Bắc Síp
|
Cộng hòa Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ
|
|
|---|---|
Tên bản ngữ
| |
| Tổng quan | |
| Vị thế | Quốc gia được công nhận hạn chế |
| Thủ đô và thành phố lớn nhất | Bắc Nicosia (de facto) Nicosia (de jure)[1] 35°11′B 33°22′Đ / 35,183°B 33,367°Đ |
| Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ |
| Vernacular | Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Síp |
| Tên dân cư | Người Thổ Nhĩ Kỳ Síp hoặc người Síp Thổ Nhĩ Kỳ |
| Chính trị | |
| Chính phủ | Cộng hòa bán tổng thống chế đơn nhất |
| Ersin Tatar | |
| Ünal Üstel | |
| Ziya Öztürkler | |
| Lập pháp | Quốc hội |
| Lịch sử | |
| Thành lập | |
| 20 tháng 7 năm 1974 | |
| 1 tháng 10 năm 1974 | |
| 13 tháng 2 năm 1975 | |
| 15 tháng 11 năm 1983[2] | |
| Địa lý | |
| Diện tích | |
• Tổng cộng | 3,355 km2 (hạng unranked) 1,295 mi2 |
| Dân số | |
• Ước lượng 2021 | 382,836[3] |
• Mật độ | 114/km2 (hạng unranked) 295/mi2 |
| Kinh tế | |
| GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2018 |
• Tổng số | 4.234 tỷ đô la Mỹ[4] |
• Bình quân đầu người | 14,942 đô la Mỹ[4] |
| Đơn vị tiền tệ | Lira Thổ Nhĩ Kỳ (₺) (TRY) |
| Thông tin khác | |
| Múi giờ | UTC+2 (Giờ Đông Âu) |
• Mùa hè (DST) | UTC+3 (Giờ mùa hè Đông Âu) |
| Giao thông bên | left |
| Mã điện thoại | +90 392 |
| Tên miền Internet | ct.tr/nc.tr or .tr |
Bắc Síp,[a] quốc hiệu là Cộng hòa Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ,[b] là một quốc gia được công nhận hạn chế[5][6][7] nằm ở phía bắc của đảo Síp. Bắc Síp tuyên bố độc lập vào năm 1983, chín năm sau khi một người Síp gốc Hy Lạp âm mưu một cuộc đảo chính để sáp nhập Síp vào Hy Lạp, kích động Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp. Bắc Síp chỉ được Thổ Nhĩ Kỳ công nhận và lệ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ về kinh tế, chính trị, quân sự. Cộng đồng quốc tế, bao gồm Liên Hợp Quốc và Liên minh châu Âu, chỉ công nhận chủ quyền của Síp trên toàn hòn đảo, bao gồm khu vực hiện do Bắc Síp kiểm soát, nên Bắc Síp là một lãnh thổ đặc biệt của Liên minh châu Âu.[8][9]
Vì không được quốc tế công nhận nên Bắc Síp phụ thuộc vào Thổ Nhĩ Kỳ về kinh tế, chính trị và quân sự.[10][11][12] Lục quân Thổ Nhĩ Kỳ, với sự đồng ý của chính phủ Bắc Síp, duy trì một lực lượng lớn ở Bắc Síp mà Síp, Liên minh châu Âu và cộng đồng quốc tế coi là một lực lượng chiếm đóng. Lực lượng quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ tại Bắc Síp vi phạm luật quốc tế[13] và đã bị Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc lên án nhiều lần.[14]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]1960–1974
[sửa | sửa mã nguồn]1974–1983
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 6 tháng 7 năm 1974, Makarios cáo buộc chính phủ Hy Lạp đang biến Vệ binh Quốc gia Síp thành một lực lượng chiếm đóng.[15] Ngày 15 tháng 7 năm 1974, chính quyền quân sự Hy Lạp và Vệ binh Quốc gia Síp tiến hành đảo chính quân sự lật đổ Makarios và bổ nhiệm Nikos Sampson làm tổng thống mới, một người ủng hộ Síp sáp nhập vào Hy Lạp.[16] Lực lượng đảo chính tuyên bố thành lập "Cộng hòa Hy Lạp Síp".[17][18]
Ngày 15 tháng 11 năm 1983, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ Bắc Síp đơn phương tuyên bố độc lập.[2] Tuyên ngôn độc lập của Bắc Síp bị Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc bác bỏ theo Nghị quyết 541.
1983 – hiện tại
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 10 năm 2020, Ersin Tatar, ứng cử viên Đảng Đoàn kết Dân tộc, trúng cử tổng thống thứ năm, đánh bại tổng thống đương nhiệm Mustafa Akıncı.[19]

Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]Bắc Síp có diện tích 3.355 kilômét vuông (1.295 dặm vuông Anh), tương đương một phần ba diện tích đảo Síp. Bắc Síp cách Thổ Nhĩ Kỳ 75 kilômét (40 hải lý) về phía bắc, cách Syria 97 kilômét (52+1⁄2 nmi) về phía đông. Bắc Síp nằm giữa vĩ độ 34° và 36° N, kinh độ 32° và 35° E.
Chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Bắc Síp là một nước cộng hòa dân chủ đại nghị đa đảng theo bán tổng thống chế. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp. Quốc hội là cơ quan lập pháp đơn viện. Tòa án thực hiện quyền tư pháp độc lập với chính phủ và Quốc hội.
Phân cấp hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Bắc Síp được chia thành năm huyện: Lefkoşa, Gazimağusa, Kyrenia, Güzelyurt, İskele và Lefkoşa. Huyện Lefkoşa được thành lập trên cơ sở tách một phần của huyện Güzelyurt vào năm 2016.[20] Năm huyện lớn được chia thành 12 phân huyện và 28 khu.
Quan hệ đối ngoại
[sửa | sửa mã nguồn]
Chỉ Thổ Nhĩ Kỳ[21][22][23][24] công nhận Bắc Síp là một quốc gia có chủ quyền. Liên Hợp Quốc coi Bắc Síp là một lãnh thổ của Síp bị Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng.[25][26][27] Pakistan và Bangladesh đã cân nhắc công nhận Bắc Síp sau khi Bắc Síp tuyên bố độc lập, nhưng bị Hoa Kỳ đe dọa cắt viện trợ nước ngoài.[28] Liên Hợp Quốc coi tuyên ngôn độc lập của Bắc Síp là không có giá trị pháp lý.[25][29]
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]
Kinh tế Bắc Síp bao gồm các khu vực kinh tế nhà nước, thương mại, du lịch và giáo dục, chủ yếu do ngành du lịch (69% GDP năm 2007) đem lại. Công nghiệp nhẹ đóng góp 22% GDP và nông nghiệp là 9%[30]. Kinh tế dựa trên nền tảng thị trường tự do, với phần lớn các chi tiêu công do Thổ Nhĩ Kỳ giúp.
Do địa vị chính trị của mình cũng như do cấm vận nên Bắc Síp phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ về kinh tế và quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ[31]. Nước này dùng đồng Lira Thổ Nhĩ Kỳ mới như là tiền tệ của mình; điều này làm cho tình trạng kinh tế của nó liên kết với những bất thường của kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ. Toàn bộ hoạt động xuất-nhập khẩu của Bắc Síp đều thực hiện thông qua Thổ Nhĩ Kỳ, trừ khi các mặt hàng được sản xuất tại địa phương, từ nguyên vật liệu có nguồn trong khu vực (hay nhập khẩu thông qua một trong các cảng được công nhận của đảo) khi chúng có thể được xuất khẩu thông qua một trong các cảng hợp pháp.
Vấn đề đảo Síp vẫn tiếp tục ảnh hưởng nặng nề tới sự phát triển kinh tế của Bắc Síp. Cộng hòa Síp, chính thể được các tổ chức quốc tế công nhận đã tuyên bố đóng cửa các sân bay và hải cảng trong khu vực mà chính thể này không có sự kiểm soát có hiệu quả. Mọi thành viên của Liên hiệp quốc và của Liên minh châu Âu tôn trọng việc đóng cửa các sân bay và hải cảng này theo tuyên bố của Cộng hòa Síp. Cộng đồng người gốc Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng Cộng hòa Síp đã sử dụng vị trí và địa vị pháp lý quốc tế của mình để cản trở các mối quan hệ kinh tế giữa Bắc Síp với phần còn lại của thế giới.
Cho dù bị kiềm chế bởi thiếu sự công nhận quốc tế nhưng kinh tế Bắc Síp vẫn có sự phát triển ấn tượng trong vài năm qua. Tốc độ phát triển GDP danh định của kinh tế Bắc Síp trong giai đoạn 2001-2005 là 5,4%; 6,9%; 11,4%; 15,4% và 10,6%[32][33]. Tốc độ phát triển của GDP thực tế trong năm 2007 ước tính khoảng 2%[30]. Sự phát triển này giữ được là nhờ sự ổn định tương đối của đồng lia Thổ Nhĩ Kỳ cũng như bùng nổ trong khu vực giáo dục và xây dựng.
Giai đoạn 2002-2007, tổng sản phẩm quốc gia trên đầu người đã tăng gấp trên 3 lần (tính theo đôla Mỹ)[34]:
- US$ 4.409 (2002)
- US$ 5.949 (2003)
- US$ 8.095 (2004)
- US$ 10.567 (2005)
- US$ 11.837 (2006)
- US$ 14.047 (2007, tạm tính)
Các nghiên cứu của World Bank chỉ ra rằng GDP trên đầu người tại Bắc Síp bằng khoảng 76% của GDP trên đầu người tại Cộng hòa Síp theo các thông số được điều chỉnh theo sức mua tương đương năm 2004 (US$ 22.300 của Cộng hòa Síp và US$ 16.900 của Bắc Síp)[32][33]. Các ước tính chính thức cho GDP trên đầu người theo đôla Mỹ là US$ 8.095 năm 2004 và US$ 11.837 năm 2006[34].
Mặc dù kinh tế Bắc Síp đã phát triển trong những năm gần đây, nhưng nước này vẫn phụ thuộc vào hỗ trợ tài chính của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ. Theo thỏa thuận tháng 7 năm 2006, chính quyền Ankara cung cấp cho Bắc Síp hỗ trợ kinh tế trị giá 1,3 tỷ USD cho ba năm (2006-2008)[30]. Đây là sự tiếp tục của chính sách đang diễn ra mà theo đó chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ rút ra mỗi năm khoảng 400 triệu USD từ ngân sách của mình để hỗ trợ nâng cao mức sống của người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ[35].
Số lượng du khách tới Bắc Síp giai đoạn tháng 1-8 năm 2006 là 380.000 người[33], so với 286.901 người của giai đoạn tháng 1-8 năm 2003.[36]
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn]Dân tộc tại Bắc Síp (2006)[37]
Theo điều tra dân số do chính quyền Bắc Síp thực hiện đầu năm 2006 thì dân số của Bắc Síp là 265.100 người[38], trong đó phần lớn là người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ và phần lớn còn lại là một lượng lớn những người định cư đến từ Thổ Nhĩ Kỳ. Trong số 178.000 công dân là người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ, 82% là người Síp bản địa (145.000 người). Trong số 45.000 người sinh ra với cha mẹ không phải người Síp, gần 40% (17.000 người) được sinh ra tại Síp. Số người không có quyền công dân, bao gồm sinh viên ngoại quốc, công nhân nước ngoài và những người tạm trú là 78.000[38][39].
Theo ước tính của chính quyền Cộng hòa Síp năm 2001 thì dân số tại đây là 200.000 người, trong đó khoảng 80.000-89.000 là người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ và 109.000-117.000 là dân Thổ Nhĩ Kỳ định cư[40]. Điều tra dân số trên toàn đảo năm 1960 chỉ ra số lượng người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ là 102.000 và người Síp gốc Hy Lạp là 450.000[41]. Các ước tính thông báo rằng 36.000 (khoảng 1/3) người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ đã di cư trong giai đoạn 1975-1995, với hậu quả là trong phạm vi Bắc Síp thì người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ bản địa đã bị thua sút về số lượng so với số lượng người đến định cư từ Thổ Nhĩ Kỳ[40].
Tại Bắc Síp gần như mọi người đều nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, tiếng Anh cũng được sử dụng rộng rãi như là ngôn ngữ chính thức thứ hai. Nhiều người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ cao tuổi cũng có thể nói và hiểu tiếng Hy Lạp - thậm chí một số người còn có thể được coi là những người nói tiếng bản địa của người Síp gốc Hy Lạp.
Tại đây có một lượng nhỏ người Síp gốc Hy Lạp và người Maronit (khoảng 3.000), sinh sống trong khu vực Rizokarpaso (Dipkarpaz) và Kormakitis. Trước năm 1974, Rizokarpaso chủ yếu là người Síp gốc Hy Lạp sinh sống. Trong cuộc xâm chiếm Síp của Thổ Nhĩ Kỳ năm 1974, bán đảo nhỏ này bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ chia cắt và điều đó ngăn không cho những người Síp gốc Hy Lạp tại đây có thể di cư về phía nam. Kết quả là Rizokarpaso trở thành nơi có lượng người Síp gốc Hy Lạp lớn nhất tại Bắc Síp.
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]99% dân số Bắc Síp theo Hồi giáo Sunni.[42] Bắc Síp là một nhà nước thế tục.[43] Hầu hết dân số thường xuyên uống rượu bia và phụ nữ người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ không trùm đầu; một số chính trị gia đội khăn trùm đầu như một biểu tượng của văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ hoặc theo truyền thống quần áo Hồi giáo.[42] Đàn ông người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ cắt bao quy đầu vì lý do tôn giáo.[44]
Giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2013, 63.765 sinh viên từ 114 quốc gia theo học tại chín trường đại học ở Bắc Síp. Năm 2014, số lượng sinh viên tăng lên 70.004 người, (15.210 người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ; 36.148 người Thổ Nhĩ Kỳ; 18,646 du học sinh).[45][46][47]
Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ /ˈsaɪprəs/ SY-prəss; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Kuzey Kıbrıs.
- ^ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Kuzey Kıbrıs Türk Cumhuriyeti (KKTC).
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ "The Constitution of the Turkish Republic of Northern Cyprus". www.cypnet.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2019.
- ^ a b "Historical Background". Turkish Republic of Northern Cyprus Ministry of Foreign Affairs. Bản gốc lưu trữ 22 tháng 3 2016. Truy cập 3 tháng 4 2016.
- ^ Muhammet İkbal Arslan (ngày 10 tháng 10 năm 2022). "KKTC'nin nüfusu 382 bin 836 olarak hesaplandı" (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Anadolu Agency.
- ^ a b "KKTC Ekonomik Göstergeler Raporu" (PDF). kei.gov.tr. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
- ^ Antiwar.com. In Praise of 'Virtual States', Leon Hadar, 16 tháng 11 năm 2005
- ^ Carter Johnson, Đại học Maryland. Sovereignty or Demography? Reconsidering the Evidence on Partition in Ethnic Civil Wars, 2005
- ^ Emerson, Michael (2004). The Wider Europe Matrix. CPSE. ISBN 9290794690.
- ^ Süddeutsche Zeitung: Nordzypern beendet EU-Isolation, abgerufen am 4. Januar 2013
- ^ Handelsblatt: Nach der verhinderten Wiedervereinigung: EU wird Nordzypern verstärkt helfen Lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2014 tại Wayback Machine, abgerufen am 4. Januar 2013
- ^ Central Intelligence Agency (ngày 8 tháng 10 năm 2013). "Northern Cyprus". The CIA World Factbook 2014. Skyhorse Publishing. tr. 691. ISBN 978-1-62873-451-5. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2015.
The Turkish Cypriots are heavily dependent on transfers from the Turkish Government. Ankara directly finances about one-third of the Turkish Cypriot "administration's" budget.
- ^ Boas, Gideon (ngày 1 tháng 1 năm 2012). Public International Law: Contemporary Principles and Perspectives. Edward Elgar Publishing. tr. 177. ISBN 978-0-85793-956-2. Lưu trữ bản gốc 5 tháng 9 2015. Truy cập 20 tháng 6 2015.
For example, the Turkish Republic of Northern Cyprus, located in the northern portion of the island of Cyprus, came about through ... from only one state — Turkey, upon which it is entirely dependent for economic, political and military support.
- ^ James Ker-Lindsay; Hubert Faustmann; Fiona Mullen (2011). An Island in Europe: The EU and the Transformation of Cyprus. I.B. Tauris. tr. 15. ISBN 978-1-84885-678-3.
Classified as illegal under international law, the occupation of the northern part leads automatically to an illegal occupation of EU territory since Cyprus' accession.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênautogenerated22 - ^ Cyprus Mail, 06 July 1974, "Greek Regime Accused by Makarios" Lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2015 tại Wayback Machine "...President Makarios said yesterday the Athens regime bears great responsibility for what has been in Cyprus, and accused the Greek government of trying to introduce dictatorship and turning the national guard into an army of occupation"
- ^ Cook, Chris; Bewes, Diccon (1997). What Happened Where: A Guide to Places and Events in Twentieth-century History. Routledge. tr. 65. ISBN 1-85728-533-6.
- ^ Strategic Review, Volume 5. United States Strategic Institute. 1977. tr. 48.
- ^ Allcock, John B. (1992). Border and territorial disputes. Longman Current Affairs. tr. 55. ISBN 978-0-582-20931-2.
- ^ Agencies, Daily Sabah with (ngày 18 tháng 10 năm 2020). "Ersin Tatar becomes 5th president of the Turkish Republic of Northern Cyprus". Daily Sabah (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2023.
- ^ "Lefke 6. ilçe oldu!" [Lefke became the 6th district!] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Kıbrıs Postası. ngày 27 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ 28 tháng 12 2016. Truy cập 27 tháng 12 2016.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênKurtulus2005 - ^ "Cyprus country profile". BBC News. ngày 23 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 28 tháng 7 2011. Truy cập 14 tháng 2 2014.
- ^ International Chamber of Commerce (ngày 1 tháng 11 năm 2003). Europe Review 2003/04: The Economic and Business Report. Kogan Page Publishers. tr. 79. ISBN 978-0-7494-4067-1. Lưu trữ bản gốc 5 tháng 9 2015. Truy cập 20 tháng 6 2015.
The Turkish Cypriot-dominated north is the Turkish Republic of Northern Cyprus' which elects its own government and is recognised only by Turkey.
- ^ The CIA World Factbook 2010. Skyhorse Publishing Inc. 2009. tr. 182. ISBN 978-1-60239-727-9. Lưu trữ bản gốc 6 tháng 9 2015. Truy cập 20 tháng 6 2015.
the formation of a "Turkish Republic of Northern Cyprus" ("TRNC"), which is recognized only by Turkey
- ^ a b "Permanent Mission of the Republic of Cyprus to the United Nations —". Un.int. Bản gốc lưu trữ 6 tháng 5 2012. Truy cập 14 tháng 2 2014.
- ^ Scott Leckie (ngày 28 tháng 5 năm 2007). Housing and Property Restitution Rights of Refugees and Displaced Persons: Laws, Cases, and Materials. Cambridge University Press. tr. 448. ISBN 978-1-139-46409-3. Lưu trữ bản gốc 6 tháng 9 2015. Truy cập 20 tháng 6 2015.
The complaints raised in this application arise out of the Turkish military operations in northern Cyprus in July and August ... This development was condemned by the international community. ... of the establishment of the "TRNC" legally invalid and calling upon all States not to recognise any Cypriot State other than the ...
- ^ Quigley (ngày 6 tháng 9 năm 2010). The Statehood of Palestine. Cambridge University Press. tr. 164. ISBN 978-1-139-49124-2. Lưu trữ bản gốc 6 tháng 9 2015. Truy cập 20 tháng 6 2015.
The international community found this declaration invalid, on the ground that Turkey had occupied territory belonging to Cyprus and that the putative state was therefore an infringement on Cypriot sovereignty.
- ^ Zaim M. Necatigil (1993). "The Cyprus Conflict in International Law". Trong Clement Henry Dodd (biên tập). The Political, Social and Economic Development of Northern Cyprus. Huntingdon: Eothen Press. 70. ISBN 9780906719183.
It was believed at the time that Bangladesh and Pakistan were also ready to recognize this State, but were persuaded by the US Government to withhold recognition, otherwise US aid to these countries would be cut off.
- ^ "Permanent Mission of the Republic of Cyprus to the United Nations —". Un.int. Bản gốc lưu trữ 28 tháng 8 2003. Truy cập 14 tháng 2 2014.
- ^ a b c CIA - The World Factbook - Cyprus Lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018 tại Wayback Machine: scroll down to section entitled Economy of the area administered by Turkish Cypriots
- ^ "Universities: Little accord on the island - Higher, Education - The Independent". Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2009.
- ^ a b Cyprus after Accession: Thinking Outside the Box – Background Documents Lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2013 tại Wayback Machine, Đại học Oxford, Trung tâm nghiên cứu châu Âu, bộ phận về Síp 10 và ngày 11 tháng 3 năm 2006
- ^ a b c General information about North Cyprus: Economy Lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2014 tại Wayback Machine, web site của Unistar Investments Ltd., Bellapais, Bắc Síp
- ^ a b Economic and Social Indicators 1977-2007 Lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2013 tại Wayback Machine, TRNC State Planning Organization, 2-2008
- ^ Turkey, N. Cyprus sign economic development deal Lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2009 tại Wayback Machine, Hurriyet Turkish Daily News, ngày 4 tháng 5 năm 2007.
- ^ Tourism statistics for the period January-tháng 8 năm 2003: Bộ Kinh tế và Du lịch Bắc Síp
- ^ "Tablo – 8 : Yaş Grubu, Milliyet ve Cinsiyete Göre Sürekli İkamet Eden (de-jure) KKTC Vatandaşı Nüfus. TOPLAM". Lưu trữ bản gốc 14 tháng 3 2016. Truy cập 12 tháng 2 2019.
- ^ a b TRNC General Population and Housing Unit Census 2006, TRNC State Planning Organization, cập nhật ngày 7 tháng 10 năm 2008.
- ^ Simon Bahceli (ngày 15 tháng 2 năm 2007). "Indigenous Turkish Cypriots just over half north's population". Cyprus Mail. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2007.
- ^ a b Trích dẫn theo báo cáo của Euromosaic, một nghiên cứu do Ủy ban châu Âu ủy thác, 120 KB
- ^ Cyprus - SOCIETY
- ^ a b c Kevin Boyle; Juliet Sheen (2013). Freedom of Religion and Belief: A World Report. Routledge. tr. 290. ISBN 978-1-134-72229-7. Lưu trữ bản gốc 25 tháng 2 2017. Truy cập 23 tháng 3 2016.
- ^ Darke 2009, 10.
- ^ Nevzat & Hatay 2009, 911.
- ^ Güsten, Susanne (ngày 16 tháng 2 năm 2014). "Students Flock to Universities in Northern Cyprus". The New York Times. Lưu trữ bản gốc 10 tháng 3 2014. Truy cập 16 tháng 2 2014.
- ^ "Study in North Cyprus". Studyinnorthcyprus.org. Bản gốc lưu trữ 2 tháng 2 2014. Truy cập 14 tháng 2 2014.
- ^ "Üniversitelere 70 bin öğrenci kayıt yaptırdı". Kıbrıs Postası (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). ngày 24 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2025.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Chính thức
- Quóc hội Bắc Síp
- Tổng thống Bắc Síp
- Đại sứ quán tại Ankara Lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2012 tại Wayback Machine
- Ngân hàng Trung ương