd (6.400 m). Ultimatum tự nhận đã đánh trúng đích một quả ngư lôi, nhưng U-77 báo cáo chỉ nghe thấy hai vụ nổ gần tàu, có thể do các quả ngư lôi bị kích nổ sớm.[14] Chiếc U-boat sau đó tiếp tục bị tàu ngầm Anh HMS Thrasher tấn công ngoài khơi lãnh thổ ủy trị Palestine vào ngày 4 tháng 7, tại tọa độ 32°48′B 33°36′Đ / 32,8°B 33,6°Đ / 32.800; 33.600, nhưng cả ba quả ngư lôi phóng ra đều bị trượt. Thrasher sau đó trồi lên mặt nước để tiếp tục tấn công bằng hải pháo, nhưng U-77 đã lặn xuống né tránh và chạy thoát.[14] Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Salamis vào ngày 9 tháng 7.[3]

Chuyến tuần tra thứ bảy và thứ tám

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ bảy kéo dài từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 21 tháng 8, xuất phát từ Salamis, U-77 đã đánh chìm bảy tàu Hy Lạp, Syria, Ai Cập và Palestine với tổng tải trọng 714 GRT và gây hư hại cho một chiếc khác tải trọng 155 GRT.[15]

Vào cuối tháng 8, chiếc tàu ngầm di chuyển đến cảng Pola, Croatia ở tận cùng biển Adriatic. Nó xuất phát từ đây vào ngày 12 tháng 10 cho chuyến tuần tra tiếp theo, đánh chìm thuyền buồm Syria Mahrou 18 GRT trước khi quay trở về La Spezia vào ngày 1 tháng 11.[16]

Chuyến tuần tra thứ chín

[sửa | sửa mã nguồn]

U-77 khởi hành từ La Spezia vào ngày 3 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ chín, để hoạt động tại khu vực Tây Địa Trung Hải dọc bờ biển Algeria.[3] Vào ngày 6 tháng 11, nó bị hai máy bay đối phương tấn công nhưng chỉ hư hại nhẹ, rồi đến ngày 10 tháng 11, nó đã phóng bốn quả ngư lôi tấn công tàu sân bay HMS Furious nhưng không trúng đích.[17] Sang ngày 12 tháng 11, chiếc tàu ngầm phóng bốn quả ngư lôi tấn công, và một quả trúng đích gây hư hại cho tàu sà lúp HMS Stork (1.190 tấn);[18] nhưng sang ngày hôm sau U-77 đã bị các tàu corvette HMS LotusHMS Poppy phản công bằng mìn sâu ở vị trí về phía Đông Bắc Algiers và bị hư hại nhẹ.[17] U-77 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về La Spezia vào ngày 5 tháng 12.[3]

Chuyến tuần tra thứ mười

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra tiếp theo kéo dài từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 10 tháng 2, xuất phát từ La Spezia, U-77 tiếp tục hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Algeria. Nó đã đánh chìm các tàu buôn Anh Empire Banner 6.699 GRT[19]Empire Webster 7.043 GRT[20] thuộc Đoàn tàu KMS 8 cùng vào ngày 7 tháng 2.[21]

Chuyến tuần tra thứ mười một - Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-77 khởi hành từ La Spezia vào ngày 3 tháng 3 cho chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh trong Địa Trung Hải, hoạt động dọc theo tuyến hàng hải tại Bắc Phi.[3] Nó đã tấn công Đoàn tàu ET-17 về phía Tây Bắc Oran vào ngày 16 tháng 3, khiến chiếc tàu buôn Anh Hadleigh (5.222 tấn) bị tổn thất toàn bộ,[22] đồng thời gây hư hại cho chiếc tàu buôn Anh Merchant Prince (5.229 tấn).[23] Sang ngày 26 tháng 3, nó lại tiếp tục tấn công Đoàn tàu MKS-10 về phía Tây Oran và gây tổn thất toàn bộ cho chiếc tàu buôn Anh City of Perth (6.415 tấn).[24]

Đến ngày 28 tháng 3, chiếc tàu ngầm bị hai máy bay tuần tra Lockheed Hudson thuộc các liên đội 48 và 233 đặt căn cứ tại Gibraltar tấn công bằng mìn sâu, và bị hư hại nặng.[1] Đến 01 giờ 15 phút ngày hôm sau 29 tháng 3, Trung úy Hartmann hạm trưởng U-77 ra lệnh cho thủy thủ đoàn bỏ tàu, rồi đánh đắm nó ở vị trí về phía Đông Cartagena, Tây Ban Nha, tại tọa độ 37°42′B 00°10′Đ / 37,7°B 0,167°Đ / 37.700; 0.167.[1] Chỉ có chín người trong tổng số 47 thành viên thủy thủ đoàn sống sót, và được các tàu đánh cá Tây Ban Nha cứu vớt.[25][1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-77 từng tham gia sáu bầy sói:

  • West (6 – 20 tháng 6, 1941)
  • Grönland (10 – 23 tháng 8, 1941)
  • Kurfürst (23 tháng 8 – 2 tháng 9, 1941)
  • Seewolf (2 – 7 tháng 9, 1941)
  • Reissewolf (21 – 31 tháng 10, 1941)
  • Störtebecker (15 tháng 11 – 2 tháng 12, 1941)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-77 đã đánh chìm hoặc gây tổn thất toàn bộ cho mười sáu tàu buôn với tổng tải trọng 42.808 GRT và một tàu chiến tải trọng 1.050 tấn, đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn và hai tàu chiến khác:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[26]
13 tháng 6, 1941 Tresillian  Anh Quốc 4.743 Bị đánh chìm
22 tháng 6, 1941 Arakaka  Anh Quốc 2.379 Bị đánh chìm
25 tháng 6, 1941 Anna Bulgaris  Greece 4.603 Bị đánh chìm
15 tháng 12, 1941 Empire Barracuda  Anh Quốc 4.972 Bị đánh chìm
12 tháng 1, 1942 HMS Kimberley  Hải quân Hoàng gia Anh 1.690 Bị hư hại
12 tháng 6, 1942 HMS Grove  Hải quân Hoàng gia Anh 1.050 Bị đánh chìm
22 tháng 7, 1942 Vassiliki  Greece 140 Bị đánh chìm
24 tháng 7, 1942 SV Toufic El Rahman  Syria 30 Bị đánh chìm
30 tháng 7, 1942 Fany  Egypt 43 Bị đánh chìm
1 tháng 8, 1942 St. Simon Ai Cập 85 Bị đánh chìm
6 tháng 8, 1942 Adnan  Egypt 155 Bị hư hại
6 tháng 8, 1942 Ezzet  Egypt 158 Bị đánh chìm
10 tháng 8, 1942 Kharouf  Mandatory Palestine 158 Bị đánh chìm
16 tháng 8, 1942 Daniel  Mandatory Palestine 100 Bị đánh chìm
20 tháng 8, 1942 Mahrous  Syria 18 Bị đánh chìm
12 tháng 11, 1942 HMS Stork  Hải quân Hoàng gia Anh 1.190 Bị hư hại
7 tháng 2, 1943 Empire Banner  Anh Quốc 6.699 Bị đánh chìm
7 tháng 2, 1943 Empire Webster  Anh Quốc 7.043 Bị đánh chìm
16 tháng 3, 1943 Hadleigh  Anh Quốc 5.222 Tổn thất toàn bộ
16 tháng 3, 1943 Merchant Prince  Anh Quốc 5.229 Bị hư hại
26 tháng 3, 1943 City of Perth  Anh Quốc 6.415 Tổn thất toàn bộ

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-77”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-77”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Tresillian - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Arakaka - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Anna Bulgaris - Greek Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (first patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  9. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (fourth patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Empire Barracuda - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Kimberly (F 50) - British Destroyer”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (fifth patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  13. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Grove (L 77) - British Destroyer”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  14. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (sixth patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  15. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (seventh patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  16. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (eighth patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  17. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (ninth patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  18. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Stork (U 81) - British Sloop”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  19. ^ Helgason, Guðmundur. “Empire Banner - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  20. ^ Helgason, Guðmundur. “Empire Webster - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  21. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-77 (tenth patrol)”. U-boat patrols - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2024.
  22. ^ Helgason, Guðmundur. “Merchant Prince”. German U-boats of WWII – uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
  23. ^ Helgason, Guðmundur. “Hadleigh”. German U-boats of WWII – uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
  24. ^ Helgason, Guðmundur. “City of Perth”. German U-boats of WWII – uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2024.
  25. ^ Busch & Röll 1999, tr. 83.
  26. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-77”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-77”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 77”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2024.