Thành viên:Vuhoangsonhn/nháp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cung Hào[sửa | sửa mã nguồn]

Trương Hào (giản thể: 张蚝; phồn thể: 張蚝; bính âm: Zhāng Háo; ? - ?), tên thật Cung Hào (弓蚝), không rõ tên tự, là tướng lĩnh Tiền Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Trương Bình[sửa | sửa mã nguồn]

Cung Hào thời trẻ lực tay hơn người, có thể kéo được cả con trâu đang chạy, lại có khả năng nhảy cao qua cả tường thành. Tướng Hậu Triệu là Trương Bình quý lắm, nhận Hào làm con nuôi.

Năm 352, Hậu Triệu diệt vong, Trương Bình trấn thủ Tịnh Châu, lần lượt thần phục Tiền Tần rồi Tiền Yên để duy trì trạng thái tự trị. Năm 357, Trương Bình đầu hàng nhà Tấn, tuyệt giao với Tần, Yên.

Tháng 2 (ÂL) năm 358, vua Tiền Tần là Phù Kiên quyết định thân chinh đánh Tịnh Châu, lấy Đặng Khương làm tiên phong chiếm lĩnh Phần Thượng. Trương Bình phái Trương Hào cầm quân chống cự. Hai tướng giằng co mười mấy ngày. Đến tháng 3 (ÂL), Phù Kiên dẫn đại quân đến Tịnh Châu, Trương Bình mang hết quân ra khỏi thành giao chiến. Trong trận này, Trương Hào thường một mình một ngựa, hét lớn xung phong vào quân Tần, mấy lần ra vào trận địa. Phù Kiên thấy Hào dũng mãnh, hạ lệnh quân đội bắt sống. Cuối cùng, Trương Hào bị Lã Quang đâm bị thương, bị Đặng Khương bắt sống.

Quân Tịnh Châu thấy Hào bị bắt, đội ngũ tán loạn. Trương Bình cùng thế phải đầu hàng. Trương Hào bởi vậy gia nhập quân Tiền Tần, nhận chức Hổ Bôn trung lang tướng. Phù Kiên vô cùng quý Hào, thường để Hào đi theo hộ vệ, không lâu sau thăng chức Quảng Vũ tướng quân.

Danh tướng Tiền Tần[sửa | sửa mã nguồn]

Trấn thủ Tịnh Châu[sửa | sửa mã nguồn]

Tính cách[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Xung đột bãi Cà Mau (1993)[sửa | sửa mã nguồn]



Lưu Văn Lợi[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Tăng (họa sĩ)[sửa | sửa mã nguồn]

Lê A[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Thị Xuyến[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Tuyển[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Văn Thuận[sửa | sửa mã nguồn]

Lâm Sơn Náo[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Hy Thành Trai[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Chính[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thúc Tuân[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Đăng (kỹ sư)[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Đáng (Tư Huờn)[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Văn Phát[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Văn Mẫn[sửa | sửa mã nguồn]

Văn Ngọc Chính[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Dư Khương[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Liên[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Quang Đông[sửa | sửa mã nguồn]

file:///D:/Download/M%C3%B9a%20Thua%20R%E1%BB%93i_%20Ng%C3%A0y%20H%C4%83m%20Ba%20T%E1%BA%ADp%201%20(NXB%20Ch%C3%ADnh%20Tr%E1%BB%8B%201995)%20-%20Tr%E1%BA%A7n%20B%E1%BA%A1ch%20%C4%90%E1%BA%B1ng_%20525%20Trang.pdf

Nguyễn Chánh Tâm (Chín Hồng)[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thành Nhơn[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tạ Uyên[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Văn Chiêu[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thị Bảy[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xuân Trường (Mười Nhẹ)[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Văn Philippe[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Nhạn[sửa | sửa mã nguồn]

Hà Trọng Hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Anh Điền[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Phối[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Mùi[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Văn Phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Đức Trúng[sửa | sửa mã nguồn]

Quản Trọng Linh[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Khắc Tính[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Kỳ Cẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Thận[sửa | sửa mã nguồn]

Trương Hoàn[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Triêm[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Long Xuyên[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Kim Trung[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Quang Thành[sửa | sửa mã nguồn]

Trương Chí Công[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí)[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Huệ (Thanh Hóa)[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Trung Mưu[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Trung Mưu
Chức vụ
Nhiệm kỳCuối 1936 – Tháng 7, 1937
Tiền nhiệmNguyễn Công Phương
Kế nhiệmNguyễn Trí
Vị trí Việt Nam
Bí thư Liên Tỉnh ủy Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên
Nhiệm kỳCuối 1936 – Tháng 7, 1937
Tiền nhiệmPhạm Xuân Hòa
Kế nhiệmNguyễn Trí
Vị trí Việt Nam
Thông tin chung
Sinh1 tháng 2, 1910
Nghĩa Kỳ, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi
Mất1997
Quảng Ngãi
Nơi ởNghĩa Kỳ, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi
Dân tộcViệt
Đảng chính trịHội Việt Nam Cách mạng Thanh niênĐảng Cộng sản Đông Dương

Phạm Trung Mưu (1910–1997), bí danh Huân, là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi.

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

[1]

[2]

[3]

[4]

[5]

[6]

Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

[7]


Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2019). Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1930-1975). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật.
  • Văn phòng Quốc hội (2016). Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Tập 1 (1946–1960) (PDF). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật.
  • Võ Thanh An; Thái Thị Kim Nga (2015). Kỷ yếu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1930 – 2015). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Võ Văn Hào (24 tháng 7 năm 2020). “Đồng chí Phạm Trung Mưu - Người chiến sỹ cộng sản suốt đời tận tụy phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2023.
  2. ^ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi (7 tháng 1 năm 2020). “Hướng dẫn công tác tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng trong 6 tháng đầu năm 2020”. Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2023.
  3. ^ Võ Thanh An & Thái Thị Kim Nga 2015, tr. 102–103
  4. ^ Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi 2019, tr. 91–2
  5. ^ Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi 2019, tr. 94
  6. ^ Võ Văn Hào (23 tháng 7 năm 2020). “Đồng chí Phạm Trung Mưu: Người chiến sĩ cộng sản tận tụy phục vụ cách mạng, nhân dân”. Báo Quảng Ngãi. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2023.
  7. ^ Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (10 tháng 7 năm 2019). “Nghị quyết 11/2019/NQ-HĐND về việc đặt tên các tuyến đường, công trình công cộng trên địa bàn thị trấn La Hà và thị trấn Sông Vệ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi”. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

{{Thời gian sống|sinh=1910|mất=1997

[[Thể loại:Người Quảng Ngãi [[Thể loại:Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi [[Thể loại:Hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên [[Thể loại:Huân chương Hồ Chí Minh [[Thể loại:Huân chương Độc lập hạng Nhất [[Thể loại:Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất [[Thể loại:Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam

Khưu Thúc Cự[sửa | sửa mã nguồn]

QUẢNG NAM - NHỮNG TẤM GƯƠNG CỘNG SẢN

Đồng chí Khưu Thúc Cự sinh ngày 15/6/1905 tại làng Khánh Thọ Đông, xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Trước cảnh đất nước chìm trong nô lệ, người dân bị đàn áp, bóc lột và từ truyền thống đấu tranh yêu nước của quê hương đã tác động đến tư tưởng, tình cảm và khởi dậy lòng yêu nước trong người thanh niên Khưu Thúc Cự.

Năm 1923, Khưu Thúc Cự xin vào học lớp nhìn, trường Pháp - Việt (Tam Kỳ). Trong thời gian theo học, đồng chí tham gia vào Hội “Đức Trí thể dục”, tham gia ký đơn xin ân xá cho cụ Phan Bội Châu và tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Khưu Thúc Cự tiếp tục ra học trung học ở trường Quốc học Huế. Năm 1927, bọn tay sai dựa vào cớ Khưu Thúc Cự có tham gia hưởng ứng phong trào học sinh ở Huế bãi khoá, nên chúng đuổi học. Về quê hương, đồng chí vẫn tham gia vận động cách mạng, vừa dạy học ở làng, vừa tiếp tục tuyên truyền về Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cho thanh niên tiến bộ. Tháng 7/1927, đồng chí cùng với số thanh niên đã từng học ở trường học Huế thành lập nhóm đọc sách báo tiến bộ và tổ chức tủ sách lấy tên là “Chiêu Anh thư quán”, truyền bá thơ ca yêu nước, sách báo tiến bộ của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu…

Từ năm 1928-1929, Khưu Thúc Cự vào Nam để tìm đường đi nước ngoài hoạt động nhưng không thành, sau đó hoạt động trong chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Sài Gòn. Tháng 4/930, Khưu Thúc Cự về lại Tam Kỳ bắt mối liên lạc cơ sở, tuyên truyền vận động về Đảng. Tháng 7/1930, đồng chí được Phạm Thâm - Phó Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam giới thiệu kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 10/1930, đồng chí bị địch bắt giam tại nhà lao Phủ Tam Kỳ, sau được thả ra, quản thúc ở địa phương. Tháng 02/939, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, phụ trách địa bàn Tam Kỳ, Thăng Bình và Tiên Phước.

Ngày 14/7/1939, nhân dịp kỷ niệm ngày Cách mạng tư sản Pháp, đồng chí cùng với Phủ ủy Tam Kỳ tổ chức cuộc mít tinh lớn tại chùa Cô Lan, núi Quảng Phú. Sau cuộc mít tinh, đồng chí bị địch bắt và giam ở nhà lao Tam Kỳ, sau đó chúng đưa về giam ở nhà lao Hội An. Sau một thời gian tra tấn không khai thác được gì, tháng 01/1940, địch trả tự do cho Khưu Thúc Cự. Đầu tháng 3/1940, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam được thành lập lại, mặc dù được Võ Chí Công (Võ Toàn) giới thiệu làm Bí thư Tỉnh ủy nhưng đồng chí đã từ chối, chỉ nhận làm Tỉnh ủy viên và sau đó được phân công phụ trách Thăng Bình, Duy Xuyên. Trong khi đang hoạt động xây dựng cơ sở tại Thăng Bình thì đồng chí không may bị bọn mật thám phát hiện và bắt vào ngày 10/8/1940, sau khi khai thác ở phủ Thăng Bình không kết quả, một lần nữa chúng lại đưa đồng chí về giam tại nhà lao Hội An.

Đầu tháng 8/1945, đồng chí tích cực tham gia móc nối cơ sở ở phủ Tam Kỳ, rồi được mời tham gia hội nghị Phủ ủy tại Khương Mỹ để bàn việc khởi nghĩa, thành lập Ban bạo động khởi nghĩa và được cử làm Phó Ban bạo động phủ, phụ trách phủ lỵ Tam Kỳ. Ngày 18/8/1945, khi khởi nghĩa giành chính quyền nổ ra, Nhân dân hầu hết ở các xã của phủ Tam Kỳ đều hưởng ứng sôi nổi, rầm rộ và nhanh chóng giành thắng lợi. Ngày 19/8/1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Tam Kỳ được thành lập, đồng chí được cử làm Phó Chủ tịch, sau đó được trên cử ra làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Duy Xuyên.

Tháng 02/1946, đồng chí được bầu làm đại biểu và trong lần họp thứ nhất Hội đồng nhân dân tỉnh vào tháng 4/1946, được bầu làm ủy viên hành chính tỉnh Quảng Nam. Đến tháng 7/946, được điều sang đặc trách huyện Thăng Bình, Chủ nhiệm Việt Minh huyện. Đến tháng 01/1947, đồng chí được về lại công tác ở Tam Kỳ, chỉ định vào Thường vụ Huyện ủy và lần lượt phân công giữ các cương vị: Chủ nhiệm Việt Minh huyện, Chủ tịch Hội Liên Việt, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chính huyện Tam Kỳ. Ngày 15/12/1950, được cử làm Trưởng Ban đón tiếp ngoại viện kiêm Bí thư Đảng Đoàn và là Hội Trưởng hội Hoa - Liên huyện Tam Kỳ. Tháng 10/1951, đồng chí về công tác ở Ban vận tải Liên khu 5, làm ủy viên Ban kiêm Bí thư chi bộ cơ quan. Từ tháng 12/1952 đến ngày ký hiệp định Giơ-ne-vơ, làm Trưởng phòng ruộng đất, Thư ký Ban Kinh tài Liên khu 5, Bí thư chi bộ Ban kinh tài liên khu 5.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng chí được Liên khu ủy tín nhiệm cử làm Phó Công tố Ủy viên, Bí thư chi bộ Tòa án nhân dân Liên khu 5. Đến tháng 5/1955, được cấp trên cho đi tập kết ra miền Bắc. Từ tháng 7/1955 đến tháng 4/1956, là Bí thư chi bộ, phụ trách công tác tổ chức và hành chính của trường Trung cấp nông lâm Trung ương. Từ tháng 4/1956 đến 1960, làm Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng trường sơ cấp nông lâm Việt Bắc ở Tuyên Quang, rồi Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng trường Sơ cấp Nông lâm Việt Bắc ở Thái Nguyên. Ngày 24/01/1961, đồng chí được điều về công tác ở cơ quan Thanh tra Bộ Nông nghiệp và được bầu làm Bí thư chi bộ cơ quan. Đến cuối năm 1970, đồng chí được Đảng, Nhà nước cho nghỉ hưu theo chế độ.

Ngày 04/01/1992, sau một thời gian chữa trị, nhưng do tuổi cao, sức yếu, đồng chí Khưu Thúc Cự đã từ trần. Đồng chí Khưu Thúc Cự là một trong những cán bộ đầy tâm huyết của đảng và nhân dân, suốt đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thồng nhất đất nước, đồn thời là người cán bộ với những phẩm chất đạo đức cao quý. Nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII Võ Chí Công trong cuốn hồi ký “Trên những chặng đường cách mạng”, trong đó có đoạn nói vài nét về phẩm chất của Khưu Thúc Cự: “Đầu tháng 3 năm 1940, tôi cùng các đồng chí Kim, Huyến, Huỳnh Cự, Khưu Thức Cự họp thành lập Tỉnh uỷ lâm thời. Tôi giới thiệu anh Khưu Thúc Cự làm Bí thư vì anh ấy lớn hơn tôi 5-6 tuổi, học trường Quốc học Huế, do bãi khoá nên bị đuổi, lại vào Đảng sớm hơn tôi, nhưng anh Cự và các anh vẫn cử tôi. Tôi vẫn đề nghị anh Cự nhưng anh không chịu. Thế mới thấy đức tính khiêm tốn và tinh thần vì đại nghĩa của người cộng sản Khưu Thúc Cự thật đáng khâm phục, kính trọng đến nhường nào”.

Hà Vi Tùng[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Ngọc Quế[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Xuân Hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Phấn[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Thanh Biền[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thành Nghi[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Kha[sửa | sửa mã nguồn]

Bùi Trung Lập[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Công Phương[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Duy Hài[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Ngọc Dư[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Hữu Chấp[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Đức Dương[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Vức[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Hiếm[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Tự Nhiên[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Trung Đình (chính khách)[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Đồng[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Tấn Tỏa[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thị Sy[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Đài[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thanh Vân[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Thất Sơn[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Thái Bảo[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Thái Bảo
Chức vụ
Quyền Bí thư Tỉnh ủy An Giang
Nhiệm kỳTháng 7, 1968 – Giữa 1969
Tiền nhiệmVõ Văn Phẩm
Kế nhiệmNguyễn Văn Náo
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳTháng 7, 1971 – Tháng 6, 1974
Tiền nhiệmNguyễn Văn Náo
Kế nhiệmtách tỉnh
(Nguyễn Văn ĐángNguyễn Xuân Trường)
Vị trí Việt Nam
Phó Bí thư Tỉnh ủy An Giang
Nhiệm kỳTháng 12, 1979 – 1986
Bí thư Tỉnh ủyLê Văn Nhung
Vị trí Việt Nam
Thông tin chung
Sinh1 tháng 2, 1910
Long Phú, Tân Châu, An Giang
Mất2008
Dân tộcViệt
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Đông Dương
Con cáiVõ Thanh Khiết
Học vấnTiểu học bản xứ

Võ Thái Bảo (1921–2008), tên thường gọi là Tám Sử, bí danh Võ Quang Sử, Võ Thái, Thái Quang, là một nhà cách mạng và chính trị gia Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy An Giang.

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

[1]

[2]

[3]

[4]

[5]

Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang (1 tháng 7 năm 2011). “Đồng chí Võ Thái Bảo (Quyền Bí thư Tỉnh ủy An Giang đầu năm 1969 - 9/1969) - Bí thư Tỉnh ủy An Giang 12/1971 - 6/1974)”. Tỉnh Đoàn tỉnh An Giang. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2017.
  2. ^ Kim Huê; Việt Oanh (13 tháng 10 năm 2015). “Đảng bộ An Giang qua 9 kỳ Đại hội”. Trang Thông tin điện tử Tuyên giáo An Giang. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2024.
  3. ^ Ban biên tập (14 tháng 1 năm 2019). “Lịch sử mặt trận An Giang”. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2024.
  4. ^ Ban biên soạn 2003, tr. 545
  5. ^ Ban biên soạn 2001, tr. 102

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

{{Thời gian sống|sinh=1910|mất=1997

[[Thể loại:Người An Giang [[Thể loại:Bí thư Tỉnh ủy An Giang [[Thể loại:Huân chương Độc lập hạng Nhất [[Thể loại:Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Mai[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xuân Hòe[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Huy Đảo[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Hữu Ruật[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thị Yên Thảo[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Bá Quy[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thị Bạch Cát[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Thị Minh Châu[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Thị Thắng[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Quang Tặng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Tiết (Sáu Tiết)[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Tiết
Chức vụ
Nhiệm kỳTháng 3, 1946 – Tháng 4 1948
Tiền nhiệmNguyễn Đức Thuận
Kế nhiệmVũ Duy Hanh
Vị trí Việt Nam
Thông tin chung
Sinh1909
Bình Nhâm, Thuận An, Bình Dương
Mất19 tháng 4, 1948
Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương
Dân tộcViệt
Đảng chính trịHội kín Nguyễn An Ninh
Tân Việt Cách mạng Đảng
An Nam Cộng sản Đảng
Đảng Cộng sản Đông Dương
ChaNguyễn Văn Viết
MẹLê Thị Biên
Trường lớpTrường cộng đồng Nam Châu Thành

Nguyễn Văn Tiết (1909–1948), tên thường gọi Sáu Tiết, bí danh Trần Minh Chánh[1], là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I.

Hoạt động cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]

[2]

[3]

[4]

[5]

[6]

[7]

[8]

[9]

[10]

[11]

[12]

[13]


[14]

Hoạt động kháng chiến[sửa | sửa mã nguồn]

[15]

Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

Tại đền Bình Nhâm, nơi Chi bộ cộng sản được thành lập, ông cùng năm đồng chí sáng lập chi bộ được người dân khắc tên thờ tự.[16]

[17]


[18]

[19] [20] [21]

[22]

[23]

[24]

[25]

[26]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ 2003, tr. 63
  2. ^ Hồ Thị Nam (31 tháng 1 năm 2013). “Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Tiết (1946-1948): Một lòng sắc son vì nước, vì dân”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  3. ^ Hồng Thuận (29 tháng 5 năm 2021). “Đồng chí Nguyễn Văn Tiết: Người con trung hiếu của đất Bình Nhâm”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  4. ^ P.V (2 tháng 2 năm 2016). “86 mùa xuân vững bước dưới cờ Đảng quang vinh – Bài 8”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  5. ^ Tiểu Liên (23 tháng 11 năm 2020). “Quân, dân Thủ Dầu Một hưởng ứng khởi nghĩa Nam kỳ”. Báo Quân khu 7. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  6. ^ Thu Thảo (30 tháng 1 năm 2019). “Một lòng vì nước, vì dân - Bài 1”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  7. ^ Thu Thảo (31 tháng 1 năm 2019). “Một lòng vì nước, vì dân - Bài 2”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  8. ^ Thu Thảo (1 tháng 2 năm 2019). “Một lòng vì nước, vì dân - Bài cuối”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  9. ^ Quỳnh Như (9 tháng 12 năm 2019). “Thêm nhiều điều thú vị về người con trung hiếu của đất Bình Nhâm”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  10. ^ Bùi Viết Hùng (13 tháng 12 năm 2022). “Lực lượng vũ trang Bình Phước phát huy truyền thống 77 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành”. Báo Bình Phước. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  11. ^ Công Danh (17 tháng 12 năm 2019). “Nguyễn Văn Tiết – Bí thư Tỉnh Ủy Thủ Dầu Một Tấm gương cách mạng trong sáng để thế hệ trẻ soi rọi bản thân”. Cổng thông tin điện tử thành phố Thuận An. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  12. ^ Trần Hạnh Minh Phương (18 tháng 1 năm 2020). “Chân dung nhà cách mạng Nguyễn Văn Tiết (1909 - 1948) qua lời kể của người thư ký Ngô Văn Hòa”. Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  13. ^ Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương 2003, tr. 45
  14. ^ Trần Thanh Đạm (25 tháng 7 năm 2012). “Chi đội 1, Thủ Dầu Một thành lập và chiến công phá "Chiến khu" Quốc gia Bình Quới Tây của địch”. Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  15. ^ Đình Hậu (6 tháng 1 năm 2016). “Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh: Phấn đấu làm tròn trách nhiệm nhân dân giao phó”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  16. ^ Hồ Văn (16 tháng 1 năm 2023). “Về thăm đền Bình Nhâm”. Báo Quân khu 7. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  17. ^ Thục Văn (9 tháng 2 năm 2023). “Bình Nhâm nơi thành lập tổ chức cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Dương”. Báo Quân khu 7. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023. Kiểm tra giá trị |url lưu trữ= (trợ giúp)
  18. ^ Trần Thanh Đạm (26 tháng 7 năm 2012). “Văn bia cách mạng Bình Nhâm, bản anh hùng ca chiến đấu của nhân dân Thuận An, Bình Dương”. Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  19. ^ Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ 2003, tr. 33
  20. ^ Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ 2003, tr. 46
  21. ^ Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ 2003, tr. 103
  22. ^ Trưởng ban (5 tháng 1 năm 2016). “Điều lệ Giải báo chí Nguyễn Văn Tiết - tỉnh Bình Dương”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  23. ^ Thục Văn; Dương Huyền (21 tháng 11 năm 2023). “Niềm tin yêu ở ngôi trường nhiều năm liền đạt chuẩn quốc gia”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  24. ^ Quỳnh Như (14 tháng 9 năm 2019). “Hội khoa học lịch sử tỉnh: Sẽ tổ chức hội thảo khoa học về đồng chí Nguyễn Văn Tiết”. Báo Bình Dương. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  25. ^ “Nhiều hoạt động kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng trên cả nước”. Tạp chí Tuyên giáo. 21 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  26. ^ Thu Thảo (10 tháng 5 năm 2021). “Bình Dương: Công tác tuyên giáo từ tỉnh đến cơ sở có sự chuyển biến sâu sắc”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.

{{Thời gian sống|sinh=1909|mất=1948

[[Thể loại:Người Bình Dương [[Thể loại:Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một [[Thể loại:Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I


Vũ Ngọc Linh[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung)[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Tấu[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Thôi[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Mạnh Hoan[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Hồng Châu[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xuân Hữu[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Suyền[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Tường Thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh năm 1929. Quê quán: xã Bình Kiến, thị xã Tuy Hòa Chủ tịch HĐND tỉnh nhiệm kỳ 1989-1994 Chức vụ : 4 4

Đinh Thanh Đồng Sinh năm : 1953 Quê quán : Xã Hòa Phong , huyện Tuy Hòa , tỉnh Phú Yên Chức vụ : Chủ tịch HĐND tỉnh nhiệm kỳ 1999-2004

Nguyễn Thành Quang[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh năm : 1948 Quê quán : Xã Hòa Mỹ Đông , huyện Tuy Hòa , tỉnh Phú Yên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên nhiệm kỳ 2001-2005 , Chủ tịch UBND tỉnh từ 1999-2001

Trương Chí Cương[sửa | sửa mã nguồn]

Đoàn Sơ[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Trọng Hoàng[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Nựu[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Khuy[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Đình Thảo[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thiếp (nhà cách mạng)[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Đình Cương[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Hữu Thiều[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Xu[sửa | sửa mã nguồn]

Mai Kính[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Hữu Thái[sửa | sửa mã nguồn]

Đỗ Thị Thao[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Hữu Kháng[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Minh Thắng[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Quang Lâm[sửa | sửa mã nguồn]

Bùi Văn Sưu

Hồ Văn Quỳ

Trần Trung Tam[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Văn Phước[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Việt Cường[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xuân Luyện[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Hữu Duyệt[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Minh Vỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Trịnh Huy Quang[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Văn Hân[sửa | sửa mã nguồn]

file:///D:/Download/TVS_TVDT%20-%20DONG%20THAP%20NHAN%20VAT%20CHI%20TAP%20II%20(H-N).pdf

Nguyễn Đức Tịnh[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Hà[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Tú Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Khắc Quyến[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thanh Vân (công an)[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Thạnh[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu Dương (tướng)[sửa | sửa mã nguồn]

Diêm Vĩnh Minh[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Xuân Độ[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc biệt, ngày 9-10-1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 157/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn, bộ máy tổ chức của Bộ Ngoại giao. Đây là văn bản mang tính pháp quy cao sau Sắc lệnh số 47/SL ngày 7-4-1946 do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao. Nghị định số 157/NĐ-CP quy định chức năng của Bộ Ngoại giao là: “phụ trách công tác ngoại giao và quản lý thống nhất công tác đối ngoại theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích dân tộc trên trường quốc tế, nâng cao địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây ánh đầy đủ trách nhiệm của Bộ trong việc quản lý nhà nước, thực hiện những mục tiêu cơ bản của ngoại giao là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích dân tộc, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng đất nước, nâng cao địa vị của nước nhà trên trường quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ cấu tổ chức của Bộ được Nghị định quy định như sau: - Văn phòng: do đồng chí Phạm Bình thay đồng chí Nguyễn Thương làm Chánh Văn phòng cho tới năm 1964; - Vụ Tổng hợp (trên thực tế Vụ này chưa hình thành, ngày 29-9-1962 bị giải thể, chỉ có một bộ phận trong Văn phòng Bộ thực hiện chức năng tổng hợp); - Vụ Tổ chức Cán bộ: do đồng chí Trần Xuân Độ (1962-1963) và Xuân Độ Hoàng Lương (1964-1966) làm Vụ trưởng; - Vụ Thông tin báo chí: do đồng chí Phan Hiền trước đó là Quyền Vụ trưởng, tới năm 1963 chính thức là Vụ trưởng cho đến năm 1967; - Vụ Lãnh sự: do đồng chí Cao Hồng Lãnh làm Vụ trưởng từ năm 1957 đến 1959, sau đó là đồng chí Trần Cung, và năm 1963, đồng chí Nguyễn Công Truyền làm Vụ trưởng đến năm 1967; - Vụ Lễ tân: do đồng chí Nguyễn Việt Dũng làm Vụ trưởng tới năm 1966; - Vụ Tổ chức quốc tế: lịch sử hình thành Vụ tương đối phức tạp. Sắc lệnh số 47-CP ngày 7-4-1946 đã lập ra Phòng Luật pháp

Lê Viết Thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Nhị Quý[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Đức Thạc[sửa | sửa mã nguồn]

HOÀNG ĐỨC THẠC – NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN LỖI LẠC Hoàng Thị Nhuận Trong số những nhà lãnh đạo cách mạng lỗi lạc người dân tộc Tày trước cách mạng tháng Tám 1945, sau hai đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, phải kể đến đồng chí Hoàng Đức Thạc, có các bí danh để hoạt động cách mạng: Nam Bang, Bác Vọng, Lã Minh Giang (thường gọi là đồng chí Lã). Đồng chí Hoàng Đức Thạc được Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Hoàng Đức Thạc (1905 - 1959), quê ở Kẻ Ngoã, xã Phúc Tăng, tổng Nhượng Bạn, Châu Thanh Lâm (nay là Lam Sơn, Hồng Việt, Hoà An) tỉnh Cao Bằng. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê hiếu học, tuy nhà nghèo, nhưng từ nhỏ Thạc được học chữ Hán, chữ Quốc ngữ đầy đủ, học thuộc những bài thơ yêu nước của Phan Bội Châu… nên khi trưởng thành, tri thức được mở mang, khi có ánh sáng cách mạng rọi tới đã dễ dàng tiếp thu lý luận cách mạng vô sản. Nhân dân thôn Kẻ Ngoã ,như bao thôn xóm miền núi khác, trước cách mạng tháng Tám 1945, sống quằn quại, rên xiết trong xã hội đói nghèo, bị áp bức bóc lột. Tháng 6 năm 1928 Hoàng Đình Giong (Nam Bình), Lê Đoạn Chu (Nam Cao) đến tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước. Hoàng Đức Thạc nhạy cảm với cách mạng, đã tổ chức một số bạn đến Bó Ghép nghe tuyên truyền và tổ chức đội đánh Tây. Mười thành viên đầu tiên này được huấn luyện, giáo dục, được nghe giảng về “Đường Kách Mệnh”, là hạt nhân của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội” xã Phúc Tăng, được tổ chức vào tháng 6/1992 tại khu rừng Thôm Luông, do Thạc làm tổ trưởng Sau khi ở Cao Bằng thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tại Năm Lìn (1/4/1930), Hoàng Đức Thạc được chọn cử sang Long Châu (Trung Quốc) dự lớp học chính trị do Nam Bình (Hoàng Đình Giong) giảng dạy. Trước ngày mãn khoá, Hoàng Đức Thạc với bí danh Nam Bang được kết nạp vào Đảng cộng sản ngày 30/4/1930 Với nhiệm vụ đảng viên, trở về quê, anh phải lo phát triển Đảng. Nam Bang đã tổ chức nhiều cuộc họp tổ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội xã Phúc Tăng để nghiên cứu thêm về chủ nghĩa cộng sản, về cách mệnh thế giới, về việc đánh đổ đế quốc phong kiến, giải phóng giai cấp cần lao. Hai đồng chí Nam Bình và Nam Cao đã họp cùng với Nam Bang phân tích, chọn lựa lấy phần tử ưu tú trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội để kết nạp vào Đảng cộng sản.

Ngày 6/6/1930 chi bộ Đảng Cộng sản Phúc Tăng được thành lập tại khu rừng Thôm Luông dưới sự chỉ đạo của hai đồng chí Nam Bình và Nam Cao. Chi bộ có Nam Bang (Hoàng Đức Thạc - bí thư), Cao Chấn (Hoàng Đức Nghị), Cao Hưng (Hoàng Đức Ba). Bên cạnh chi bộ Đảng, Nam Bang quan tâm phát triển Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Tổ chức này là trợ thủ đắc lực mà cũng là nguồn phát triển Đảng. Nam Bang giao cho các thành viên trong tổ chức phát triển thêm hội viên, giác ngộ quyền lợi của giai cấp hoặc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng đánh Tây… trong các buổi hội họp công khai hợp pháp như hội họ bạn, hội phường làng, các tổ chức đá bóng… Hội còn vận động và tổ chức các lớp học chữ quốc ngữ, tuyên truyền chống mê tín dị đoan. Cho nên cuối năm 1932, chi bộ phát triển Đảng trong địa phương cộng với số đảng viên ở chi bộ Long Châu (Trung Quốc) giới thiệu về, chi bộ Phúc Tăng đã có 18 đảng viên.

Tháng 7 năm 1933, đồng chí Lê Hồng Phong, đại diện Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương, từ nước ngoài về Cao Bằng (Ngườm Sưa) kiểm tra phong trào, đã công nhận Đảng bộ Cao Bằng. Đến lúc này trong tỉnh đã có nhiều chi bộ Đảng như: Nặm Lìn, Phúc Tăng, Tĩnh Túc, Xuân Phách, Sóc Hà, Kế Trang, Bà Đông, Hoà Ninh, Chí Thảo, Phạc Siến…. Ngoài ra còn có thêm các tổ chức chính trị của quần chúng được hình thành và có nhiều hoạt động cách mạng sinh động, phong phú. Riêng ở Phúc Tăng quê hương của Nam Bang đã thành lập Nông hội đỏ, đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ giải phóng. Vì vậy, một Ban tỉnh uỷ đã được cử ra, gồm: Tú Hưu (Hoàng Văn Nọn - bí thư), Nam Bang (Hoàng Đức Thạc phó bí thư), Nam Cao (Lê Đoạn Thu) Với châu Thạch Lâm, cũng năm 1933, tại cuộc hội nghị gồm đại biểu Tổng uỷ các tổng họp tại Nà Vàn (Phúc Tăng) đã bầu ra ban châu uỷ Thạch Lâm (nay là Hoà An) do Nam Cao làm bí thư, Nam Bang phó bí thư, và Đình Cứu (Lê Văn Thiên).

Từ ngày gia nhập Đảng dù là bí thư chi bộ, phó bí thư châu uỷ, hoặc phó bí thư tỉnh uỷ, Hoàng Đức Thạc đã luôn luôn năng động, cùng tập thể lãnh đạo đề ra phương hướng nhiệm vụ hoạt động từng thời kỳ. Tại hang Kéo Lứng năm 1932, họp cùng Hoàng Đình Giong, được nhận thức thêm, sâu sắc hơn về vai trò các tổ chức cách mạng cũng như cách mạng phải bạo lực,Hoàng Đức Thạc đã tích cực tổ chức xuất bản tờ báo cờ đỏ (ở hang Bó Ghép rồi sau chuyển về hang Tốc Rù) để tuyên truyền giác ngộ quần chúng, xây dựng tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng, đã tích cực mở lò đúc tạc đạn ở Gốc Minh xóm Bản Nưa bước đầu thành công. Hoàng Đức Thạc đã cùng tập thể Tỉnh uỷ, Châu uỷ tổ chức cuộc biểu tình chống thuế (tháng 5/1932), biểu tình chống phu (hai lần năm 1933) tổ chức rải truyền đơn (tháng 5/1934) thành công đã làm nức lòng quần chúng cách mạng, làm cho họ thêm tin tưởng ở lực lượng cách mạng. Cuộc bạo động ở nhà máy điện Tà Sa tuy thất bại nhưng cũng rút ra được bài học kinh nghiệm về tổ chức đấu tranh cách mạng. Đặc biệt mùa xuân 1935 Hoàng Đức Thạc chỉ đạo cụ thể, bố trí để đồng chí Hoàng Đình Giong đi Ma Cao (Trung Quốc) dự đại hội Đảng lần thứ nhất thành công. Sau nhiều cuộc biểu tình nổ ra cũng như vụ rải truyền đơn cách mạng, đế quốc rình rập bắt những người cầm đầu phong trào. Hoàng Đức Thạc vẫn được quần chúng bảo vệ an toàn. Nhưng sau một thời gian, khi Hoàng Đình Giong đi họp ở nước ngoài chưa về, đồng chí Tú Hữu (bí thư Tỉnh uỷ) lên đường chuẩn bị dự hội nghị quốc tế ở Matxcơva, Ban tỉnh uỷ cử hai cán bộ về Hà Nội liên lạc với Xứ uỷ Bắc kỳ để thỉnh thị công tác, đã bắt mối nhầm phải mật thám tay sai Pháp, chúng tổ chức truy lùng bắt bớ nhiều cán bộ lãnh đạo. Đảng bộ Cao Bằng bị tổn thất nặng nề.

Vừa bước sang năm 1936, Hoàng Đình Giong (Uỷ viên Trung ương Đảng) trong chuyến công tác tại Hải Phòng đã bị đế quốc bắt. Đế quốc tăng cường khủng bố, đàn áp cách mạng. Ban tỉnh uỷ được củng cố lại: Lê Mới (bí danh khác của Nam Cao) được cử làm bí thư, Bác Vọng (bí danh khác của Nam Bang) làm phó bí thư, Cao Cường (Dương Công Hoạt), Hoàng Tô (Hoàng Văn Chài…) Tỉnh uỷ củng cố lại các Ban châu uỷ mới, các tổ chức chính trị của quần chúng được củng cố và bầu ra Ban chấp hành, giữ vững phong trào bí mật, trung thành với cách mạng, với đoàn thể. Đang lúc tỉnh uỷ khó khăn, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng cử đồng chí Hoàng Văn Thụ vào Cao Bằng chỉ đạo phong trào. Tỉnh uỷ một mặt củng cố an toàn khu căn cứ địa trên dãy núi đá Kế Trang - Phúc Tăng, một mặt chỉ đạo xây dựng an toàn khu ở tổng Thông Nông cho đồng chí Hoàng Văn Thụ và tỉnh uỷ qua lại hoạt động. Tình hình thế giới lúc này có nhiều biến chuyển.

Trực tiếp ảnh hưởng tới tình hình nước ta là tháng 4/1936, Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử ở Pháp, cộng thêm trước sự đấu tranh của Động Cộng sản Pháp và cao trào chống phát xít của nhân dân Pháp, chính phủ Lêông BLum phải thi hành một số điểm rất quan trọng trong cương lĩnh của mặt trận (như thả nhiều chính trị phạm, thành lập uỷ ban điều tra tình hình các nước thuộc địa, thi hành một số cải cách cho lao động…). Hoàng Văn Thụ mang Nghị quyết trung ương họp tháng 7/1936 (Lê Hồng Phong chủ trì) về quán triệt trong các cấp bộ Đảng ở Cao Bằng từ tỉnh đến châu. Mục tiêu là chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi dân chủ, cơm áo, hoà bình; phương pháp đấu tranh vừa công khai, vừa bí mật. Một phong trào cách mạng dấy lên rầm rộ, khắp nơi trong tỉnh. Lê Mới (bí thư) và Bác Vọng (phó bí thư) cùng Ban tỉnh uỷ năng nổ, phân công nhau đi các cơ sở để chuẩn bị biểu tình đòi cử đại biểu tham gia Đông Dương đại hội, tập hợp các bản dân nguyện “đòi tự do, dân chủ, bình đẳng, thả các tù chính trị….”, đồng thời tích cực chuẩn bị đón phái đoàn chính phủ Pháp (phái đoàn Gôđa) sắp sang điều tra tình hình nước thuộc địa.

Ngày 25/2/1937, Uỷ ban hành động đã lãnh đạo một cuộc biểu tình lớn với hai ngàn người đưa được bản dân nguyện cho Gôda. Thắng lợi của cuộc biểu tình làm nức lòng mọi người. Đảng bộ nâng cao được trình độ vận động tổ chức quần chúng. Quần chúng nhân dân càng tin tưởng vào tinh thần đoàn kết đấu tranh của cách mạng. Từ sau đó, Cao Bằng đua nhau hưởng ứng phong trào truyền bá quốc ngữ, mua và đọc các sách báo tiến bộ. Tháng 4/1937, ở Thạch Lâm cuộc biểu tình chống bắt phu thắng lợi. Bọn đế quốc phản động thuộc địa truy lùng ráo riết những nhà lãnh đạo cách mạng. Hoàng Đức Thạc (Bác Vọng) đã có được an toàn khu gồm các cơ sở vững chắc, tin cậy, là chỗ dựa cho Tỉnh uỷ và các cán bộ hoạt động khi phải rút vào bí mật, nhất là những lúc bị truy lùng (như các nhà cơ sở ở Lũng Hoài, Lũng Đẩy, Tỉnh Giảo, Kéo Đai) trên dẫy núi đá Kế Trang, Phúc Tăng. Đồng bào Mông sống cuộc đời nghèo đói ở trên các triền núi đá đều nghe theo Hoàng Đức Thạc. Đồng chí cử Bình Dương (cán bộ người Tày) cùng Kim Đao (cán bộ người Mông), đi từng Lũng vận động và lấy chữ ký (hoặc điểm chỉ) được 400 người, đòi chính quyền Pháp phải cho người Mông được tự do, bình đẳng, miễn phu, miễn thuế. Cuối tháng 4/1938, Kim Đao lên phủ Thống sứ Bắc Kỳ và hôm sau dự lễ kỷ niệm 1- 5 ở khu Đấu Xảo Hà Nội. Phủ Thống sứ nhận đơn hứa hẹn sẽ gửi giấy về Cao Bằng giải quyết, nhưng sau đó chúng khủng bố, truy lùng người cộng sản. người Mông vẫn vững tin và bảo vệ cách mạng.

Sang năm 1938, chính phủ mặt trận bình dân Pháp do Lêông Blum đứng đầu thay đổi chính phủ do Đalatđiê cầm quyền, chúng thi hành chính sách phản động, phát xít hoá. Nhân dân Cao Bằng đã được giác ngộ nên giữ vững tinh thần đấu tranh kiên cường. Hoàng Đức Thạc chỉ đạo Châu uỷ Thạch Lâm tổ chức dân phu Nặm Vạng biểu tình đòi quyền lợi thắng lợi. Tiếp theo tháng 6/1939, ở Thạch Lâm lại tổ chức biểu tình đấu tranh đòi giảm thuế, chống phụ thu lạm bổ thắng lợi. Đế quốc ở thuộc địa điên cuồng đàn áp, khủng bố bắt bớ nhất là khi tướng Catơru sang làm toàn quyền Đông Dương. Chúng đã tiến hành bắt bớ và tàn sát chiến sĩ cộng sản không tiếc tay. Chúng bắt hàng loạt cán bộ lãnh đạo, đồng chí Lê Mới (Bí thư tỉnh uỷ) cũng sa lưới địch. Tỉnh uỷ chỉ còn Bác Vọng (Hoàng Đức Thạc) luôn luôn bám sát phong trào, giữ vững cơ sở cách mạng. Nhiều cán bộ hoạt động bị lộ đã lên an toàn khu trên căn cứ địa núi đá. Khi tình hình quá gay go, Hoàng Đức Thạc vẫn được các cơ sở cách mạng bảo vệ. Nhưng để tránh tổn thất, Hoàng Đức Thạc chủ trương những cán bộ bị lộ tạm lánh sang Trung Quốc chờ thời. Hôm chia tay bạn hữu, Bác Vọng đọc thơ tiễn:

TỐNG HỮU XUẤT DƢƠNG (Nguyên văn chữ Hán)

Bức bách lâm thời biệt cố hƣơng
Quan tình tranh đấu thậm tƣ lƣờng
Duy trì thị ngã đƣơng chuyên nhiệm
Sự nghiệp thành quân thả xuất dƣơng
Tạm biệt quang âm tinh nguyệt lƣợng
Khải hoàn hữu nhật hội nghê thƣờng
Đoàn viên tất đạt thắng lai ngô
Hiển hách tiêu cao nghĩa bái dƣơng

Bài dịch: TIỄN BẠN XUẤT DƢƠNG

Bức quá tạm thời biệt cố hƣơng
Con đƣờng cách mạng lắm suy lƣờng
Phong trào tôi giữ cùng làng xóm
Công việc anh đành phải xuất dƣơng
Đêm tiễn bắt tay trăng toả sáng
Ngày về ca múa khúc nghê thƣờng
Tƣơng lai thắng lợi ta về hội
Tƣ thế hiên ngang mọi bƣớc đƣờng
(T. A dịch)

Số cán bộ xuất dương này về sau được dự lớp huấn luyện ở Nặm Quang (Trung Quốc) do Chủ tịch Hồ Chí Minh huấn luyện đều trở thành cán bộ đắc lực của Đảng trở về phát triển tổ chức Việt Minh Cao Bằng. Điểm qua phong trào cách mạng Cao Bằng cũng như vai trò lãnh đạo của đồng chí Hoàng Đức Thạc, ta càng hiểu hơn lời kể của đồng chí Vũ Anh viết trong thời kỳ (Những ngày gần Bác) về việc Bác Hồ về nước đầu năm 1941 đã chọn hướng về Cao Bằng. Đồng chí Vũ Anh viết: ”Anh Thụ hoạt động nhiều ở vùng Cao Bằng. Anh đề nghị với Bác nên về hƣớng Cao Bằng. Trình độ giác ngộ của nhân dân dọc biên giới tƣơng đối cao, cán bộ ở đấy cứng. Trƣớc có đồng chí Hoàng Đình Giong. Nay có đồng chí Bắc Vọng (tức đồng chí Lã) lãnh đạo. Cao Bằng có khu di tích ở Sốc Giang, ở Lục Khu và dọc biên giới Việt Trung”. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước (28/1/1941) đặt đại bản doanh ở Pác Bó. Đến cuối tháng 3/1942, Người cho di chuyển cơ quan Trung ương về căn cứ địa Lam Sơn. Trong các đợt huấn luyện công tác Đảng, Người chú ý đặc biệt dìu dắt ba đồng chí Bình Dương, Bác Vọng, Xích Thắng. Các đồng chí đều trở thành cán bộ cốt cán, sau này giữ trọng trách của Đảng. Bác Vọng giữ chức bí thư Tỉnh uỷ Cao Bằng (1942 - 1943), bí thư liên Tỉnh uỷ Cao Bắc Lạng (từ cuối 1943 - 1945)

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ liên tỉnh, Bác Vọng được cử làm chủ tịch UBND lâm thời tỉnh Cao Bằng (6/1945 – 3/1946) đồng thời là bí thư tỉnh uỷ Cao Bằng. Trong kháng chiến Bác Vọng tham gia khu uỷ viên liên khu uỷ Việt Bắc. Năm 1949 tại đại hội II Đảng bộ (tỉnh tại Bản Chá, Phù Ngọc, Hà Quảng) Bác Vọng làm bí thư tỉnh uỷ Cao Bằng (khoá 1949 - 1951), đồng chí Dương Công Hoạt làm phó bí thư. Một thời gian Bác Vọng ốm bệnh phải nghỉ để đi điều trị, đồng chí Dương Công Hoạt nắm quyền bí thư. Năm 1951 lành bệnh trở về, Bác Vọng tham gia thường vụ Tỉnh uỷ. Do thời kỳ hoạt động bí mật quá gian khổ, sức khoẻ Bác Vọng giảm sút phải đi điều trị ở Nam Ninh (Trung Quốc) một thời gian dài. Khi trở về nước, đồng chí Bác Vọng được cử làm bí thư khóa 957 - 1958. Sang năm 1959, lâm bệnh nặng, Bác Vọng mất khi mới 54 tuổi. Hoàng Đức Thạc (Bác Vọng, Lã) là một chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, luôn gắn bó với phong trào cách mạng, có nhiều công lao xuất sắc, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Tháng 9 năm 2005

Nguyễn Thành A[sửa | sửa mã nguồn]

Lò Văn Giá[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thị Lịch[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Chủ[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Ngọc Thu[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Công Bình (Nam Định)[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Đắc Liên[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thi (giáo sư)[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Xy[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Đình Dư[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Đình Nhơn[sửa | sửa mã nguồn]

Mai Văn Hách[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Viết Sinh[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Đình Quỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Nông Ích Đạt[sửa | sửa mã nguồn]

Long Vân[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Đào[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Hữu Tôn[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Văn Đính[sửa | sửa mã nguồn]

Tôn Thị Quế[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Thị Ái[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Duy Cương[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Duy Khanh[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Bái[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Quang Lịch[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Hào Sự[sửa | sửa mã nguồn]

Trịnh Thị Thanh Mão[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Thị Lệ Chi

Lê Thị Ngọc Tiến

Ông già Bá Đỏ

Võ Sạ

Lê Hiến Giản

Tạ Thùy Chi

Lưu Hải Phượng

Lê Văn Hòe

Lý Liễu

Huỳnh Đăng Thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Duy Thông[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xuân Nhĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Văn Định[sửa | sửa mã nguồn]

Vĩnh Mai[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Tống[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Kim Bảng[sửa | sửa mã nguồn]

Cao Sơn Pháo[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn Tài Đoàn[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Thấu[sửa | sửa mã nguồn]

Đỗ Như Dạy[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Đình Bông[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Đình Quỳnh[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Văn Truyền (Hà Nam)[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Văn Quế[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Học[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Đức Thắng[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Đắc Thạnh[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Khắc Tính[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xuân Khanh[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Văn Cần[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Tân Vũ[sửa | sửa mã nguồn]

Tô Xuân Toàn[sửa | sửa mã nguồn]

Doanh Hằng[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Hoành (quan nhà Nguyễn)[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Minh Cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Kpă Thìn[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Tường Loan[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Như Hạnh[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Văn Vi[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Tấn Thọ[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Văn Thới[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng Minh Châu[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Trọng Tuyển[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Hải Phụng[sửa | sửa mã nguồn]

Dương Công Nữ[sửa | sửa mã nguồn]


Nguyễn Viết Quỳnh[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Văn Luân[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Phi Hoanh[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thị Một[sửa | sửa mã nguồn]

Cầm Văn Dung[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Văn Bảy[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Hữu Anh[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Văn Dánh[sửa | sửa mã nguồn]

Đào Sơn Tây[sửa | sửa mã nguồn]

Bùi Cát Vũ[sửa | sửa mã nguồn]

Ung Răng[sửa | sửa mã nguồn]

Võ Quang Anh[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Thành Đại[sửa | sửa mã nguồn]

Ksor Krơn[sửa | sửa mã nguồn]

Thổ phỉ Hà Giang[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến dịch Bắc Tây Nguyên (1954)[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến dịch Bắc Tây Nguyên
Một phần của Chiến cục Đông Xuân 1953–1954 trong Chiến tranh Đông Dương
Thời gian27 tháng 1 năm 195417 tháng 2 năm 1954
Địa điểm
Kết quả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành chiến thắng
Tham chiến

Liên hiệp Pháp

 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Chỉ huy và lãnh đạo
Đệ Tứ Cộng hòa Pháp Henri Navarre
Đệ Tứ Cộng hòa Pháp Jean Gilles
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Chánh
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Bá Phát
Lực lượng
3 Trung đoàn
Lực lượng quân sự địa phương
Tổng cộng 10.000 quân
Thương vong và tổn thất
Theo Việt Nam: 2.000 chết, 310 bị bắt Chưa rõ

Chiến dịch Bắc Tây Nguyên là một chiến dịch quy mô lớn trong Chiến tranh Đông Dương diễn ra ở khu vực Tây Nguyên (phía Pháp gọi là Hoàng triều Cương thổ ở Trung phần) giữa Quân đội quốc gia Việt Nam (Quân đội nhân dân Việt Nam) và Quân đội Liên hiệp Pháp.[1]

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

[2]

[3]

[4]

[5]

[6]

[7]


[8]


[9]

[10]

[11]


Tương quan lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Ban chỉ huy chiến dịch gồm Nguyễn Chánh làm Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch, Nguyễn Bá Phát làm Tham mưu trưởng. Lực lượng tham chiến chia ra hai hướng: Hướng chính gồm hai Trung đoàn chủ lực, một Tiểu đoàn độc lập (của Liên khu 5), một Trung đoàn bộ đội địa phương cùng một số đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích.

Tiểu đoàn 30 chủ lực độc lập do Đoàn Phong làm Tiểu đoàn trưởng, liên đội đặc công , toàn bộ các đơn vị pháo , cối phòng không , phần lớn các đơn vị trinh sát , công binh , thông tin trực thuộc Bộ tư lệnh Liên khu

Hướng thứ yếu Đường 19 - An Khê , lực lượng gồm trung đoàn 120 địa phương Gia Lai , tiểu đoàn 40 chủ lực liên khu , đại đội 11 thuộc tiểu đoàn 59 trung đoàn 803 .

Đồng bào Kinh , Thượng , Nam Trung Bộ đã góp 200.000 dân công ( bằng 6 triệu ngày công ) , 2.000 xe đạp thồ , 1.000 ngựa thồ , hàng chục thớt voi vận chuyển ra mặt trận hơn 1.000 tấn gạo , 50 tấn muối , hàng nghìn trâu , bò , lợn , hàng chục tấn mắm , muối , đường .

  • Trung đoàn 108 chủ lực Liên khu (thành lập tháng 5 năm 1949) do Nguyễn Minh Châu làm Trung đoàn trưởng, Đoàn Khuê làm Chính ủy.
  • Trung đoàn 803 chủ lực Liên khu (thành lập tháng 6 năm 1950[12][13]) do Phan Hàm làm Trung đoàn trưởng[14], Hà Vi Tùng làm Trung đoàn phó, thiếu một đại đội. Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 59 được điều động về hướng An Khê.
  • Tiểu đoàn 30 chủ lực độc lập do Đoàn Phong làm Tiểu đoàn trưởng.


https://ninhhoa.khanhhoa.gov.vn/vi/tin-noi-bat/trung-doan-bo-binh-803-thuoc-su-doan-bo-binh-305-to-chuc-ky-niem-70-nam-thanh-lap-20-6-1950-20-6-2020

https://thangbinh.quangnam.gov.vn/webcenter/portal/thangbinh/pages_tin-tuc/chi-tiet?dDocName=PORTAL467557

https://baodanang.vn/channel/5399/202209/tieu-doan-59-va-chien-thang-don-nhat-3921038/


[19]

[20]

[21]

Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]

[22]

[23]

[24]

[25]

[26]

[27]

[28]

[29]

[30]

[31]

[32]

[33]

[34]

[35]

[36]

[37]

[38]

[39]

[40]

[41]

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

[42]

[43]

[44]

[45]

[46]

[47]

[48]

[49]

Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]

[50]

[51]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]


Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ & Nguyễn Văn Thư 2007, tr. 114-115
  2. ^ Diệp Ninh (7 tháng 5 năm 2021). “67 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-2021): Sức mạnh Việt Nam - tầm vóc thời đại”. Trang thông tin hội đồng lý luận Trung ương. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  3. ^ Nguyễn Thanh Xuân (29 tháng 4 năm 2021). “Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954”. Trang thông tin điện tử Trường chính trị Hoàng Văn Thụ tỉnh Lạng Sơn. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  4. ^ “Tây Nguyên không chỉ là một địa danh”. Trang thông tin Điều hành tác nghiệp Thông tấn xã Việt Nam. 30 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  5. ^ Lê Văn Thành (4 tháng 11 năm 2014). “Chiến thắng An Khê - Bước trưởng thành của LLVT Liên khu 5”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  6. ^ Lê Văn Cử (7 tháng 11 năm 2014). “Các mũi tiến công chiến lược trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  7. ^ Trần Thị Sáu (26 tháng 7 năm 2021). “Tôn vinh Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Báo Kon Tum. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  8. ^ TH (19 tháng 12 năm 2009). “Tinh thần Ngày toàn quốc kháng chiến luôn có ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tạp chí Tuyên giáo. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  9. ^ Vũ Thái Dũng (25 tháng 11 năm 2021). “Công tác dân vận trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ”. Tạp chí Lý luận Chính trị. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  10. ^ Nguyễn Văn Bắc (2020). “Chính sách của thực dân Pháp đối với cá dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” (PDF). Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt. Lâm Đồng: Trường Đại học Đà Lạt. 10 (1): 93–114.
  11. ^ Nguyễn Văn Bắc (2019). “Nỗ lực thể chế hóa quyền lực chính trị ở Tây Nguyên từ thời kỳ thuộc địa đến hậu thuộc địa” (PDF). Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt. Lâm Đồng: Trường Đại học Đà Lạt. 9 (3): 138–156.
  12. ^ “Kỷ niệm 60 năm thành lập Trung đoàn 803 - đơn vị 2 lần Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Báo Nhân Dân. 17 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  13. ^ Dương Đức Dũng (1 tháng 7 năm 2010). “Tiếp các đại biểu cựu chiến binh Trung đoàn 803, Liên khu 5, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết: Những cống hiến, hy sinh của thế hệ đi trước là vô cùng lớn lao”. Báo Công an Thành phố Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  14. ^ Thuở ấy và người anh hùng Nguyễn Chánh
  15. ^ Nguyễn Đăng Lâm (25 tháng 4 năm 2008). “Họp mặt kỷ niệm 60 năm thành lập Trung đoàn 120 Tây Nguyên”. Báo Công an Thành phố Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  16. ^ Trần Đăng (27 tháng 5 năm 2004). “Vĩnh biệt người lính già Trần Kiên!”. Báo Bình Định. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  17. ^ Võ Văn Hào (14 tháng 5 năm 2020). “Ðồng chí Trần Kiên - Người chiến sỹ cộng sản kiên cường, tấm gương mẫu mực hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  18. ^ Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 (1995). Từ Điện Biên Phủ đến Bắc Tây Nguyên (Trung đoàn 96 - trận tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 của Pháp). Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. tr. 25.
  19. ^ Hầu A Lềnh (4 tháng 5 năm 2021). “75 năm đồng hành cùng sự phát triển vùng đồng bào DTTS và miền núi”. Cổng thông tin điện tử Ủy ban Dân tộc. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  20. ^ BQNĐT (23 tháng 2 năm 2022). “Vô cùng thương tiếc đồng chí Phạm Thanh Biền - Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi”. Cổng Thông tin điện tử tỉnh Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  21. ^ Tuấn Anh (7 tháng 5 năm 2022). “Chiến thắng của sức mạnh trí tuệ và lòng dân”. Báo Quảng Ngãi. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  22. ^ “Trận tập kích đồn Đak Đoa năm 1954 của Trung đoàn 803”. Bảo tàng tỉnh Gia Lai. 11 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  23. ^ “Các chiến trường phối hợp với Điện Biên Phủ năm 1954”. Trang thông tin điện tử Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. 23 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  24. ^ “Cuộc hành quân "Atlante". Trang thông tin điện tử Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. 26 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  25. ^ Nguyễn Khắc Trinh (4 tháng 5 năm 2014). “Mặt trận Tây Nguyên trong Đông - Xuân 1953-1954 những trận đối đầu quyết liệt phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ”. Trang thông tin hội đồng lý luận Trung ương. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  26. ^ Dương Hà (4 tháng 5 năm 2019). “Đánh địch giải vây Kon Tum”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  27. ^ Trần Tiến Hoạt (4 tháng 5 năm 2019). “Chủ động giam chân, phân tán chủ lực địch”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  28. ^ Hồ Ngọc Sơn (30 tháng 3 năm 2019). “Chiến trường Liên khu 5 "chia lửa" với Điện Biên Phủ”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  29. ^ Trần Quang Phương (4 tháng 5 năm 2019). “Chiến trường Liên khu 5 "chia lửa" cùng Điện Biên Phủ”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  30. ^ Hồ Ngọc Sơn (22 tháng 4 năm 2014). “Các chiến trường chia lửa với Điện Biên: Vang dội Liên khu 5”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  31. ^ Hồ Ngọc Sơn (23 tháng 4 năm 2014). “Vang dội Liên khu 5 (tiếp theo kỳ trước)”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  32. ^ Hồ Ngọc Sơn (23 tháng 4 năm 2014). “Vang dội Liên khu 5 (Tiếp theo và hết)”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  33. ^ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hoà (2018). “Chương IX: Đánh bại chính sách bình định của địch, phát triển mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh (1953 - 7/1954)”. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (1930 – 2005). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2023.
  34. ^ Ban Thường vụ Thị ủy Ninh Hòa (2018). “Chương IX: Chống chính sách bình định. Phối hợp đánh bại cuộc hành quân Át-lăng của địch. Giải phóng vùng nông thôn huyện góp phần trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 7.1954)”. Lịch sử Đảng bộ thị xã Ninh Hòa (1930 – 1975). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  35. ^ Ngô Đức Hải (14 tháng 4 năm 2020). “Diễn biến, ý nghĩa lịch sử của sự kiện giải phóng thị xã Kon Tum và toàn tỉnh năm 1954”. Trang thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  36. ^ Ngô Đức Hải (19 tháng 3 năm 2020). “Đảng bộ tỉnh Kon Tum: Những dấu mốc lịch sử và các kỳ đại hội”. Trang thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  37. ^ Nguyễn Thanh Quang (3 tháng 5 năm 2021). “Mặt trận Bắc Tây Nguyên và chiến thắng lịch sử Đak Pơ: Ðóng góp quan trọng của hậu phương Bình Ðịnh”. Đảng ủy khối Doanh nghiệp tỉnh Bình Định. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  38. ^ N.H (5 tháng 5 năm 2020). “Chiến trường Liên khu 5 góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ”. Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Bình Định. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  39. ^ “17/2/1954 Kết thúc chiến dịch Bắc Tây Nguyên- hoàn thành một phần trong kế hoạch quân sự Đông- Xuân 1953-1954 của Đảng ta”. Báo An Giang. 17 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2022.
  40. ^ “Vị trí địa lý - địa danh và địa giới hành chính tỉnh Gia Lai”. Báo Gia Lai. 5 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2012.
  41. ^ Huệ; Chính (27 tháng 1 năm 2018). “17/2/1954 Kết thúc chiến dịch Bắc Tây Nguyên- hoàn thành một phần trong kế hoạch quân sự Đông- Xuân 1953-1954 của Đảng ta”. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  42. ^ Vũ Thị Thảo (16 tháng 3 năm 2021). “Ý nghĩa của Ngày Giải phóng tỉnh Gia Lai trong chiến dịch Tây nguyên góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước”. Trang thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Gia Lai. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  43. ^ Nguyễn Thành Hữu (30 tháng 11 năm 2014). “Trận phục kích Đăk Pơ”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  44. ^ Cẩm Trang (26 tháng 12 năm 2019). “Quân dân Đắk Lắk cùng toàn quốc kháng chiến”. Báo Đắk Lắk. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  45. ^ Nguyễn Xuân Sinh (2015). Căn cứ địa ở Nam Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) (PDF) (Luận văn). Huế: Đại học Sư phạm Huế. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  46. ^ Hoàng Thanh (7 tháng 5 năm 2020). “Tự hào một thời "chia lửa" với chiến trường Điện Biên Phủ”. Báo Đắk Nông. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  47. ^ Lâm Tiểu Hà (6 tháng 5 năm 2015). “Góc nhìn mới về vai trò Bắc Tây Nguyên với Điện Biên Phủ - 1954”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  48. ^ Nguyễn Thị Thu Hiền (5 tháng 5 năm 2014). “Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ: Quân và dân Khu 5 "chia lửa" với chiến trường Điện Biên”. Cổng Thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  49. ^ Lê Bá Tuế (16 tháng 7 năm 2018). “Đăk Pơ trong tâm khảm đồng đội ở Quy Nhơn”. Báo Bình Định. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  50. ^ “Niềm mong ước của đồng bào Bắc Tây-Nguyên đã thành sự thật”. Báo Cứu Quốc (2539). Cơ quan Trung ương Mặt trận Liên Việt. 23 tháng 2 năm 1954. tr. 2. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  51. ^ Trần Thị Sáu (15 tháng 3 năm 2021). “Quân và dân Kon Tum trong Chiến dịch mùa Xuân 1975”. Báo Kon Tum. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

[[Thể loại:Trận đánh và chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương|B [[Thể loại:Tây Nguyên

file:///D:/Download/CP111BK120220916153416.pdf

Chiến dịch Trung Lào (1953)[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến dịch Hạ Lào – Đông Bắc Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ Tư lệnh Phân khu Bình-Trị-Thiên sử dụng trung đoàn 101 (Đại đòan 325), một đại đội quân tình nguyện Liên khu V phối hợp với một tiểu đoàn chủ lực Phathét Lào mở chiến dịch Hạ Lào. Trong hơn hai tháng các đơn vị tiến công địch ở vùng cao Nguyên Bôlôven (Lào) và Bắc Stung Treng (Campuchia), loại ... Bộ Tư lệnh Phân khu Bình-Trị-Thiên sử dụng trung đoàn 101 (Đại đòan 325), một đại đội quân tình nguyện Liên khu V phối hợp với một tiểu đoàn chủ lực Phathét Lào mở chiến dịch Hạ Lào. Trong hơn hai tháng các đơn vị tiến công địch ở vùng cao Nguyên Bôlôven (Lào) và Bắc Stung Treng (Campuchia), loại khỏi vòng chiến đấu khoaûng 1.

Bộ Tư lệnh Phân khu Bình-Trị-Thiên sử dụng trung đoàn 101 (Đại đòan 325), một đại đội quân tình nguyện Liên khu V phối hợp với một tiểu đoàn chủ lực Phathét Lào mở chiến dịch Hạ Lào. Trong hơn hai tháng các đơn vị tiến công địch ở vùng cao Nguyên Bôlôven (Lào) và Bắc Stung Treng (Campuchia), loại khỏi vòng chiến đấu khoaûng 1.000 tên, giải phóng một vùng đất rộng lớn, thực hiện phối hợp tốt với các chiên trường trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954.

Nguồn:Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang 2003, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 131.

Nguyễn Đồng Thoại[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Đại Doãn[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Minh Đường[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Phan Hộ[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Văn Chí[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Văn Hiền[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Gia Tú[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Gia Tú (1907 - 2007), sinh tại xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, là cán bộ hoạt động cách mạng từ năm 1931, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy Khu 6, nguyên Chủ tịch Ban đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Khu 6, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận, nguyên Ủy viên Ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam, nguyên Trưởng ban Kiểm tra Khu ủy Khu 6, nguyên Trưởng Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Thuận Hải. Quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Gia Tú đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.

Trần Đình Tẩn[sửa | sửa mã nguồn]

Trương An[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Văn Năm[sửa | sửa mã nguồn]

Sáu Thẹo[sửa | sửa mã nguồn]

Huỳnh Thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Tư Chơi[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Quang Hớn[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Tiền[sửa | sửa mã nguồn]

Ngô Quang Nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Đặng Thị Mành[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Quang Chương[sửa | sửa mã nguồn]


Alexei Borisovich Polyakov[sửa | sửa mã nguồn]

Trận La Ngà[sửa | sửa mã nguồn]

Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]

Nông Văn Lạc[sửa | sửa mã nguồn]

Đặng Đức Thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thái Thú[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Văn Nhã[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Như Hiển