Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chữ Quốc ngữ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Fort123 (thảo luận | đóng góp)
Bỏ cột sau 1945, gộp chung, thêm tên gọi trong các phương ngữ và tên theo SGK.
Dòng 263: Dòng 263:
{| class="wikitable"
{| class="wikitable"
|-
|-
! STT !! Chữ cái !! Phát âm sau 1945 !! Phát âm trước 1945
! STT !! Chữ cái !! Tên gọi
|-
|-
| 1 || A/a || a || a
| 1 || A/a || a
|-
|-
| 2 || Ă/ă || á || á
| 2 || Ă/ă || á
|-
|-
| 3 || Â/â || ớ || ớ
| 3 || Â/â || ớ
|-
|-
| 4 || B/b || bê, bờ, bê bò<ref>Chỉ sử dụng ở một số nơi để phân biệt với "p".</ref>
| 4 || B/b || bờ || bờ
|-
|-
| 5 || C/c || cờ || cờ
| 5 || C/c || xê, cờ
|-
|-
| 6 || D/d || dờ || dờ
| 6 || D/d || dê, dờ
|-
|-
| 7 || Đ/đ || đờ || đờ
| 7 || Đ/đ || đê, đờ
|-
|-
| 8 || E/e || e, ơ<ref>Trước 1945 do chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, hiện nay ít được sử dụng.</ref>
| 8 || E/e || e || ơ
|-
|-
| 9 || Ê/ê || ê ||
| 9 || Ê/ê || ê
|-
|-
| 10 || G/g || gờ || gờ
| 10 || G/g || giê, gờ
|-
|-
| 11 || H/h || hờ || hờ
| 11 || H/h || hát, hờ
|-
|-
| 12 || I/i || i || i
| 12 || I/i || i, i ngắn<ref>Để phân biệt với "y".</ref>
|-
|-
| 13 || K/k || ca || ca
| 13 || K/k || ca
|-
|-
| 14 || L/l || lờ || lờ
| 14 || L/l || lờ, e-lờ, lờ cao<ref>Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "n".</ref>
|-
|-
| 15 || M/m || mờ || mờ
| 15 || M/m || em, mờ, em-mờ
|-
|-
| 16 || N/n || nờ || nờ
| 16 || N/n || en, nờ, en-nờ, nờ thấp<ref>Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "l".</ref>
|-
|-
| 17 || O/o || o || o
| 17 || O/o || o
|-
|-
| 18 || Ô/ô || ô || ô
| 18 || Ô/ô || ô
|-
|-
| 19 || Ơ/ơ || ơ || ơ
| 19 || Ơ/ơ || ơ
|-
|-
| 20 || P/p || pê, pờ, bê phở<ref>Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "b".</ref>
| 20 || P/p || pờ || pờ
|-
|-
| 21 || Q/q || quy || quy
| 21 || Q/q || quy, cu, quờ
|-
|-
| 22 || R/r || rờ || rờ/e-rờ
| 22 || R/r || e-rờ, rờ
|-
|-
| 23 || S/s || sờ || ét/ét-xì
| 23 || S/s || ét, sờ, ét-xì, sờ nặng<ref>Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "x".</ref>
|-
|-
| 24 || T/t || tờ || tờ
| 24 || T/t || tê, tờ
|-
|-
| 25 || U/u || u || u
| 25 || U/u || u
|-
|-
| 26 || Ư/ư || ư || ư
| 26 || Ư/ư || ư
|-
|-
| 27 || V/v || vờ || vờ
| 27 || V/v ||
|-
|-
| 28 || X/x || xờ || xờ
| 28 || X/x || ích-xì, xờ, xờ nhẹ<ref>Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "s".</ref>
|-
|-
| 29 || Y/y || i (dài) || i
| 29 || Y/y || i dài<ref>Để phân biệt với "i".</ref>


|}
|}

Phiên bản lúc 14:54, ngày 9 tháng 7 năm 2013

Bài này nói về hệ thống chữ viết trong tiếng Việt. Quốc ngữ còn có nghĩa là ngôn ngữ chính thức
Tập tin:Giaoly.jpg
Trang đầu Phép giảng tám ngày (Catechismus) in năm 1651 của Giám mục Đắc Lộ. Bên trái là chữ Latinh, bên phải là chữ Quốc ngữ

Chữ Quốc ngữ, còn được gọi tắt là Quốc ngữ, là hệ thống chữ viết chính thức hiện nay của tiếng Việt. Hệ thống này được xây dựng dựa trên chữ cái Latinh (cụ thể là trực tiếp từ chữ cái Bồ Đào Nha) thêm các chữ ghép và 9 dấu phụ — 4 dấu tạo ra các âm mới, và năm dấu còn lại dành cho thể hiện thanh điệu của từ. Hai loại dấu phụ có thể được viết cùng trên một chữ cái nguyên âm.

Bảng chữ cái

Bảng chữ cái tiếng Việt có 29 chữ cái, theo thứ tự:

A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y
a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y

Ngoài ra, có 10 chữ ghép đôi và 1 chữ ghép ba.

CH GH GI KH NG NGH NH PH TH TR QU

Trước đây, các chữ ghép này được coi như một chữ cái độc lập và có thể được tìm thấy trong từ điển cũ. Ngày nay chúng không được coi là chữ cái độc lập mà là chữ ghép; ví dụ trong việc xếp thứ tự, "CH" nằm giữa "CA" và "CO" trong các từ điển hiện đại.

Các chữ cái "F", "J", "W" và "Z" không có trong bảng chữ cái tiếng Việt, nhưng có thể bắt gặp trong các từ vay mượn từ tiếng nước ngoài. "W" thỉnh thoảng được dùng trong cách viết tắt thay "Ư". Hiện đang có ý kiến cho rằng, cần bổ sung thêm bốn chữ cái kể trên vào bảng chữ cái tiếng Việt để hợp thức hóa cách sử dụng để đáp ứng sự phát triển của tiếng Việt hiện đại.[1]

Nguyên âm

Ngoài các nguyên âm đơn, trong tiếng Việt còn có nguyên âm đôi, còn gọi là trùng nhị âm và nguyên âm ba hay trùng tam âm.

Có mối liên hệ phức tạp giữa nguyên âm và cách phát âm của chúng. Một nguyên âm có thể biểu thị cho vài cách phát âm khác nhau, tùy theo nó nằm trong nguyên âm đơn, đôi hay ba; và nhiều khi các cách viết nguyên âm khác nhau tượng trưng cho cùng một cách phát âm.

Ví dụ yi có thể dùng thay cho nhau trong nhiều trường hợp. Đã có quyết định của Bộ Giáo dục Việt Nam vào năm 1984, quy định dùng i thay cho y. Quy chuẩn này không áp dụng cho các nguyên âm đôi và nguyên âm ba, cũng như ngoại trừ tên riêng; nhưng vẫn có hạn chế trong việc thực thi trong cuộc sống. Trường hợp các từ có phụ âm đầu là qu, sử dụng vần y thì sẽ đúng hơn.

Bảng sau cho biết các cách phát âm (theo Bảng mẫu tự phiên âm quốc tế) có thể tương ứng với từng cách viết nguyên âm:

Cách viết Phát âm Cách viết Phát âm
a  /ɐː/, /ɐ/, /ɜ/ o  /ɔ/, /ɐw/, /w/
ă  /ɐ/ ô  /o/, /ɜw/, /ɜ/
â  /ɜ/ ơ  /əː/, /ɜ/
e  /ɛ/ u  /u/, /w/
ê  /e/, /ɜ/ ư  /ɨ/
i  /i/, /j/ y  /i/, /j/

Hiện nay các nhà ngôn ngữ học chưa có sự thống nhất hoàn toàn về số lượng nguyên âm trong tiếng Việt. Tuy nhiên, quan điểm phổ biến[cần dẫn nguồn] cho rằng tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và không có nguyên âm ba[2], gồm: /i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo/.

Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đơn:

Nguyên âm đơn
/i/
  • thông thường i: /si/ = .
  • thỉnh thoảng y: /mi/ = Mỹ.
  • luôn là y nếu
    1. bắt đầu một chữ Hán Việt: /iɜw/ = yêu .
  • (Chú ý là cả iy đều cũng có thể dùng biểu thị cho /j/.)
/e/
  • ê
/ɛ/
  • e
/ɨ/
  • ư
/əː/
  • ơ
/ɜ/
  • /ɜ/
/ɐː/
  • a
/ɐ/
/u/
  • u
/o/
  • ô
/ɔ/
  • o
 

Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đôi và ba:

Nguyên âm đôi & ba
Phát âm Cách viết Phát âm Cách viết
Nguyên âm đôi
/uj/ ui * /iw/ iu **
/oj/ ôi * /ew/ êu **
/ɔj/ oi * /ɛw/ eo ***
/əːj/ ơi * /əːw/ ơu **
/ɜj/ ây, ê * /ɜw/ âu, ô **
/ɐːj/ ai * /ɐːw/ ao ***
/ɐj/ ay, a * /ɐw/ au, o **
/ɨj/ ưi * /ɨw/ ưu **
/iɜ/ ia, ya, iê, yê /uɜ/ ua, uô
/ɨɜ/ ưa, ươ    
Nguyên âm ba
/iɜw/ iêu, yêu ** /uɜj/ uôi *
/ɨɜj/ ươi * /ɨɜw/ ươu **
* Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) i.
** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) u.
*** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) o.
/iɜ/
  • ia nếu không có phụ âm nằm sau /miɜ/ = mía
  • nếu có phụ âm nằm sau /miɜŋ/ = miếng
  • thay i bằng y tại đầu từ hoặc sau môt chữ cái nguyên âm:
    • ya: /xwiɜ/ = khuya
    • : /xwiɜn/ = khuyên; /iɜn/ = yên

/uɜ/

  • ua nếu không có phụ âm nằm sau /muɜ/ = mua
  • nếu có phụ âm nằm sau /muɜn/ = muôn

/ɨɜ/

  • ưa nếu không có phụ âm nằm sau /mɨɜ/ = mưa
  • ươ nếu có phụ âm nằm sau /mɨɜŋ/ = mương
 

Phụ âm

Chữ ghép "GH" và "NGH" được dùng thay "G" và "NG" ngay trước "I", để tránh nhầm lẫn với chữ ghép "GI". Vì lý do lịch sử, chúng cũng được dùng trước "E" và "Ê".

Đa số các phụ âm được dùng giống như trong nhiều ngôn ngữ dùng chữ cái latinh khác, với các ngoại lệ:

  • "CH" là âm vòm tắc vô thanh [c] hay âm tắc sát [tɕ].
  • "Đ" đọc giống "D" như trong nhiều ngôn ngữ, nhưng có thể có thêm âm tắc cổ họng vô thanh ngay trước hoặc cùng lúc phát âm phụ âm này.
  • "D" đọc giống [z] (tuy nhiên phương ngữ Nam đọc giống [j]).
  • "QU" đọc giống [k] (tuy nhiên phương ngữ Nam đọc giống [w]).
  • "GI" đọc giống [j] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống [z]).
  • "V" đọc giống [v] (tuy nhiên phương ngữ Nam đọc giống [j]).
  • "KH" là âm vòm mềm sát vô thanh [x] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống {{IPA[kʰ]}}).
  • "NG" là âm vòm mềm mũi [ŋ].
  • "NH" khi đứng đầu chữ là âm vòm mũi [ɲ], khi đứng cuối chữ là [ŋ] (tuy nhiên phương ngữ Nam là [n]).
  • "R" đọc giống [ʐ] hay [ɹ] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống [z]).
  • "S" đọc giống [ʂ] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống [s]).
  • "PH" đọc giống [f].
  • "TH" là âm hơi [tʰ].
  • "TR" đọc giống [tʂ] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống {{IPA[c]}}).

Cấu trúc

Một đơn vị từ tiếng Việt chỉ chứa một âm tiết. Mỗi đơn vị từ chứa nhiều nhất là bốn phần:

  1. Phụ âm đầu (có thể không có)
  2. Âm đệm (o hoặc u) (có thể không có, có thể cùng thanh điệu trong một số trường hợp)
  3. Âm chính (nguyên âm) cùng thanh điệu (luôn có)
  4. Âm cuối (có thể không có; là phụ âm như c, ch, m, n, ng, nh, p, t hoặc bán nguyên âm như i/y, o, u).

Thanh điệu

Tiếng Việtngôn ngữ thanh điệu, nghĩa là nghĩa của một từ phụ thuộc vào thanh điệu của từ đó. Có sáu thanh điệu; trong đó thanh ngang không ghi dấu phụ, còn các thanh khác có dấu phụ ghi tại nguyên âm.

Thanh điệu Dấu phụ Nguyên âm mang dấu phụ
Ngang Không có A/a Ă/ă Â/â E/e Ê/ê I/i O/o Ô/ô Ơ/ơ U/u Ư/ư Y/y
Huyền Dấu huyền À/à Ằ/ằ Ầ/ầ È/è Ề/ề Ì/ì Ò/ò Ồ/ồ Ờ/ờ Ù/ù Ừ/ừ Ỳ/ỳ
Sắc Dấu sắc Á/á Ắ/ắ Ấ/ấ É/é Ế/ế Í/í Ó/ó Ố/ố Ớ/ớ Ú/ú Ứ/ứ Ý/ý
Hỏi Dấu hỏi Ả/ả Ẳ/ẳ Ẩ/ẩ Ẻ/ẻ Ể/ể Ỉ/ỉ Ỏ/ỏ Ổ/ổ Ở/ở Ủ/ủ Ử/ử Ỷ/ỷ
Ngã Dấu ngã Ã/ã Ẵ/ẵ Ẫ/ẫ Ẽ/ẽ Ễ/ễ Ĩ/ĩ Õ/õ Ỗ/ỗ Ỡ/ỡ Ũ/ũ Ữ/ữ Ỹ/ỹ
Nặng Dấu nặng Ạ/ạ Ặ/ặ Ậ/ậ Ẹ/ẹ Ệ/ệ Ị/ị Ọ/ọ Ộ/ộ Ợ/ợ Ụ/ụ Ự/ự Ỵ/ỵ

Trong các nguyên âm đôi và ba có ít nhất hai cách đặt dấu phụ lên chúng, trong đó một cách ("cách mới") dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học.

Trong xếp thứ tự chữ cái, các chữ cái được ưu tiên, tiếp sau là thanh điệu, và sau cùng là chữ hoa/chữ thường. Quá trình ưu tiên này được thực hiện lần lượt trên các âm tiết. Ví dụ một từ điển sẽ xếp "tuân thủ" trước "tuần chay".

Phát âm

Cách phát âm theo tên gọi có từ lúc Alexandre de Rhodes truyền bá chữ quốc ngữ, còn cách phát âm theo phiên âm có từ sau năm 1945.

STT Chữ cái Tên gọi
1 A/a a
2 Ă/ă á
3 Â/â
4 B/b bê, bờ, bê bò[3]
5 C/c xê, cờ
6 D/d dê, dờ
7 Đ/đ đê, đờ
8 E/e e, ơ[4]
9 Ê/ê ê
10 G/g giê, gờ
11 H/h hát, hờ
12 I/i i, i ngắn[5]
13 K/k ca
14 L/l lờ, e-lờ, lờ cao[6]
15 M/m em, mờ, em-mờ
16 N/n en, nờ, en-nờ, nờ thấp[7]
17 O/o o
18 Ô/ô ô
19 Ơ/ơ ơ
20 P/p pê, pờ, bê phở[8]
21 Q/q quy, cu, quờ
22 R/r e-rờ, rờ
23 S/s ét, sờ, ét-xì, sờ nặng[9]
24 T/t tê, tờ
25 U/u u
26 Ư/ư ư
27 V/v
28 X/x ích-xì, xờ, xờ nhẹ[10]
29 Y/y i dài[11]

Lịch sử

Tự điển in năm 1651 bằng ba thứ tiếng Việt-Bồ-La của giáo sĩ Đắc Lộ

Thời kỳ đầu

Chữ Quốc ngữ được phổ biến sâu rộng và định chế vào khoảng thế kỷ 1920 nhưng đã xuất hiện phôi thai từ lâu vào khoảng thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây phương đầu tiên đến Việt Nam và giao tiếp với người Việt rồi vì nhu cầu học hỏi ngôn ngữ Việt (lúc đó còn dùng chữ Hán và chữ Nôm) để giao tiếp với người bản xứ mà bắt đầu ghi lại bằng cách phiên âm tiếng Việt dưới dạng chữ La tinh. Trước tiên là giáo sĩ Bồ Đào Nha dòng Phanxicô; kế đến là giáo sĩ Tây Ban Nha dòng Đa Minh[12] rồi dòng Tên. Sang thế kỷ 17 thì số văn tịch ghi lại dấu vết loại chữ này càng nhiều, kèm theo những biến đổi hoàn chỉnh với ký hiệu thanh giọng thêm chính xác. Tên tuổi những giáo sĩ đã tiên phong góp công trong việc hoàn chỉnh lối chữ này gồm có Gaspar do Amaral, Antonio BarbosaFrancisco de Pina.[13]

Giáo sĩ Đắc Lộ (tức Alexandre de Rhodes) người Pháp được coi là người có công nhiều trong việc định chế chữ quốc ngữ qua cuốn tự điển phiên âm Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum mà ông soạn và in ra năm 1651. Tuy là người Pháp nhưng ông lại dùng tiếng Bồ Đào Nha trong cuốn tự điển cùng những đóng góp của tiếng Ýtiếng Pháp. Soạn giả còn ghi rõ ông mượn dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt.[14].

So sánh ký hiệu thì âm nh theo tiếng Bồ; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng Cổ Hy Lạp.

Các văn bản Công giáo thời kỳ này là tài liệu ghi chép quan trọng về cách phát âm của tiếng Việt cổ. Trong những tài liệu còn lưu trữ được là bản thảo "Manescrito, em que se Prou a, que a forma do Bauptisma Pronunciada em Lingoa Annamica he Verdadeira" do giáo sĩ Giovanni Filippo de Marini (1608-1682)[15] người Ý thuộc dòng Tên, sang đến Đàng Ngoài giảng đạo năm khoảng thập niên 1650, thì lối viết chữ Quốc ngữ ở giai đoạn đó như sau:[16]

Tau rửa mầi nhân danh Cha, ủa Con, ủa Spirite Santo. Tau lấy tên Chúa, tốt tên, tốt danh, tốt tiếng, vô danh, cắt ma, cắt xác, Blai có ba hồn bảy uía, Chúa Bloy Ba Ngôy nhẩn danh...

Thế kỷ 19

Tập tin:Gia Định báo.jpg
Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên dùng chữ Quốc ngữ, ra mắt năm 1865

Một mốc quan trọng của chữ Quốc ngữ là cuốn tự điển của giáo sĩ Jean-Louis Taberd, in năm 1838, căn cứ vào những sửa chữa của Giám mục Bá Đa Lộc.[17]

Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn từ năm 1773 đến 1815 thì hoàn thành, mang tên Dictionarium Annamatico-latinum nhưng chưa được in ra (bản viết tay nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris). Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt Dương hiệp Tự vị (tựa tiếng Latinh cũng giống như cuốn của Bá Đa Lộc là Dictionarium Annamatico-latinum) được in ở Serampore, Ấn Độ. Nó phản ảnh một biến chuyển quan trọng của tiếng Việt trong khoảng thời gian giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 19. So sánh tự điển của Taberd và De Rhodes thì âm "ȸ" biến mất, thay thế bằng âm "v" hoặc "b". Những âm "bl", "ml", "pl", "sl", và "tl" cũng biến mất, thay thế bằng "tr", "nh", "l", "s". Dạng chính tả của chữ Quốc ngữ ở thời điểm này không khác mấy cách viết ngày nay.

Cuốn tự điển có phần phụ lục tựa là "Lời Chúa Tàu và Người Annam vấn đáp cùng nhau" (Dialogus Inter Unum Navis Praevectum et Unum Cocincinensem), trong đó có đoạn như sau:[18]

- Ông đi viếng Quan lớn thì được song thói nước nầy chẳng cho phép thăm đờn bà.

- Tôi cam lòng chìu theo quốc pháp, tôi chẳng có ý làm đều gì nghịch cùng thói phép đất nầy, có tục ngữ rằng: nhập giang tùy khúc nhập gia tùy tục.

Đọc qua, ngoài một số chữ khác biệt cách viết nhưng ý đã rõ, không là trở ngại cho độc giả thế kỷ 21. Tuy nhiên vào thời điểm này phạm vi dùng chữ Quốc ngữ vẫn hạn chế trong việc ghi chép của cộng đồng Công giáo. Ngoài ra đại chúng người Việt không dùng lối chữ này.

Địa vị chính thức

Đơn khai sinh năm 1938Bắc Kỳ có bốn dạng chữ: chữ Quốc ngữ lẫn chữ Nôm cùng dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Nho

Chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm vẫn không được công nhận là văn tự chính thức cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm lấy Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn.[19]

Ngày 1 Tháng Giêng năm 1879 thì lại có lệnh đòi các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn xã Nam Kỳ phải dạy lối chữ này.[19]

Khi Gia Định Báo phát hành, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt, thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy khác ngữ văn ngày nay ví dụ như bản thông báo ngày 22 tháng 12 năm 1888 sau đây:[20]

Sở Thuế Chánh Ngạch. Các người thiếu thuế... đặng hay: các sổ phụ trong tháng Octobre 1888 thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe biển, thuế ghe sông, cùng thuế thân đã lập theo phép để trong tay quan Kho Bạc Sài Gòn và Chợ Lớn hay về việc thâu thuế. Bởi đó sức cho các người ấy phải y theo hạn trong luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ ấy, bằng không thì phải cứ phép mà bắt buộc...

Thế kỷ 20

Khái Hưng một thành phần cột trụ trong nhóm Tự Lực Văn đoàn, giúp phát triển văn chương chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ 20

Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910.[21] Năm 1915 thì kỳ thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28 tháng 12, 1918) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế.[22] Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành phương tiện diễn đạt duy nhất của người Việt trong khi địa vị Chữ Nhochữ Nôm càng mờ nhạt tuy chưa mất hẳn nhưng lui dần vào quá khứ.

Trong khi đó cũng có thành phần theo Nho học nhưng hiểu được giá trị của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội, thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt trước quyền lực của thực dân Pháp. Trong đó có nhóm Đông Kinh nghĩa thục.[23] Việc theo học chữ Quốc ngữ theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.[24]

Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo, phóng sự, bình luận, du ký của những Nam Phong Tạp chí, Đông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyếtthơ mới của nhóm Tự lực Văn đoàn với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác đã chứng minh chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự của người Việt để rồi sau năm 1945 các chính quyền kế thừa đều công nhận lối chữ này.

Vấn đề phiên âm

Phiên âm hay còn gọi là dịch âm tức là đọc và ghi lại các từ ngữ không phải là tiếng Việt bằng các âm tiết có sẵn trong tiếng Việt, có cách phát âm tương tự hoặc gần tương tự. Cho đến hiện nay vẫn tồn tại tranh cãi quanh vấn đề khi nào cần phiên âm từ ngữ không phải là tiếng Việt sang tiếng Việt, khi nào không cần, nếu phiên âm thì sẽ thực hiện như thế nào, viết bằng chữ quốc ngữ ra sao.

Hiện tại có các tranh cãi chủ yếu như sau về phương pháp phiên âm và cách ghi lại bằng chữ quốc ngữ các từ được phiên âm:

  • Có nhất thiết phải căn cứ theo cách đọc trong ngôn ngữ gốc của từ được phiên âm để phiên âm sang tiếng Việt không? Nếu không thể tìm ra được cách đọc trong ngôn ngữ gốc mà chỉ biết được một số cách đọc khác nhau trong một số ngôn ngữ thì nên dựa theo cách đọc của ngôn ngữ nào?
  • Nên viết liền hay viết tách rời có dấu cách hay viết tách rời không có dấu cách các âm tiết của một từ có nhiều âm tiết? Ví dụ như: nên viết là "phốt-pho", "phốtpho" hay "phốt pho"? Nếu viết liền thì làm thế nào để phân biệt các âm tiết, không bị đọc sai. Ví dụ như: "Xuphanuvông" đọc là "Xu-pha-nu-vông" hay "Xu-phan-u-vông"?
  • Với địa danh không phải ở Trung Quốc nhưng lâu nay được mọi người quen gọi bằng tên gọi Hán Việt có cần dịch lại cho sát hơn với tên gọi trong ngôn ngữ gốc không? Ví dụ như Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức vân vân.
  • Với những từ gốc Hán thì trường hợp nào nên phiên âm theo âm Hán Việt, trường hợp nào nên phiên âm theo cách đọc trong tiếng Trung Quốc? Nếu phiên âm theo âm Hán Việt nhưng không thể biết được từ cần phiên âm có âm Hán Việt là gì thì sẽ phải dịch như thế nào?
  • Nếu từ cần phiên âm mang một thanh điệu mà tiếng Việt không có thì từ này khi phiên âm sang tiếng Việt nên cho nó mang thanh điệu gì?
  • Tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Một từ trong tiếng Việt luôn luôn phải mang một thanh điệu nào đó, không có từ không có thanh điệu. Nếu từ được phiên âm không mang thanh điệu thì khi phiên âm sang tiếng Việt có thể cấp phát thanh điệu tùy ý cho chúng được không? Nếu không thì nên mang thanh điệu gì?

Khuyết điểm

Thông thường mỗi chữ cái Latinh biểu thị một âm vị. Trong hệ thống chữ quốc ngữ có một số âm vị của tiếng Việt được ghi lại bằng chữ cái nhị hợp và tam hợp, do hai, ba chữ cái ghép lại mà thành.

So với hai loại văn tự ý âm từng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là chữ Hánchữ Nôm, người đọc và viết chữ quốc ngữ gặp khó khăn hơn trong việc phân biệt nghĩa của các từ đồng âm dị nghĩa vì các từ này hầu hết được viết giống nhau, trong khi đó với chữ Hán và chữ Nôm, các từ đồng âm dị nghĩa thường được ghi lại bằng những chữ khác nhau. Ví dụ như "bàn" trong "bàn bạc" và "bàn ghế" nếu viết bằng chữ quốc ngữ thì đều là "bàn", nếu viết bằng chữ Nôm thì chữ "bàn" trong "bàn bạc" viết khác với chữ "bàn" trong "bán ghế".

Hỗ trợ trên máy tính

Các phông chữ Unicode chứa các chữ cái tiếng Việt; nằm rải rác trong phần "Latin Cơ bản", "Latin-1 Thêm", "Latin Mở rộng-A", "Latin Mở rộng-B", và Latin Mở rộng Thêm.

Chữ quốc ngữ có thể được biểu thị trong ASCII dựa trên quy ước như VIQR. Trước khi Unicode được dùng rộng rãi, các phông chữ TCVN3, VNI, và VISCII cũng đã được dùng để biểu thị tiếng Việt. Ngày nay UTF-8 là mã hóa được dùng rộng rãi trên máy tính cho tiếng Việt.

Nhiều bàn phím máy tính không hỗ trợ việc nhập trực tiếp các ký tự tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự ra đời của các phần mềm cho phép thực hiện các phương pháp nhập ký tự tiếng Việt theo quy ước như Telex, VIQR hay VNI.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Bổ sung F, J, W, Z vào bảng chữ cái?.
  2. ^ Âm vị và các hệ thống âm vị tiếng Việt. Website ngonngu.net. Truy cập 7 tháng 11 năm 2011.
  3. ^ Chỉ sử dụng ở một số nơi để phân biệt với "p".
  4. ^ Trước 1945 do chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, hiện nay ít được sử dụng.
  5. ^ Để phân biệt với "y".
  6. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "n".
  7. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "l".
  8. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "b".
  9. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "x".
  10. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "s".
  11. ^ Để phân biệt với "i".
  12. ^ Vietnam's 400-year Catholic History
  13. ^ Portuguese Pioneers Of Vietnamese Linguistics
  14. ^ Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 185-186
  15. ^ CSCA: SOAS Mission Collection on Malaysia, Singapore, Indonesia, Indochina and Myanmar
  16. ^ Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 157
  17. ^ Hannas, W. C. Asia's orthographic dilemma. Honolulu, HI: University of Hawaii Press, 1997. tr 84-87
  18. ^ Taberd, Jean Louis. Dictionarium Latino-Anamiticum. Serampore, 1838. tr 78
  19. ^ a b Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 374-375
  20. ^ Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 333
  21. ^ Franco-Vietnamese schools
  22. ^ Chương trình giáo dục ở nước ta những thập niên đầu thế kỷ XX và những ông nghè cuối cùng của nền khoa cử phong kiến
  23. ^ Đông Kinh nghĩa thục...
  24. ^ Đông Kinh Nghĩa thục

Liên kết ngoài

(Tiếng Việt)

(Tiếng Anh)

Tham khảo

  • Gregerson, Kenneth J. (1969). A study of Middle Vietnamese phonology. Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, 44, 135-193. (Published version of the author's MA thesis, University of Washington). (Reprinted 1981, Dallas: Summer Institute of Linguistics).
  • Haudricourt, André-Georges. (1949). Origine des particularités de l'alphabet vietnamien. Dân Việt-Nam, 3, 61-68.
  • Nguyen, Đang Liêm. (1970). Vietnamese pronunciation. PALI language texts: Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-87022-462-X
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1955). Quốc-ngữ: The modern writing system in Vietnam. Washington, D. C.: Author.
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1992). Vietnamese phonology and graphemic borrowings from Chinese: The Book of 3,000 Characters revisited. Mon-Khmer Studies, 20, 163-182.
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1996). Vietnamese. In P. T. Daniels, & W. Bright (Eds.), The world's writing systems, (pp. 691-699). New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-507993-0.
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1997). Vietnamese: Tiếng Việt không son phấn. Amsterdam: John Benjamins Publishing Company. ISBN 1-55619-733-0.
  • Pham, Andrea Hoa. (2003). Vietnamese tone: A new analysis. Outstanding dissertations in linguistics. New York: Routledge. (Published version of author's 2001 PhD dissertation, University of Florida: Hoa, Pham. Vietnamese tone: Tone is not pitch). ISBN 0-415-96762-7.
  • Thompson, Laurence E. (1991). A Vietnamese reference grammar. Seattle: University of Washington Press. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1117-8. (Original work published 1965).

Xem thêm