Đàn tranh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Đàn Tranh)
Cổ tranh 21 dây của Trung Quốc
Đàn zither phương Tây
Trình diễn đàn tranh tại Paris

Đàn tranh (chữ Nôm: 彈箏, tiếng Trung: 古箏; bính âm: Gǔzhēng, Hán Việt: cổ tranh) còn được gọi là đàn thập lục hay đàn có trụ chắn, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy; ngoài ra họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây (cổ tranh của Trung Quốc).

Ngoài khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập và ngón đặc trưng nhất là vuốt trên các dây và gảy dây,ngoài ra có cả dạng dùng vĩ kéo hay dùng que gõ. Đàn tranh là nhạc khí dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát và được chơi trong nhiều thể loại âm nhạc như các dàn nhạc dân ca, kết hợp với những ca khúc của C-pop, nhạc Âu Mỹ,...

Trong khi các quốc gia phương Đông có những nhạc cụ nhiều dây như đàn tranh, đàn sắt thì với người phương Tây họ có đàn zither. Vậy nên đàn tranh phương Đông cũng có tầm sánh ngang zither phương Tây, tuy âm điệu của chúng hoàn toàn khác nhau.

Ngoài ra, những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở hầu hết các nước trong khu vực châu Á luôn có một phiên bản mini cho trẻ em và người mới chơi học diễn tấu.

Nguồn gốc lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn sắt được trưng bày tại một bảo tàng ở Trung Quốc
Đàn cổ sắt với bốn trục lớn buộc dây, có niên đại từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên làm bằng gỗ đàn hương, chạm trổ hoa văn trang trí. Các dây đàn và trụ chắn (nhạn đàn) đều bị mất
Đàn cổ tranh của Trung Quốc

Lịch sử của đàn tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc, trước khi đàn cổ tranh ra đời, người Hoa đã chế tạo ra đàn sắt (sắt cầm hoặc cổ sắt) (瑟 hoặc 古瑟 hay 瑟琴 Bính âm: Sè, gǔ sè, Sè qín), có âm vực rộng tới 5 quãng tám.

Đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu. Các mẫu vật còn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc, lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt và đàn cổ cầm, chuông đá (biên khánh) và trống.

Đoàn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại cổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được phát triển từ đàn sắt.

Niên đại về đàn cổ tranh Trung Quốc - có sự khác biệt rất rõ rệt ở phần đuôi đàn và hậu nhạc sơn theo từng thời kỳ

Vì vậy, đôi khi người ta nói rằng cổ tranh về cơ bản là một phiên bản nhỏ hơn và đơn giản hơn đàn sắt rất nhiều. Đàn sắt cũng được trưng bày ở các bảo tàng lịch sử và dân tộc ở Trung Quốc, nhiều nghệ nhân cũng chơi loại đàn này và nếu như có bán ra thị trường thì giá của đàn sắt vô cùng đắt đỏ so với cổ tranh. Chính vì vậy đàn sắt vô cùng hiếm đưa vào sử dụng trong dàn nhạc dân tộc để hoà tấu nên đàn sắt luôn trở thành thứ bị quên lãng. Theo truyền thuyết, Phục Hy đã tạo ra đàn sắt. Và do đó, người ta tin rằng vào thời nhà Hạ, sắt cầm đã ra đời. Cũng có nhiều đề cập trong văn học Trung Quốc, như trong Kinh Thư (Cổ điển của thơ ca) và Luận ngữ của Khổng Tử. Sắt cầm luôn là một nhạc cụ cao cấp. Ngay từ thời nhà Chu, nó đã được sử dụng để chơi nhạc theo nghi thức để cúng tế.

Từ đó cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500 năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổ tranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Có nhiều tài liệu khác nhau về cách cổ tranh xuất hiện. Cổ tranh Trung Quốc được phát minh bởi Mông Điềm, một vị tướng của triều đại Tần (221-206 trước Công nguyên), chịu ảnh hưởng lớn từ đàn sắt. Do đàn sắt tuy có 50 dây nhưng trọng lượng của nó vô cùng nặng nên Mông Điềm mới nghĩ ra một loại nhạc cụ tương tự đàn sắt với kích thước nhỏ hơn đàn sắt, dễ di chuyển và không quá khó khăn khi mang vác, ông gọi thứ đàn đó là đàn tranh hay cổ tranh. Một số người tin rằng cổ tranh ban đầu được phát triển dưới dạng đàn tam giác bằng tre như được ghi lại trong thuyết văn giải tự, sau đó được thiết kế lại và làm từ những tấm gỗ cong lớn hơn và những con nhạn của đàn có thể di chuyển. Một truyền thuyết thứ ba nói rằng xuất hiện khi hai người song tấu với đàn cổ tranh loại 25 dây. Họ đã cải tiến nó thành 16, 17, 18 và 21 dây. Dây đã từng được làm bằng lụa, nhưng dây bằng lụa ngày nay chỉ có dòng đàn tranh của Triều Tiên mới sử dụng. Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây này chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các dây đàn đa vật liệu này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được. Tại Trung Quốc, có ít nhất nửa tá phong cách chơi cổ tranh theo trường phái khu vực riêng biệt; niên đại ít nhất là từ thời nhà Đường, tức là hơn 1.000 năm trước, có hai phong cách chơi đàn tranh riêng biệt: đàn tranh (弹筝, tức gảy đàn tranh với móng giả) và sưu tranh (搊筝 - chơi đàn tranh bằng đầu ngón tay).

Các hoạ tiết trên cổ tranh bao gồm nghệ thuật chạm khắc, sơn mài chạm khắc, khảm xà cừ, tranh, thơ, thư pháp, chạm khắc vỏ (ngọc) và pháp lam.

Phong cách chơi trước tiên được phân chia giữa miền Bắc và miền Nam trước khi được chia nhỏ thành các trường khu vực cụ thể. Các trường phái trong khu vực là một phần của phong cách phương Bắc bao gồm Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn ĐôngChiết Giang. Các trường phái trong khu vực được bao gồm trong phong cách miền Nam bao gồm Triều Châu, Phúc KiếnKhách Gia.

Cũng từ đàn sắt và đàn cổ tranh mà người Trung Quốc còn chế tạo ra hai loại đàn là đàn trúc (筑) do Cao Tiệm Ly chế tác, sử dụng một que để gõ vào dây đàn tương tự đàn tam thập lục, một tay dùng ngón để nhấn dây đàn (chi gõ). Đôi khi đàn trúc cũng được dùng 2 que gõ, ban đầu đàn trúc cũng chỉ vỏn vẹn 5 dây và không có con nhạn như cổ cầm, sau đó được mắc thêm con nhạn và kể từ đó đàn trúc có ba loại: 5 dây, 12 dây và 20 dây (phái trúc - 沛筑) ; ngưu cân cầm (牛筋琴) cũng thuộc đàn tranh chi gõ là loại đàn tranh kích thước từ nhỏ cho tới lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ tương tự đàn trúc. Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chuyên trị dòng nhạc dân ca ở Ôn Châu, Triết Giang và đàn yết tranh (轧筝) có từ thời nhà Đường, sử dụng cây vĩ để kéo (chi kéo) mà du nhập vào bán đảo Triều Tiên trở thành đàn ajaeng (hangul:아쟁, Hanja:牙; Hán Việt: nha tranh). Riêng với người Choang, yết tranh của họ được gọi là tranh ni (琤尼) hay toả cầm (挫琴), nhỏ hơn yết tranh và văn chẩm cầm (文枕琴) - yết tranh cỡ nhỏ chỉ vỏn vẹn 9 dây. Tuy nhiên thì văn chẩm cầm không dùng từng con nhạn rời rạc mà dây đàn của văn chẩm cầm được mắc bới một cầu đàn hình vòng cung. Nếu yết tranh Trung Quốc cũng như ajaeng Triều Tiên kéo theo phương nằm ngang khi đặt đàn thì văn chẩm cầm và tranh ni được đặt dọc để chơi, giống như kéo đàn cello. Cũng chính vì thế mà họ đàn tranh Châu Á ngày càng trở nên phong phú.

Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang, trong đó huyện Bình Dương là cái nôi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây đàn được làm từ gân , trải qua công đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bò, tách sợi, phơi khô nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa, thực tiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành công vào thời Quảng Đông kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm.

Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ đại. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, hội nghị chuyên đề Thanh Châu tỏa cầm do Nhạc viện Trung Quốc tổ chức đã được tổ chức tại Bắc Kinh, đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ ngành công nghiệp âm nhạc về một nhạc cụ đã biến mất trong lịch sử nhạc cụ Trung Quốc cổ đại. Tỏa cầm Thanh Châu đã được tái phát hiện và vẫn có một di sản kỹ năng sống động, làm cho lịch sử của các nhạc cụ dây Trung Quốc sớm hơn 1500 năm so với ở phương Tây. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép.

Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền thống (传统) và cách tân (革新); có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được giấu trong hộp điều âm. Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng ở phía đông Quảng Đông, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng KôngMa Cao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đông Nam Á. Nó có một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của lịch sử, âm nhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị. Nhạc phẩm Hàn nha hí thủy (寒鸦戏水) được cho là kinh điển khi chơi với đàn tranh Triều Châu dây thép.

Như vậy, niên đại về đàn tranh Trung Quốc cũng cho thấy qua từng thời kỳ và từng triều đại Trung Hoa mà hậu nhạc sơn (后岳山) và đuôi đàn (琴尾 cầm vĩ) của đàn tranh có sự biến đổi khác nhau theo thời gian. Loại cổ tranh ngày nay của Trung Quốc có tiền nhạc sơn dạng chữ S gợn sóng, hoặc chữ C,...

Đàn tranh cải tiến[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh cánh bướm[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1978, Hà Bảo Tuyền (何寶泉) và Nhạc viện Thượng Hải đã phát triển và phát minh ra đàn tranh cánh bướm, Hán Việt đọc là Điệp thức tranh (tiếng Trung: 蝶式筝; bính âm: Dié shì zhēng). Đàn tranh cánh bướm này có hai cột được sắp xếp theo thang ngũ âm và có 2 vùng biểu diễn (tức 2 bên mặt đàn có thể diễn tấu 2 tay). Nó có thể chơi tất cả các nửa cung của thang ngũ âm, thang thứ bảy hoặc mười hai nhịp bằng nhau, giữa các hợp âm nhất định của thang ngũ âm, và cũng được trang bị móc dây để thay đổi cao độ của một số dây cố định.[1] Đàn tranh cánh bướm vốn có ngoại hình như một con bướm khổng lồ đang xòe cánh bay thì nó chuyên trị những bản nhạc giao hưởng phương Tây và chơi rất dễ dàng so với cổ tranh phải nhấn dây rất nhiều.

Tân tranh[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện nay, ở Đài Loan đang có loại đàn tranh độc lạ, có tên là chuyển điều tranh (giản thể: 转调筝; phồn thể: 轉調箏; bính âm: zhuǎndiào zhēng) hay tân tranh (tiếng Trung: 新箏; bính âm: Xīn zhēng). [2]. Theo như hợp âm, hai mươi bốn hợp âm chính và phụ chỉ là "135" và "613" trong cổ tranh truyền thống. Ngoài ra, cổ tranh truyền thống rất khó điều chỉnh, thiếu âm thanh và thiếu nhịp điệu, điều này hạn chế sự sáng tạo của nhà soạn nhạc và hạn chế nghiêm trọng phạm vi sử dụng của nó. Để thay đổi tình trạng này, nhiều nghệ sĩ biểu diễn và chuyên gia sản xuất nhạc cụ trong và ngoài nước đã tiếp tục phát triển và cải cách cổ tranh. Họ đã đề xuất nhiều chương trình và phát triển nhiều "chuyển điều tranh". Sự cải tiến mang tính cách mạng nhất đối với đàn tranh nên là sự phát triển thành công của đàn tranh, đây là một bước đột phá lớn khác trong lịch sử của đàn tranh. Cải cách ban đầu của cổ tranh được phản ánh nhiều hơn ở sự gia tăng số lượng dây, và cải cách đàn tranh mới đã phá vỡ ranh giới này. Cải tiến cổ tranh từ một góc độ khác thậm chí còn quan trọng hơn so với loạt cải cách ban đầu. Đàn tranh cải biên đã phá vỡ hoàn toàn phương pháp hiệu suất ngũ giác ban đầu, và phá vỡ hoàn toàn giới hạn của thang âm ngũ cung đối với sức mạnh biểu cảm của đàn sắt và cổ tranh trong hàng trăm năm, giúp cổ tranh dễ dàng điều chỉnh và sở hữu mười hai luật bằng nhau. Về lý thuyết, chức năng hòa âm của nó gần như tương đương với đàn piano, đây là một bước nhảy vọt khác trong lịch sử của cổ tranh Trung Hoa. Đàn tranh mới giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển và kế thừa, và hoàn toàn tương thích với đàn tranh truyền thống. Chơi đàn chuyển điều tranh này về cơ bản không cần thay đổi phương pháp chơi hay huấn luyện đặc biệt, cho phép cải biên lối chơi của cổ tranh. Kinh nghiệm vẫn có giá trị thực tế. Các chức năng khác của chuyển điều tranh là không thể đối với cổ tranh truyền thống. Chuyển điều tranh đã mở ra một thế giới rộng lớn cho việc tạo ra âm nhạc đàn tranh, sử dụng các kỹ năng chơi và sử dụng rộng rãi cổ tranh. Sự xuất hiện của đàn tranh thế hệ mới đã giải quyết được nhiều vấn đề. Nó không chỉ có thể được chuyển đổi, nó còn có thang đo bảy âm với tiền đề đảm bảo thang đo âm giai ngũ cung, và thậm chí nó có thể được điều chỉnh theo đầy đủ theo mười hai luật trung bình. Chuyển điều tranh đã khéo léo sử dụng các phương pháp như con nhạn gắn ở trung tâm và kết hợp hữu cơ của hai khu vực chơi trên cùng một đàn tranh để giải quyết vấn đề thiếu âm thanh. Con nhạn của đàn tranh kiểu mới nằm ở trung tâm của mặt đàn so với con nhạn cổ tranh được xếp chéo. Khu vực chơi bên trái được sắp xếp theo thứ tự bảy âm thanh và khu vực chơi bên phải được sắp xếp theo thứ tự năm âm thanh. Điều này giải quyết mâu thuẫn giữa kế thừa và phát triển. Tân tranh có thể sử dụng vùng biểu diễn bên phải để hoàn thành bất kỳ bản nhạc nào thuộc hệ thống ngũ cung hoặc chúng ta có thể sử dụng vùng biểu diễn bên trái để thực hiện các tác phẩm dựa trên hệ thống bảy thang âm. Nếu các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được sử dụng kết hợp, các đặc điểm của cách sắp xếp nhạn kiểu ngũ cung và heptad có thể được sử dụng đầy đủ để phát các bản nhạc phức tạp khác nhau. Nếu chuỗi tỷ lệ của các vùng biểu diễn bên trái và bên phải được điều chỉnh một chút, nó sẽ có tất cả các nốt trong mười hai nhịp bằng nhau và về mặt lý thuyết có chức năng tương tự như piano. Theo cách này, nó có thể được điều chỉnh phù hợp với bất kỳ âm nhạc nào dựa trên mười hai mức trung bình. Điều đáng khen ngợi hơn nữa là, với mười hai âm điệu, mối quan hệ tương đối giữa âm thanh trong vùng biểu diễn phù hợp và âm thanh vẫn giữ nguyên, và sự sắp xếp âm vị vẫn là một sự sắp xếp ngũ cung. Mặc dù đó là sự sắp xếp ngũ cung, hoàn toàn có thể. Đáp ứng nhu cầu biểu diễn âm nhạc ngũ cung nói chung. Có thể nói rằng đàn tranh tân tiến được trang bị đầy đủ các chức năng của cổ tranh truyền thống; đàn tranh tân tiến có thể dễ dàng giải quyết các bài nhạc diễn tấu cấp độ khó mà cổ tranh truyền thống không thể diễn tấu được. Tân tranh gồm có 25 dây và 25 con nhạn mắc thẳng tắp mặt đàn, chia khoảng cách của tiền nhạc sơn và hậu nhạc sơn bằng nhau. Bên cạnh đó, có những con nhạn nhỏ phụ trợ thay cho việc nhấn dây. Sự quyến rũ trong âm sắc cổ tranh là đặc trưng của cổ tranh. Vị trí thích hợp của tay trái để nhấn dây đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện kỹ năng. Vị trí hợp âm lý tưởng là khoảng 16 cm từ phía bên trái của đàn tam thập lục, được xác định bởi độ căng của dây đàn tân tranh và phần mở rộng vừa phải của bàn tay trái. Vị trí không phù hợp phổ biến thường là hơn 20 cm. Bởi vì càng gần nhạn đàn tranh, độ căng của dây càng lớn và dây không thể được ép chặt, càng xa nhạn đàn tranh, dây càng mềm và độ căng của dây càng thấp. Một số người chơi diều có bàn tay trái của họ mở rộng ra để làm cho việc nhấn dây dễ dàng hơn, do đó vị trí của dây được thay đổi. Tay trái bị căng quá mức, làm tăng gánh nặng cho cánh tay, hình thức chơi trở nên không tự nhiên và ngón tay thường chạm vào mặt đàn. Có nhiều bản in móng trên mặt đàn bên trái của một số đàn tranh, nguyên nhân là do vị trí dây không đúng. Trong đào tạo cơ bản, chú ý đến tính chính xác của vị trí hợp âm tay trái, để các kỹ năng tay trái có thể được thể hiện đầy đủ.

Có hai phương pháp chơi dây cơ bản: phương pháp gảy và phương pháp lướt dây. Phương pháp gảy: Hướng của ngón tay chơi dây là từ phía trên xiên sang bên dưới xiên, góc nghiêng 45 độ, dây trung âm dày và xanh, âm thanh đầy đặn. Khi chơi, ngón áp út có xu hướng nghỉ ngơi trên dây zheng một cách tự nhiên, để hỗ trợ bàn tay và giữ cho bàn tay thư giãn tự nhiên. Phương pháp clip là phương pháp cơ bản cho người mới bắt đầu chơi diều, và nó cũng là phương pháp cơ bản cho các kỹ thuật truyền thống. Phương pháp lướt dây: Hướng của các ngón tay chơi dây là từ xiên bên dưới đến xiên ở trên, góc nghiêng 45 độ, phát âm rõ nét và chất lượng âm thanh rõ ràng. Khi chơi, họ thường chơi mà không cần hỗ trợ. Trong quá trình huấn luyện cơ bản, thủ hình bàn tay không nên căng thẳng, và sự thư giãn tự nhiên của nửa nắm tay vẫn nên được duy trì. Nâng cao là một kỹ thuật quan trọng để thực hành nhanh chóng. Ngoài hai phương pháp cơ bản này, độ sâu của cảm ứng, sự điều chỉnh góc của cảm ứng, tốc độ và sức mạnh của cảm ứng đều mang lại những thay đổi lớn cho cách phát âm của cổ tranh. Trong đào tạo cơ bản, bạn phải học cách làm chủ các dây khác nhau, học cách điều chỉnh góc, độ mạnh và tốc độ của dây và áp dụng chúng vào hiệu suất của âm nhạc một cách tự do.

Các phiên bản khác của đàn tranh[sửa | sửa mã nguồn]

Cổ tranh 9 dây[sửa | sửa mã nguồn]

Cổ tranh 9 dây (tiếng Trung: 九弦古筝; bính âm: Jiǔ xián gǔzhēng) là phiên bản cổ tranh nhỏ gồm 9 dây đàn và chín con nhạn dành cho người tập chơi, đặc biệt là trẻ em. Ngoài ra còn có Cổ tranh liên chỉ khí (tiếng Trung: 古筝练指器; bính âm: Gǔzhēng liàn zhǐ qì) cũng dành cho người mới chơi. Cấu tạo của nó mô phỏng cổ tranh, thay thế con nhạn bằng 1 thanh gỗ dài mắc chéo dưới dây trên mặt đàn.

Cổ tranh điện[sửa | sửa mã nguồn]

Cổ tranh điện là loại đàn tranh Trung Quốc được gắn thêm những pickup nam châm để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa).

Cổ tranh 27, 36 và 39 dây[sửa | sửa mã nguồn]

Cổ tranh 36 dây (tiếng Trung: 三十六弦箏; bính âm: Sānshíliù xián zhēng) được tạo ra vào năm 1972 bởi Trương Chí Nhạc thuộc Nhà máy Nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô, những chiếc cổ tranh được kích hoạt bằng bàn đạp pedal đã xuất hiện để giải quyết những vấn đề tương tự như cổ tranh 21 dây hay đàn sắt đã điều chế trước đó - và có một số hạn chế tương tự.

Đây là một loại cổ tranh với 36 dây đi kèm với 36 con nhạn được thực hiện trong khoảng thời gian đó, nó được điều chỉnh theo thang độ diatonic phương Tây. Biến thể của nó bổ sung thêm 3 dây & 3 con nhạn gọi là cổ tranh 39 dây (39弦筝). Loại 27 dây âm trầm được gọi là nhị thập thất huyền đê âm tranh (27弦低音箏).

Cổ tranh 44 dây[sửa | sửa mã nguồn]

Một loại cổ tranh năm 1972 được tạo bởi Trương Chí Nhạc của Nhà máy nhạc cụ Tô Châu của tỉnh Giang Tô. Nó có 44 dây được điều chỉnh theo thang độ diatonic

Đàn tranh đa âm[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh đa âm (tiếng Trung: 多聲弦制箏; bính âm: Duō shēng xián zhì zhēng) hay gọi tắt là Đa thanh tranh (多声筝) được phát triển vào năm 2011 bởi giáo sư Lý Manh (李萌). Nó thực sự là hai chiếc đàn tranh kết hợp với nhau; có 21 dây được điều chỉnh theo thang âm cho phía bên phải, với 16 dây bổ sung được điều chỉnh theo âm giai ngũ cung ở phía bên trái. Có biểu đồ điều chỉnh bên dưới. Phạm vi của hai bên gần giống nhau, với bên 21 dây có tone A sâu hơn và dây 16 có tone D cao hơn

Du nhập vào các quốc gia khác của châu Á[sửa | sửa mã nguồn]

Mông Cổ[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh yatga của Mông Cổ với hộp điều âm được mở ra bên cạnh chiếc cờ lê

Yatga ᠶᠠᠲᠤᠭ᠎ᠠ yatug-a, tiếng Mông Cổ: ятга yatga; phát âm [ˈjɑtʰəq]; tiếng Trung: 雅托葛) là loại đàn tranh của người Mông Cổ. Yatga có thể khác nhau về kích thước, điều chỉnh số lượng ngựa đàn và dây; Thân đàn là một hộp gỗ dài, một đầu của nó được đặt nghiêng xuống. Người biểu diễn gảy đàn bằng phần thịt đầu ngón của bàn tay phải; tay trái được sử dụng để nhấn lên dây đàn, thay đổi nốt nhạc. Tay trái cũng có thể được sử dụng để chơi các dải bass mà không cần plectrum (picks). Tùy thuộc vào kiểu dáng, các dây có âm sắc cao hơn được chọn bằng ngón tay hoặc bằng cách chọn. Loại yatga phổ biến nhất trong sử dụng đương đại là phiên bản 21 dây. Loại yatga này còn được gọi là "Master Yatga." Chiều dài của một nhạc cụ kích thước đầy đủ là 1,62m hoặc 63 inch. Các phiên bản ngắn hơn được lên nốt cao hơn. Một phiên bản 13 dây được gọi là "Gariin Yatga" (Hand Yatga).

Các yatga có nguồn gốc từ cổ tranh Trung Quốc. Có một giả thuyết cho rằng, đàn sắt Trung Quốc loại 24 dây có phần đuôi đàn bẻ quặt xuống được du nhập vào Mông Cổ thời nhà Nguyên năm 1800 với chiều dài 223,8 cm hoặc 88 inch, người Mông Cổ gọi nó là yatga. Trong lịch sử Mông Cổ, do 24 dây của đàn sắt diễn tấu khó nên họ nghĩ ra phiên bản 12 dây được sử dụng tại triều đình vì lý do tượng trưng; 12 dây tương ứng với 12 cấp bậc của cung điện. Những người bình dân đã phải chơi trên một yatga 10 dây. Việc sử dụng phiên bản 12 dây trở lên được dành riêng cho triều đình và tu viện.

Sử thi truyền thống của người Mông Cổ, Janggar kể về câu chuyện của một nàng công chúa trẻ đã từng chơi trên một chiếc yatga 800 dây với 82 con nhạn; cô ấy được cho là chỉ chơi ở 7 ngựa đàn thấp hơn.

Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]

Koto (tiếng Nhật: 箏), đôi khi gọi là Sō (tranh) là loại đàn tranh phổ biến nhất của xứ sở mặt trời mọc.

Một nghệ sĩ đang chơi đàn tranh koto

Những phát hiện khảo cổ học cho thấy từ thời Yayoi hoặc Nara ở Nhật Bản đã có loại đàn 6 dây hoặc 5 dây được người Nhật gọi là Wagon hoặc Yamatogoto (đều viết là 和琴) giống với đàn koto ngày nay. Dân tộc Ainu ở Nhật Bản có đàn truyền thống giống đàn koto. Có thuyết cho rằng đàn này có nguồn gốc từ cây đàn do Mông Điềm, người nước Tần, sáng chế (xem đàn koto phần history). Từ thời cổ, Koto được gọi là "Wagon" (Hòa cầm) hay "Yamato goto" (Đại Hòa cầm) và là một loại nhạc cụ trong Nhã nhạc.

Trong kho báu của vương triều Nhật Bản có một nhạc cụ tên là Sinlageum (Kanji: 新羅琴, Hiragana: しらぎ ごと, Hangul: 신라금), tương truyền có nguồn gốc từ Tân La, Triều Tiên du nhập sang. Cây đàn tranh Sillageum trông giống đàn tranh Jeongak Gayageum Hàn Quốc hiện nay, nhưng kích cỡ nhỏ gọn hơn và có dây đeo. Do đó, có phỏng đoán rằng người xưa quàng dây đeo cây đàn này lên người để diễn tấu.

Triều Tiên và Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Gayageum[sửa | sửa mã nguồn]

Một nghệ sỹ chơi đàn tranh gayageum loại 12 dây

Gayageum (hangul: 가야금, Hán Việt: Già da cầm) là đàn tranh của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều TiênĐại Hàn Dân quốc. Theo Tam quốc sử ký (hangul: 삼국사기) của Đại Hàn ghi lại về xuất xứ của đàn tranh 12 dây Gayageum. Trước khi có đàn tranh gayageum, người Triều Tiên có loại đàn gọi là Đại tranh (Daejaeng 대쟁; Hanja: 大箏). Trong thời đại Cao Ly, nó được sử dụng hoà tấu trong dàn nhạc nhã nhạc Gugak. Sau đó, ở Cao Ly, chủ yếu:

1) Chỉ được sử dụng cho nhạc Munmyo jeryeak (Văn miếu tế lễ nhạc). Kích thước đàn chơi cho nhã nhạc và chính thống hiện tại.

2) Nó dường như lớn hơn một chút so với gayageum. Mặt đàn được làm bằng gỗ cây ngô đồng và đáy đàn được làm bằng gỗ hạt dẻ. Độ dày của dây lớn hơn gayageum, dày nhất và dần dần mỏng hơn, đạt 15 dây. Sự xuất hiện của nó tương đương đàn tranh dùng vĩ kéo Ajaeng, mặt uốn cong được uốn cong xuống phía dưới giữa đuôi đàn với giá đỡ.

3) Với gỗ đen ở bốn góc và không có hình ở giữa. Một số điều chỉnh và chuyển ngữ có các dây tạo ra hai âm sắc trong một bản nhạc, như cách thể hiện trong dàn nhạc chính thống gugak.

4) Trong triều đại Joseon, nó chỉ được sử dụng ở Dangak. Họ đã sử dụng các sợi tơ đầy màu sắc hoặc sợi bông màu xanh lam.

Trước khi có đàn tranh gayageum, một mảnh tàn tích của cây đàn tranh 10 dây được khai quật từ tàn tích của Thời đại đồ sắtSinchang-dong, Gwangju vào năm 1997. Khám phá này đã gây ra sự quan tâm mới trong sự ra đời và phát triển của các nhạc cụ có dây cổ xưa. Các tấm gỗ của nhạc cụ dây này, được cho là đã được thực hiện trong thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên. Hình dạng cơ bản của cây đàn tranh là làm từ gỗ và mặt đàn thuôn tròn giống chiếc chai, với một lỗ nhỏ ở đầu cố định một dây, và một hình chữ U ở đầu kia. Phần hình chữ U được nối với phần nhô ra hình tam giác ngược với hai lỗ vuông nhỏ. Lỗ nhỏ hình vuông ở một đầu của phần nhô ra được cho là được sử dụng để ghép chặt một thiết bị cố định dây riêng biệt. 2 trục lớn phần đuôi đàn đóng vai trò buộc dây bằng cách chèn nó vào cầu đàn. Kích thước của lỗ khớp là 2,3 cm x 1,8 đến 1,9 cm, độ sâu là 6,4 cm và khoảng cách giữa hai lỗ khoảng 2,4 cm. Chiều rộng tối đa còn lại của ống cộng hưởng là 15,9 cm (chiều rộng tối đa của phục hồi là 28,4 cm) và độ dày của phần hình chữ U là 5,7 cm. Phần trung tâm của tấm gỗ có hình chữ U, và bên trong được đào để lại chu vi. Một phần của phần dưới được đào thành hình chữ V, và sau đó một lỗ được khoan bên trong. Đó là một vòng tròn nhỏ có đường kính khoảng 0,3 cm và khoảng cách giữa các đường là khoảng 2,3 cm. Có sáu lỗ còn lại. Do đó, mặc dù người ta ước tính rằng 10 đến 12 chuỗi đã được phát trên thông cáo báo chí lần đầu tiên giới thiệu việc khai quật cổ vật, sự phục hồi đã xác nhận rằng đàn tranh này có 10 dây và 10 con nhạn hình chữ A.

Gayageum được Gasilwang (가실왕 Gia Tất Vương) của vương quốc Gaya sáng chế. Trên thực tế, khi nhắc đến đàn tranh 12 dây Gayageum, thì người Hàn Quốc nhớ tới tên nhạc gia Wureuk (우륵 Vu Lặc), hơn là vua Gasil. Truyền rằng, Gaya là một vương quốc được hình thành từ 12 bộ tộc dùng các ngôn ngữ khác nhau. Lo ngại việc các bộ tộc không thể thông tin và hiểu nhau do khác biệt về ngôn ngữ, vua Gasil đã chế tác đàn tranh 12 dây Gayageum và ra lệnh cho nhạc gia Wureuk sáng tác nhạc phẩm, với niềm tin âm nhạc sẽ kết nối hiệu quả hơn ngôn ngữ. Hiểu ý nguyện của nhà vua, nhạc gia Wureuk đã sáng tác 12 nhạc phẩm. Đó là câu chuyện trong thế kỷ thứ VI. Tới nay, sau 1500 năm, đàn tranh 12 dây Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Vua Gasil của vương quốc Gaya những mong dùng âm nhạc để đoàn kết lòng dân và dẫn dắt quốc gia, nhưng thời thế đã không thuận theo mong ước của Gaya. Trước sự lớn mạnh của vương triều Silla, trong lúc vận mệnh của Gaya như ngọn đèn dầu trước gió, nhạc gia Wureuk đã mang cây đàn tranh 12 dây Gayageum tới Silla tị nạn. Không có sử sách nào ghi lại lý do nhạc gia Wureuk đưa ra quyết định này. Nhưng có lẽ là một nhạc gia, ông đã lựa chọn cách này để bảo vệ âm nhạc trước nguy cơ biến mất của âm nhạc một nước bại trận. Vua Jinheung (진흥 Chân Hưng) của Silla (Tân La) đã nhiệt liệt chào đón nhạc gia Wureuk, nhưng các quần thần lại kịch liệt phản đối vì lo ngại quốc gia sẽ trở nên rối ren nếu đưa vào sử dụng âm nhạc của một vương quốc vong tàn. Là một vị vua có tầm nhìn xa và quyết đoán, mặc dù vấp phải sự phản đối của quần thần, nhưng vua Chân Hưng vẫn cử ba người theo học âm nhạc và vũ đạo của nhạc gia Vu Lặc. Sau khi kế tục hoàn thiện âm nhạc của nhạc gia, các nhạc công trẻ đã sáng tác mới và tóm tắt 5 nhạc phẩm tiêu biểu nhất dành cho đàn tranh 12 dây Gayageum. Nói một cách khác, là họ đã diễn tấu âm nhạc Gayageum theo lối Tân La. Ban đầu, nhạc gia Vu Lặc đã nổi giận do học trò của mình đơn phương cải biến nhạc phẩm chính ông sáng tác. Song nghe xong bản nhạc biến tấu của học trò, Vu Lặc đã có lời bình rằng "Bản nhạc nghe vui nhưng không quá mức, có đoạn buồn nhưng không cảm thấy bi ai. Có thể nói đây là một loại hình âm nhạc mẫu mực, các trò có thể trình diễn trước quân vương".

Các loại gayageum bao gồm: gaeryang gayageum (개량 가야금) có 17 dây, beopgeum (법금 Pháp cầm) 12 dây và nó còn gọi là pungyu gayageum (풍류 가야금), sanjo gayageum (산조 가야금), jeongak gayageum (정악 가야금) 18 dây, gayageum 25 dây (25 현 가야금).

Trong đó, lịch sử của loại gaeryang gayageum bao gồm các loại sau: 15 dây: Gayageum đã được mở rộng bằng cách tăng số dây đàn tranh gayageum hiện có từ 12 lên 15 dây. Năm 1967, Sung Geum Ryun, nổi tiếng với gayageum Sanjo, được diễn tấu nhiều.

17 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Hwang Byung-ju. Gayageum truyền thống là jeongak là Gayageum jeongak, Sanjo và dân gian âm nhạc, do sự phối hợp khác nhau cho Sanjo Gayageum 17 dây. Còn jeongak gayageum khi diễn tấu có nét tương đồng với âm sắc nhã nhạc cung đình Huế, nhất là khi diễn tấu bản nhạc Junggwangjigok Taryeong 중광지곡 타령.

18 dây: Gayageum nhằm mục đích mở rộng phạm vi bằng cách tăng số lượng dây lên 18. Nó được phát triển bởi Park Il-hoon vào năm 1988.

21 dây: Gayageum được cải thiện bởi Giáo sư Lee Sung-Chun. Số lượng dây gayageum đã được tăng lên rất nhiều, mở rộng phạm vi.

22 dây: Loại này tăng số dây gayageum lên 22. Park Bum-hoon được cải tạo vào năm 1995 để kỷ niệm buổi hòa nhạc thành lập Dàn nhạc truyền thống Quốc gia Hàn Quốc.

23 dây: Dahyun gayageum được phát triển bởi người chơi gayageum Cheon Ik-chang. Gayageum được sử dụng bởi Cheon Ikchang, con trai của Cheon Ik-chang, là 23 và 25 dây. Dây đàn cũng được cải tiến từ chất liệu tơ lụa thành dây kim loại, nên loại đàn này được gọi là Cheolgayageum (đàn tranh dây sắt). Dần dần xuất hiện các loại đàn 13 dây, 15 dây, 17 dây, 21 dây, đến giờ có cả đàn tranh 25 dây sắt.

Geomungo[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh geomungo truyền thống 6 dây
Đàn tranh geomungo loại 11 dây

Geomungo (거문고): Theo sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo của Hàn Quốc được ghi trong sử sách, xưa kia dưới thời Cao Câu Ly ở Hàn Quốc, có một cây đàn được gửi sang từ cổ cầm Trung Quốc nhưng người Cao Câu Ly khi đó không biết đây là loại nhạc cụ gì và cách tấu ra sao. Thấy vậy, tể tướng Vương Sơn Nhạc (왕산악) liền cải tiến cây đàn và sáng tác một thể loại âm nhạc mới có thể tấu với cây đàn. Khi âm thanh của cây đàn vang lên trầm bổng, du dương thì một chú hạc đen từ đâu bay tới nhún nhảy trên nền âm điệu mới mẻ này. Điểm nhấn trong sự tích về cây đàn tranh 6 dây Geomungo không phải là sự xuất hiện của loài hạc đen trên thế gian này, mà ở chỗ đến hạc cũng phải cao hứng nhảy múa khi nghe tiếng đàn tranh 6 dây geomungo do tể tướng Vương Sơn Nhạc diễn tấu. Ở phương Đông, hạc là loài vật tượng trưng cho sự thái bình, thịnh vượng. Âm nhạc giao hòa cùng thiên nhiên, tạo nên khung cảnh thái bình, yên vui, nơi con người và loài vật cùng chung sống trong hòa bình và yêu thương chính là niềm mong ước của người xưa gửi gắm qua cây đàn tranh 6 dây Geomungo (hay còn được gọi là huyền cầm - tức hyeongeum).

Dodeuri (도드리) là thể loại âm nhạc thường được chơi bằng đàn tranh 6 dây geomungo. Âm nhạc Dodeuri có sáu phách trong một nhịp, tốc độ vừa phải, không nhanh cũng không chậm. Mỗi phách mang một âm và các âm sắc cũng hết sức chân phương, có thể sẽ khiến những người sống trong xã hội hiện đại đã quen với những âm điệu nhanh và hào nhoáng, cảm thấy nhàm chán. Nhưng những điều phức tạp, hào nhoáng, cũng giống như những món ăn có gia vị mạnh thì thi thoảng chúng ta mới thưởng thức, còn những món có vị thuần và nhạt như cơm hay nước thì ngày nào, bữa nào chúng ta cũng cần tới. Những điều giản dị, không tô vẽ, thêm thắt mà chỉ thuần túy như bản chất vốn có, sẽ mang lại sự bình an trong tâm hồn của mỗi con người, và đây chính là lối sống mà giới học giả xưa ở Hàn Quốc hướng tới. Thứ âm nhạc giúp con người ta có thể cảm nhận được thế giới tâm hồn này chính là âm nhạc được tấu bằng cây đàn tranh 6 dây Geomungo. Giới khoa học ngày nay đã phát hiện ra hình khắc vẽ một loại nhạc cụ trông gần giống với cây đàn tranh 6 dây Geomungo được vẽ trên bức tường mộ thời Goguryeo, trước cả thời của tể tướng Wang San-ak. Việc cải tiến nhạc cụ được mang tới từ Trung Quốc trở thành nhạc cụ của Goguryeo thể hiện quá trình dịch chuyển, biến đổi và phát triển của "văn hóa".

"Geomungo Byeongchang (거문고 병창)" - Thể loại âm nhạc vừa hát ả đào vừa tấu đàn tranh 6 dây geomungo trong âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc, thể loại âm nhạc vừa tấu đàn vừa hát được gọi là byeongchang. Người nghệ sĩ theo đuổi thể loại âm nhạc này sẽ vừa phải hát hay lại vừa phải đàn giỏi. Người khởi xướng dòng nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát "Geomungo Byeongchang" chính là nghệ nhân Shin Kwae-dong. Giờ đây, chỉ còn một học trò duy nhất của nghệ nhân Shin Kwae-dong có thể trình diễn hoàn hảo lối âm nhạc vừa tấu đàn tranh 6 dây Geomungo vừa hát ả đào byeongchang này. Trong một thời gian dài, đàn tranh 6 dây Geomungo đã từng là loại nhạc cụ ưa thích của giới học giả ở Hàn Quốc. Ở cuối thời đại Joseon, cây đàn tranh 6 dây Geomungo được dùng để chơi các thể loại âm nhạc dân gian, thể hiện mọi cung bậc cảm xúc tâm hồn của con người như niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, sự tức giận, khiến giới học giả bất bình và tặc lưỡi cho rằng đàn tranh 6 dây Geomungo đã hết thời.[3]

Trong khi đó, các học giả Nhật Bản cho rằng tiền thân của geomungo là Ngọa không hầu (卧箜篌), một loại đàn tranh có phím tre đỡ dây đàn được sử dụng ở Trung Quốc ít nhất là từ thời Tây Hán tới thời Đường rồi bị thất truyền từ thời nhà Minh, có nhiều ý kiến và giả thiết gây tranh cãi ​​về tiền thân của Geomungo vẫn còn được thảo luận ở Đông Á (không nên nhầm lẫn giữa Ngọa không hầu với 2 loại không hầu Trung Quốc có cấu tạo tương đồng đàn hạc phương Tây). Nguyên mẫu của loại đàn tranh này được vẽ trong lăng mộ Goguryeo. Chúng được tìm thấy trong lăng mộ Muyongchong và lăng mộ Anak số 3. Ngọa không hầu Trung Quốc có 7 dây trong khi geomungo truyền thống chỉ có 6 dây.

Ajaeng[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh Ajaeng dòng Jeongak

Đàn tranh Ajaeng (아쟁) du nhập vào Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ X – XIV). Tới thời Joseon, nhạc cụ này chủ yếu chỉ được dùng để tấu nhạc cung đình. Trọng tâm của âm nhạc cung đình Hàn Quốc là sự hài hòa với vũ trụ, thế gian, chứ không mang mục đích lay động lòng người nên có nhịp điệu chậm, hùng tráng. Bởi vậy, âm thanh trầm và sâu lắng của đàn tranh Ajaeng rất phù hợp với âm nhạc cung đình.

Truyền rằng, đàn tranh Ajaeng có nguồn gốc từ đàn yết tranh Trung Quốc và xuất hiện ở Hàn Quốc từ thời Cao Ly (thế kỷ 10-14). Lúc đầu người ta thường dùng đàn Ajaeng để chơi nhạc Trung Quốc, dần dà Ajaeng đã trở thành nhạc khí không thể thiếu trong dàn hòa tấu âm nhạc truyền thống Hàn Quốc. Âm thanh đàn tranh Ajaeng trầm, thường làm nền trắc cho âm điệu của dàn nhạc. Nhưng khi độc tấu, thì âm thanh trầm có phần hơi thô của đàn Ajaeng như muốn khơi dậy cảm giác não nùng từ tâm can mỗi con người.

Thời Joseon, một nhà quý tộc có tên là Kim Un-ran, ông bị bệnh về mắt và mất thị lực từ khi còn rất trẻ. Thời bấy giờ, những người mù thường làm thầy bói là công việc của tầng lớp dân hạ đẳng nhất trong xã hội. Nhà quí tộc Kim Un-ran thường mượn tiếng đàn tranh Ajaeng thổ lộ nỗi hận và tâm cảm buồn rầu của mình. Truyện kể rằng, có lần nhà quí tộc Kim Un-ran dừng bước và ngồi kéo đàn tranh Ajaeng bên ngoài hàng rào một ngôi đền. Tiếng đàn nghe da diết não nùng buồn thảm. Bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc vọng ra từ trong đền. Tiếng đàn Ajaeng của Kim Un-ran đã làm các hồn ma trong đền chùa thức tỉnh. Ông hoảng hốt cầm đàn bỏ chạy, còn các hồn ma chắc cũng thán phục khả năng chơi đàn Ajaeng xuất chúng của ông.

Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩ chơi đàn tranh trong đờn ca tài tử

Nguồn gốc đàn tranh Việt Nam là đàn tranh giống như đàn sắt và đàn cổ tranh nhưng vì loại đàn tranh truyền thống của Việt Nam là 16 dây nên xuất xứ của nó chính là đàn thập lục cương huyền tranh (giản thể: 十六钢弦筝; phồn thể: 十六鋼弦箏; bính âm: Shíliù gāng xián zhēng) từ Triều Châu,Trung QuốcĐài Loan truyền sang nước Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 15 dây,16, 17, 19 dây và 22, 24 và hiện đại hơn là 26 dây; từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ tổng hợp sang dây cước, dây đồng đến dây thép và cải biên thêm trục đàn để mắc dây. Đây là điểm đặc biệt của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu, Đài Loan có được mà các loại đàn tranh Á Đông khác không hề có. Riêng loại 16 dây tại Triều Châu có trước tiên. Qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng và bản địa hóa nó, tạo cho nó phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam.[4]

Cấu tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Trung Quốc và Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh và cổ tranh Trung Quốc (kể cả đàn sắt của Trung Quốc) đều có dạng hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con nhạn để mắc dây (trán đàn), khoảng cách giữa cầu đàn và trán đàn của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu (Trung Quốc) người ta thay thế lỗ xỏ dây đàn bằng cách lắp đinh vít (thường là vít đồng) để buộc cố định dây. Đầu nhỏ rộng khoảng 15–20 cm gắn 16 tới 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn (đàn sắt lên tới 50 khoá). Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn- 雁柱) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Riêng cấu tạo đàn sắt gồm 25-50 ngựa đàn mắc với 25-50 dây. Dây đàn sắt được túm gọn và cuộn chặt cố định bằng 4 trục đàn lớn. Riêng với đàn sắt của Triều Tiên (Hangul: 슬, seul) thì thiết kế của nó tương tự như cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ và mặt đàn được vẽ lên những chi tiết hoa lá chim muông tinh xảo, còn cổ tranh của Đài Loan sử dụng dây kép.

Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa cổ tranh Trung Quốc dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo ba móng gẩy vào ngón cái, trỏ và ngón giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi [5][6]. Cổ tranh Trung Quốc thông thường khi diễn tấu phải đeo tất cả tám móng giả; đeo vào ngón cái, ngón trỏ, ngón áp út và ngón út. Riêng móng của ngón cái là cong hơn so với 3 ngón còn lại. Thứ tự dây cổ tranh tương đương với 5 thang âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ và 21 dây của cổ tranh phân theo 5 âm khu: bội âm trầm, âm trầm, âm trung, âm cao và bội âm cao.

Móng gảy đàn cổ tranh Trung Quốc

Chỉ có đàn tranh Việt Nam và Đài Loan mới có trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gỗ cẩm lai hoặc gỗ gụ vì những loại đàn tranh còn lại là koto (Nhật), gayageum (Hàn Quốc), yatga (Mông Cổ) và cổ tranh (Trung Quốc) không hề có trục đàn thì phần chỉnh dây đàn được giấu trong hộp điều âm ở cầu đàn bên trái. Khi mở hộp ra phần chỉnh dây đàn gọi là chốt dây, và người ta sử dụng cờ lê chuyên dụng cho việc lên dây đàn để lên dây sau đó vặn chốt ngược chiều kim đồng hồ trước khi xếp ngựa đàn (con nhạn) để mắc dây; khi mắc ngựa đàn vào dây sẽ dùng cờ lê vặn chiều xuôi chốt lại để giữ chặt.

Con nhạn đàn tranh Việt Nam có một lỗ xâu dây cước hay dây tơ tổng hợp nhỏ. Đây là lý do khiến các dòng đàn tranh Á Đông không có, vì ngựa đàn tranh khi mua về đã được lắp đặt cố định, còn những đàn tranh kia thì phải lắp con nhạn trước khi gảy. Con nhạn cổ tranh song song với hộp điều âm và khoảng cách giữa con nhạn và hộp điều âm là tiền nhạc sơn (bên phải), hậu nhạc sơn là bên tay trái của con nhạn. Con nhạn của đàn sắt, đàn cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ hay đàn tranh Việt Nam đều sử dụng con nhạn hình chiếc kìm chữ A mỏ vuông. Đàn cổ tranh Trung Quốc gồm hai loại chính là 整挖筝 (chính oát tranh) và 拼面筝 (bính diện tranh).

Mông Cổ[sửa | sửa mã nguồn]

Ảnh chụp một phần của đàn tranh yatga Mông Cổ.

Đàn được thiết kế như một hộp với bề mặt lồi và uốn cong về phía cuối. Các dây được gảy và tạo âm thanh khá mềm mại. Ở Mông Cổ, đây là nhạc cụ được coi là bất khả xâm phạm và được chơi trong nghi lễ, ràng buộc với những điều cấm kị. Yatga được sử dụng chủ yếu tại triều đình và trong các tu viện từ khi các dây tượng trưng cho mười hai cấp độ của hệ thống phân cấp cung điện.

Mục đồng bị cấm chơi đàn tranh yatga 13 dây, nhưng họ được phép chơi đàn tranh yatga mười dây, cũng được sử dụng cho thời gian giải lao trong lần trì tụng sử thi. Loại yatga 13 dây có ngoại hình tương tự đàn tranh sanjo gayageum 12 dây của Hàn Quốc.

Người Mông Cổ truyền thống chơi ba loại đàn tranh yatga, phân biệt bằng hộp cộng hưởng hoặc thân đàn rỗng mà âm thanh được khuếch đại.

Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu tạo đàn tranh koto của Nhật

Để làm ra đàn koto, trước tiên người thợ xẻ đốn gỗ từ cây Hông. Quy trình đó dùng để làm mặt đàn. Kích thước gần đúng của một cây koto là:

Chiều dài 164,5 cm (64 3/4 in.)
Chiều rộng 32,4 cm (12 3/4 in.)
Chiều cao 24,1 cm (9,5 in. Bao gồm cả cầu đàn)

Gỗ được chuẩn bị để sản xuất đàn koto thường là những khối lớn và cần được xẻ ra thành các tấm gỗ có kích thước khác nhau dựa theo yêu cầu thiết kế và uốn cong tấm gỗ thành mặt đàn. Người thợ tiến hành bước này phải có sự tính toán tỉ mỉ để lượng gỗ đã được chuẩn bị từ trước được xẻ ra không bị thiếu hay thừa, đảm bảo sản phẩm được hoàn thiện tốt. Sau khi xẻ gỗ xong, thành phẩm sẽ được ngâm qua các hóa chất chống mối mọt và mặt sau của ván gỗ uốn cong thành mặt đàn người thợ khắc hình zigzag đều nhau thẳng hàng; kế tiếp, người thợ nung nóng một thanh sắt để đốt cháy mặt đàn. Biện pháp này giúp cho đàn làm ra bền hơn, khó bị các loại côn trùng mối mọt tấn công.

Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn.

Thông thường, đàn koto có 13 dây. Từ thời Nara, số lượng dây đã như vậy, mặc dù vào thời Edo có một số cây đàn koto có hơn 13 dây. Từ thời Meiji thì đàn koto nhiều dây, nhất là loại đàn 17 dây, xuất hiện nhiều hơn. Có nhiều loại dây to hay mảnh khác nhau, thường là màu vàng mặc dù màu đỏ hay xanh lá cây cũng nhiều. Dây đàn truyền thống làm từ tơ tằm bện thành dây thừng sợi nhỏ và giống như nhiều đàn dây của Nhật Bản khác được bện từ 4 sợi tơ thành 1 dây đàn. Dây đàn ngày nay hầu hết làm từ chất liệu polyester. Dây đàn bằng polyester có độ căng tốt hơn nên âm dài hơn và tốt hơn, lại không lo bị đứt khi đang diễn tấu, giá thành chế tạo lại thấp hơn nhiều. Vì thế, đàn với dây bằng polyester ngày nay trở nên phổ biến. Ngày nay, phiên bản hiện đại của đàn koto với 25 dây thường sử dụng nylon bọc thép dây. Dây nylon cũng đã được giới thiệu để sản xuất một âm thanh to hơn, được ưa thích cho đi kèm vũ đạo. Để chơi âm nhạc hiện đại, koto với một số lượng lớn dây đàn đã được phát triển, tăng phạm vi của dây đàn. Koto có sẵn với 13, 17, 18, 21, 22, hoặc 25 dây, mặc dù các công cụ có dây khác đang có sẵn theo yêu cầu. Nhạn đàn và cầu đàn koto xưa làm bằng ngà voi. Tuy nhiên ngày nay do ngà voi đắt tiền, nên cầu đàn và nhạn đàn bằng chất liệu tổng hợp khá phổ biến, nhất là nhựa PVC. Có cây đàn koto mà cầu đàn và nhạn đàn làm bằng xương cá voi. Koto 80 dây, được gọi là hachijugen (kanji: 八十絃; hiragana: はちじゅげん) trong tiếng Nhật, là một phát minh của nhà soạn nhạc Nhật Bản Michio Miyagi, xuất hiện vào năm 1923. Ông đã thêm 67 dây vào thiết kế 13 dây truyền thống, âm sắc koto 80 dây trong trẻo giống như đàn hạc phương tây. Cùng với koto thông thường, 80 dây cung cấp một phạm vi cao hơn nhiều so với koto tiêu chuẩn. Nó được xem rộng rãi như một công cụ thử nghiệm ngắn.

Triều Tiên và Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Gayageum[sửa | sửa mã nguồn]

Phần chốt dây và búi dây trang trí của đàn tranh sanjo gayageum
Cấu tạo đàn tranh gayageum của Hàn Quốc cũng như Triều Tiên
Đàn tranh Gayageum 15 dây

Dây đàn gayageum khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Âm nhạc Gayageum truyền thống có hai loại. Một loại là Gayageum tấu chính nhạc, hay còn gọi là Gayageum Beopgeum hoặc Gayageum phong lưu có lịch sử hình thành phát triển hơn 1500 năm. Nhưng khoảng cách giữa các dây đàn của nhạc cụ này xa nhau, nên khó có thể chơi được các bản nhạc có tiết tấu nhanh. Tới cuối thời Joseon, để có thể diễn tấu đa dạng âm nhạc, người ta đã cải tiến cây đàn tranh 12 dây Gayageum theo hướng nhỏ gọn hơn và có các dây đàn được mắc gần nhau hơn. Đàn tranh 12 dây Gayageum cải tiến thường được dùng để tấu nhạc dòng Sanjo hoặc đệm cho dân ca Minyo. Các ca nương thường dùng gayageum thường dùng để đệm hát những bài ả đào, gọi là hình thức gayageum byeongchang (강야금 병창). Sau này, khi âm nhạc châu Âu du nhập vào Hàn Quốc, đàn tranh Gayageum đã được cách tân một cách quả cảm mang sắc thái khác biệt hoàn toàn với Gayageum truyền thống và thời kỳ này bắt đầu xuất hiện đàn tranh Gayageum 13 dây, 15 dây, 18 dây... Gần đây, còn có cả đàn tranh Gayageum 25 dây diễn tấu âm nhạc sáng tác mới. Dây đàn cũng được sử dụng bằng chất liệu tơ lụa tổng hợp và người nghệ sĩ còn dùng cả hai tay để nhấn nhá búng gẩy dây đàn tạo âm thanh. Ngựa đàn (con nhạn) của gayageum rất đặc biệt, không như đàn sắt hay cổ tranh của Trung Quốc, ngựa đàn (con nhạn) gayageum có đầu tròn, cổ nhạn dài và đuôi nhạn cong 2 bên như chữ 人 (nhân) làm từ gỗ. Cụm từ 안족 (anjok - con nhạn) cũng ám chỉ chân con ngỗng trời. Đuôi đàn (yangidu) trông giống hai chiếc sừng cừu choãi sang hai bên. Cây đàn tranh 12 dây Gayageum trong những bức tượng đất nung thời Silla cũng có Yangidu. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng sau hàng nghìn năm, Gayageum vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Gayageum Jeongak là loại Gayageum cơ bản, nền tảng của đàn tranh 12 dây Gayageum, nên còn được gọi là Beopgeum, tức "pháp cầm", và Pungryu Gayageum, do thường được dùng để tấu nhạc phong lưu Pungryu của giới quý tộc

Trên mặt đàn, anjok (con nhạn) hỗ trợ cố định dây. Những con nhạn di chuyển để điều chỉnh thang âm trên dây đàn và ngữ điệu. Các dây nối liền vào đầu của thân đàn từ tolgwae (chốt dây) bên dưới. Ở đầu bên kia, dây quấn quanh các vòng ở đầu dây dày, đi qua đai ốc sau đó luồn qua các lỗ ở dưới cùng của đàn và được bảo đảm, sau đó tất cả các dây được buộc trong một cuộn dây trang trí. Loại này chỉ có ở gayageum 12 dây. Loại Gaeryang gayageum luôn có hộp điều âm, trong hộp có chứa phần chốt xỏ dây bằng kim loại và gần đây dòng đàn sanjo gayageum hay jeongak gayageum có gắn thêm bộ gắn thêm những pickup nam châm kiểu giống guitar điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa) gọi là Jeonja gayageum (전자 가야금). Ari gayageum (아리 가야금) có con nhạn hình chữ A tương tự đàn tranh dùng vĩ kéo jeongak ajaeng, nó có hộp điều âm chứa chốt chỉnh dây thay thế cho loại đàn tranh gayageum truyền thống.

Geomungo[sửa | sửa mã nguồn]

Geomungo dài khoảng 162 cm và rộng 23 cm (dài 63,75 inch, rộng 9 inch) và có những con nhạn có thể di chuyển được gọi là anjok (안족) và 16 phím hình chữ nhật lớn nhỏ bằng tre xếp gần nhau để mắc dây (giống phím đàn đáy Việt Nam). Nó có một thân rỗng, nơi tấm trước của nhạc cụ được làm bằng gỗ cây hông và tấm phía sau được làm bằng gỗ hạt dẻ cứng. Sáu dây của nó, được làm bằng dây thừng bện từ lụa xoắn đi qua thân của nó. Que gảy geomungo được làm từ tre tương đương kích thước của chiếc bút chì. Ba dây đàn trực tiếp trên các phím có thể dừng lại trong khi ba dây còn lại là các dây mở. Chỉ có 3 dây đàn ở giữa của geomungo 6 dây mới có ngựa đàn mắc dây. Các dây còn lại được mắc bởi con nhạn anjok hình chữ "nhân" (人), geomungo 11 dây cũng vậy. Đầu đàn gọi là Jwadan (좌단), phím cố định nhỏ gọi là gwae, daemo là phần khoảng cách giữa phím nhỏ (괘 gwae) nhỏ nhất và cầu đàn (현침 hyeonchim). Gwiru (귀루) là phím lớn nhất mắc 3 dây giữa; các dây của geomungo 6 dây gồm có: munhyeon (무현 dây 1), yunhyeon (유현 dây 2), daehyeon (대현 dây 3), gwaesangcheon (괘상천 dây 4), gwaehacheon (괘하천 dây 5) và muhyeon (무현 dây 6). Ngoài ra còn có hakseul (학슬 nút thắt dây), budeul (부들 dây trang trí được tết thành búi giữ cho dây đàn tránh bị trùng và tuột), unjok (운족) là chân đàn, đuôi đàn là bongmi (봉미). Dưới đáy đàn gồm phần cộng hưởng (울림구맹 ulrimgumeong), que gảy (술대 suldae) và chốt dây (돌괘 tolgwe). Riêng dây thứ tư khi dùng que gảy, que sẽ chạm vào mặt đàn lẫn dây và sẽ có tiếng đàn lẫn tiếng đập que vào mặt đàn khi gảy mạnh.

Geomungo hiện đại hóa tăng lên 11 dây, được làm bằng nylon. Như với phiên bản truyền thống, ba dây vượt qua các phím đàn và các dây khác đều mở. Nhưng phiên bản truyền thống của geomungo có 6 dây, với ba phím đàn. Một loại geomungo cổ để tấu chính nhạc có tên hoehyeongeum (회현금) và các geomungo còn lại gồm sanjo geomungo (산조 거문고) và jeongak geomungo (정악 거문고). Một loại đàn tranh geomungo khác gọi là jayanggeum (자양금) chỉ có phím mà không cần những con nhạn anjok căng dây, do nghệ nhân Yu Jung-gyo (1821-1893) chế tác. Jayanggeum có 7 dây và nó được coi là phiên bản hoàn chỉnh của cổ cầm Trung Quốc (được đưa vào dàn nhạc tế lễ Văn miếu - Munmyo jeryeak 문묘제례).

Gần đây, geomungo 6 dây đã được cải tiến khá nhiều, với sự xuất hiện của geomungo điện tử (천차 거문고). Geomungo chơi với cung Hwaldae (활대 거문고) (giống như chơi ajaeng và có loại chỉ vỏn vẹn 3 dây thì dây giữa mắc bởi hàng phím đỡ bên dưới mà khi kéo phải để dọc đàn), hoặc loại geomungo có nhiều dây hơn, được thu thập; thu hút sự chú ý của các nghệ sĩ trẻ. Khi kéo đàn geomungo bằng vĩ, âm thanh của nó trầm hơn ajaeng rất nhiều.

Trong sự phát triển của văn hóa, bên cạnh những nghệ sĩ bảo tồn, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, có những nghệ sĩ thay đổi và hiện đại hóa văn hóa truyền thống của dân tộc.

Ajaeng[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh Ajaeng có thân đàn lớn làm bằng thân cây ngô đồng, cao hơn cả chiều cao của một người bình thường và có nhiều dây đàn được mắc ngang trên mặt bầu đàn (từ 8-12 dây). Dây đàn khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Gayageum, nhạc công có thể đặt lên đùi để diễn tấu, nhưng đối với đàn tranh Ajaeng họ phải kê lên kệ vì đàn to và nặng. Cung vĩ của đàn tranh Ajaeng được vót bằng cành cây hoa vàng mùa xuân Gaenari nên tốc độ biến âm chậm, không phù hợp để hòa âm cùng các nhạc cụ khác. Đàn tranh Ajaeng có âm thanh trầm nhất trong số các nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Giá đỡ đàn tranh ajaeng là chosang, cấu tạo của đàn tranh ajaeng gồm: đuôi đàn uốn cong xuống (미단 midan), cầu đàn (현침 hyeonchim), hakseul (학슬 nút thắt dây đàn), budeul (부들 búi dây trang trí, cố định để dây không bị tuột), ullimtong (울림통 đáy đàn chứa phần cộng hưởng), con nhạn (안족 anjok), đầu đàn (좌단 jwadan), dưới đáy đàn là tolgwe (돌괘 chốt dây) và cung vĩ để kéo (활 hwal). Cung vĩ thông thường chỉ là cành cây gaenari thì còn có cả cung vĩ từ lông đuôi ngựa hoặc dùng vĩ của violin để kéo.

Có năm loại đàn tranh Ajaeng, gồm Daeajaeng 9 dây (9 현 대아쟁), soajaeng 9 dây (9현 소아쟁), ajaeng 8 dây (8현 아쟁), 10 dây (정악 아쟁) và 12 dây (12현 아쟁).

Âm thanh[sửa | sửa mã nguồn]

Âm sắc các loại đàn tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, có khi hùng tráng, u buồn,... Do dây bằng kim loại mỏng, hoặc từ dây nylon hoặc polyeste, lụa tơ tằm bện nên đàn tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm đàn tranh rộng 3 quãng 8, từ Đô lên Đô 3 hoặc Sol 1 đến Sol 3 tuỳ theo cách lên dây và tuỳ vào các loại đàn tranh của các quốc gia.

Sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm hát, tham gia trong các dàn nhạc tài tử Việt Nam và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp quốc tế.

Koto của Nhật Bản hay gayageum của Hàn Quốc có thể trình diễn độc tấu hay kết hợp các nhạc cụ khác để hoà tấu những bài hát dân ca, nhạc hiện đại như K-pop, J-pop, nhạc Âu Mỹ,... Đối với cổ tranh Trung Quốc hay Yatga Mông Cổ, cũng được diễn tấu là hoà tấu hoặc độc tấu. Riêng cổ tranh Trung Quốc dùng để chuyên trị các nhạc phẩm C-pop, nhạc dân ca, kinh kịch,... Người Việt Nam có thể sử dụng đàn tranh của các quốc gia châu Á khác để chơi dân ca Việt Nam.

Hiện đại hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày nay, trên các điện thoại smartphone có các phần mềm ứng dụng của đàn tranh như guzheng, koto hay gayageum đều được tải về qua Google Play (Android) hay App Store (IOS).

Cách chơi đàn[sửa | sửa mã nguồn]

Đa phần các đàn tranh Á Đông đều diễn tấu bằng 2 tay với 1 đàn thì ngày nay các nghệ sĩ dùng liền 2 đàn một lúc, mỗi tay sẽ dùng 1 đàn. Đàn dùng tay trái sẽ làm nhạc đệm, còn tay phải sẽ gảy giai điệu chính tuỳ theo khoảng cách đặt đàn và tư thế đứng hay ngồi khi chơi của nghệ sĩ.

Việt Nam và Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách chơi đàn truyền thống sử dụng trước đây thường dùng 2 ngón gẩy, ngày nay phổ biến là 3 ngón, cá biệt sử dụng 4 hoặc 5 ngón. Thang âm đàn tranh gồm:

  • Do: C3
  • Re: D3
  • Fa: F3
  • Sol: G3
  • La: A3
  • Do2: C4
  • Re2: D4
  • Fa2: F4
  • Sol2: G4
  • La: A4
  • Do3: C5
  • Re3: D5
  • Fa3: F5
  • Sol3: G5
  • La3: A5
  • Do4: C6
  • Re4: D6
  • Fa4: F6
  • Sol4: G6
  • La 4: A6

Tuy nhiên cách gẩy 3 ngón là cách gẩy thông dụng nhất là ngón cái (số 1), ngón trỏ (số 2) và ngón giữa (số 3). Với những cách gẩy cơ bản: liền bậc, cách bậc, gẩy đi lên và đi xuống liền bậc hay cách bậc. Móng gẩy đàn làm từ đồi mồi hoặc inox. Đối với đàn sắt không dùng móng gẩy mà gẩy đầu bụng ngón tay, sử dụng ngón rung và vê thì phải có móng tay dài.

Tư thế: bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, thả lỏng, ngón đeo nhẫn tì nhẹ lên cầu đàn. Khi đánh những dây đàn thấp, cổ tay tròn lại, hạ dần về phía trước đàn. Khi đánh những dây cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn, cánh tay cũng hạ khép dần lại (tránh không đưa cánh tay ra phía ngoài). Ba hay bốn ngón tay gảy mềm mại, từng ngón thả lỏng này nhẹ nhàng nâng lên hay hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh gãy ngón. Riêng ngón tay gảy cổ trang Trung Quốc là gảy kiểu móc dây. Do dây của cổ tranh là dây thép loại dày bọc nhựa dẻo chứ không như đàn tranh Việt Nam với sợi dây thép mảnh.

Thay dây nếu bị đứt[sửa | sửa mã nguồn]

1. Khi dây đàn bị đứt, hãy mở hộp điều âm của đàn (đối với cổ tranh), dùng cờ lê vặn trùng toàn bộ dây đàn cần thay. Sau đó rút hẳn đầu dây ra khỏi đầu kim loại rút dây. Đẩy đầu dây còn lại ra khỏi hộp điều âm rút hẳn dây cũ ra và loại bỏ.

2. Cho dây mới vào, luồn như xâu kim khâu vào lỗ từ dưới hộp điều âm lên rồi kéo lên, luồn lại vào lỗ kim loại chỗ cuộn dây đàn sau đó cuốn vài vòng để cố định. Cuối cùng xếp nhạn mắc vào dây.

Thủ pháp "thác"[sửa | sửa mã nguồn]

- Kỹ thuật "thác" (tiếng Trung: ; bính âm: Tuō): dùng ngón cái diễn tấu. Giai đoạn mới học có 2 cách diễn tấu của thủ pháp "thác" gồm "giáp" (tiếng Trung: ; bính âm: Jiā) và "đề" (tiếng Trung: ; bính âm: ). "Giáp" thông thường ứng dụng vào 2 tình huống: một là người mới học và ổn định thủ hình. Hai là khi diễn tấu nhạc khúc truyền thống (dân ca và nhạc cổ phong Trung Quốc) được vận dụng khá nhiều. "Đề" vận dụng rất nhiều trong các nhạc khúc hiện đại, nhất là nhạc Trung Quốc phong. Thủ pháp "Thác" (ký hiệu là góc vuông). Biểu thị dùng thủ pháp "thác" diễn tấu âm trung Sol (tương đương với dây số 5 của cổ tranh). Dùng ngón áp út và ngón út đặt tự nhiên trên dây đàn. Ngón cái hướng về phía trước cơ thể gảy đàn. Sau khi gảy xong, thuận thế rơi vào dây tiếp theo. Bước đầu, đặt dây lấy âm trung Sol làm ví dụ; tay phải ở trạng thái nửa nắm tay. Cổ tay để nằm ngang và mở cánh tay ra. Đặt ngón tay nhẹ nhàng lên âm trung Sol. Ngón áp út và ngón út tự nhiên chống trên dây đàn ("ghim cọc"). Trong cách diễn tấu truyền thống, ngoài ra ngón tay thả lỏng. Ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út tay phải khép lại trong khi ngón cái và ngược lại ón út thả lỏng tự nhiên. Dùng phần thịt đầu ngón tay đặt trên dây đàn phía bên trái con nhạn. Vị trí đặt dây cách con nhạn khoảng 15 – 20 cm. Lưu ý:

1. Khi tay phải ở trạng thái nửa nắm tay, ngón tay thả lỏng và đốt bàn tay hơi nhô ra, không được sụp lún. Cổ tay để nằm ngang và cánh tay mở ra khoảng 45 độ, thả lỏng thoải mái.

2. Đầu móng giả của ngón cái đặt trên dây đàn cách Tiền nhạc sơn khoảng 3,33 cm (1 tấc).

3. Móng giả xuống dây không được quá sâu. Người mới học không cần đeo ngón áp út với móng giả khi thao tác "ghim cọc".

4. Vị trí đặt dây căn cứ vào độ to nhỏ của dây mà xác định.

5. Khi tay phải diễn tấu, tay trái đặt trên dây đàn bên trái của con nhạn tạo thành thói quen diễn tấu tốt. Khi tay trái đặt dây thì ngón cái và ngón út cấm nhếch lên; cũng không được kẹp chặt ngón tay hoặc nép vào lòng bàn tay. Sau khi nắm được cách thức đặt dây chính xác, người chơi sẽ diễn tấu "giáp" theo thủ pháp "thác": đặt dây trước rồi ngón cái dùng đốt bàn tay kéo theo ngón tay.

- Thác kiểu Đề: là dùng đốt bàn tay kéo đốt thứ nhất (đốt nhỏ) khi diễn tấu. Đặt tay lên dây và tay phải luôn duy trù thủ hình nửa nắm tay, cổ tay đặt nằm ngang còn cánh tay mở ra tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay đặt ngón cái nhẹ nhàng lên trung âm 5 (Sol), các ngón tay khác buông xuống tự nhiên. Ngón cái dùng đốt nhỏ nhẹ nhàng hướng lòng bàn tay gảy dây. Khi diến tấu, đầu ngón tay phải nhanh chóng phát lực. Hướng diễn tấu của ngón cái hơi nghiêng về phía đầu ngón trỏ, không được chĩa thẳng vào lòng bàn tay. Khi ngón cái diễn tấu thì các đốt ngón tay phải nhô ra, không được móp vào. Khi luyện tập đặt dây cho tay phải, tay trái đặt lên dây tương ứng với dây bên trái và chú ý thủ hình nửa nắm tay.

Kỹ thuật lướt dây[sửa | sửa mã nguồn]

- Là một lối gảy rất phổ biến của đàn tranh và đàn sắt cũng như cổ tranh Trung Quốc, đây là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc, thường kỹ thuật này hay ở vào phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh đầu hay cuối câu nhạc. Ngón cái tay phải dùng thủ pháp "thác" liên tục vài dây với tốc độ nhanh. Có 2 dạng lướt là lướt trước phách (dùng ở đầu câu nhạc, lúc diễn tấu không chiếm giá trị thời gian thuộc về hiệu quả mang tính "trang trí"; có tác dụng tăng thêm màu sắc cho giai điệu) và lướt trùng phách (thường xuất hiện ở phách sau, dùng để bổ khuyết tiết tấu).

- Lướt xuống: theo lối cổ truyền, là cách lướt liền các âm liền bậc, từ một âm cao xuống các âm thấp, tức là sử dụng ngón cái của tay phải lướt nhanh và đều qua các hàng dây, từ cao xuống thấp.

- Lướt lên: là kỹ thuật lướt qua hàng dây, nhưng vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón 3 từ một âm thấp lên các âm cao.

- Lướt kết hợp: kết hợp lướt lên và lướt xuống, kỹ thuật diễn tấu này thường chuẩn bị cho mở đầu hoặc kết thúc một câu nhạc, có trường hợp nó được sử dụng để tả cảnh sóng nước, gió thổi, mưa rơi và có thể sử dụng kỹ thuật lướt liên tiếp với nhiều âm hơn.

- Song thanh: 2 nốt cùng phát ra một lúc, song thanh truyền thống chỉ dùng quãng 8, các nhạc sĩ hiện đại còn kết hợp dùng các quãng khác.

Kỹ thuật bàn tay trái[sửa | sửa mã nguồn]

Tư thế: Ðầu ba ngón tay giữa đặt trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, ngón tay hơi khum, hai hoặc ba ngón (trỏ, giữa, áp út) chụm lại, ngón cái và ngón út tách rời, dáng bàn tay vươn về phía trước. Khi rung, nhấn, bàn tay được nâng lên mềm mại, ba ngón chụm lại cùng một lúc chuyển từ dây nọ sang dây kia.

Kỹ thuật rung âm[sửa | sửa mã nguồn]

Ngón rung (rung âm): là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ trên sợi dây đàn (bên trái hàng nhạn đàn) mà tay phải vừa gảy. Nó là 1 kỹ thuật tay trái vô cùng quan trọng trong diễn tấu cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó tô điểm vẻ đẹp, trau chuốt và kéo dài cùng nhiều tác dụng khác cho nhạc khúc. Chủng loại của rung âm rất nhiều. Sau khi tay phải gảy gây xong thì tay trái nhấn, thả trên dây đàn tương ứng bên trái con nhạn; khiến cho âm mà tay phải gảy sản sinh hiệu quả rung động dạng sóng có quy luật. Diễn tấu rung âm cần 1 quá trình huấn luyện lâu dài. Lúc đầu mới học, luyện tập với tốc độ chậm trước, nắm được cách phát lực và thả lỏng chính xác. Sau khi thành thục mới tiến hành luyện tập tăng tốc.

+ Nhấn dây tay trái: Tay phải đặt cần bằng trên hộp điều âm, tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay. Nhấn thả dây đàn lên xuống chậm rãi đều đặn. Mỗi 1 nhịp có 2 động tác nhấn & thả, sau mỗi lần nhấn phải ngay lập tức thả ra. Tay trái và phải đặt dây chính xác trên trung âm 5 (Sol). Sau khi tay phải gảy trung âm 5 thì tay trái trên dây đàn tương ứng với bên trái con nhạn. Nhấn, thả dây đàn đều đặn. Khi người chơi mới học rung âm có thể áp dụng phương pháp luyện tập đếm nhịp. Tay phải gảy trung âm 5. Sau mỗi lần nhấn dây phải lập tức thả ra. Sau khi nắm vững diễn tấu chậm, tăng tốc độ nhấn dây thích hợp cho tay trái. Lưu ý:

1. Khi tay trái nhấn dây, vai phải thả lỏng. Sức lực của cánh tay trái nén xuống tự nhiên tập trung vào đầu ngón tay. Sau khi nhanh chóng nhấn dây thì lập tức trở về vị trí cũ.

2. Biên độ nhấn của tay trái bắt buộc phải nhỏ mà đều đặn. Tuyệt đối không được làm biến đổi độ cao của âm gốc. Thứ tự diễn tấu của tay trái & phải là gảy trước rồi rung sau. Tay trái nhấn và thả dây đàn trên dư âm sau khi tay phải gảy đàn. Nghiêm cấm làm cả hai tay cùng 1 lúc.

Ngón nhấn luyến (hoạt âm)[sửa | sửa mã nguồn]

Là thủ pháp sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba âm có độ cao khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với thanh điệu tiếng nói. Có hai loại nhấn luyến:

a. Nhấn luyến lên (hoạt âm lên): nghệ nhân gảy vào một dây để vang lên, tay trái nhấn dần lên dây đó làm âm thanh cao lên hoặc tiếp tục nhấn cho cao lên nữa. Sau khi tay phải gảy dây, tay trái ở bên trái con nhạn đem âm mà tay phải gảy nhấn "trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. (Lấy trung âm 5 làm ví dụ: đem 5 là nốt Sol nhấn tới cao âm của dây đàn phía trên cũng chính là 6 - nốt La. Hoạt âm lên của 1 - nốt Đồ chính là đem 1 "trượt lên" cao âm của 2. Cứ như vậy suy ra với những dây còn lại). Đặt dây giống rung âm, sau đó tiến hành luyện tập nhấn dây cho tay trái. Lấy trung âm 5 làm ví dụ: tay phải đặt cân bằng trên hộp điều âm, tay trái đặt trên dây đàn bên trái. Đếm 1 thấy bất động nhưng đếm 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới (1 là ngón tay phải gảy trung âm 5 - Sol, 2 là tay trái hoạt âm lên).

Sau khi tay trái hoàn thành hoạt âm, không được thả tay ra cho tới khi dư âm biến mất mới được thả tay. Nắm vững phương pháp gảy trước nhấn sau. Khi tay trái nhấn dây, vai hạ xuống; đem sức lực tập trung vào đầu ngón tay. Tay trái từng bước thực hiện hoạt âm chuẩn xác. Chú ý diễn tấu, khủy tay không được nhấc lên còn cổ tay thì không được sụp xuống.

Cao âm của hoạt âm lên phải chuẩn xác, bởi sức dãn của mỗi dây là khác nhau nên lực dùng để nhấn dây cũng khác nhau. Nhấn dây ở khu âm cao tương đối dễ dàng. Nhấn ở khu âm trung, thấp thì lực độ mạnh hơn chút. Nghe và luyện nhiều mới có thể nắm bắt chính xác cao âm của hoạt âm.

b. Nhấn luyến xuống (hoạt âm xuống): tương phản với hoạt âm lên. Tay trái ở bên trái nhạn, đem trung âm 5 nhấn đến cao âm của dây trên trước là trung âm 6, sau đó tay phải gảy dây. Sau khi gảy dây xong thì mới từ từ thả tay trái ra khiến cho âm từ cao đến thấp thành 1 khối. Đặt tay lên dây, tay trái nhấn trung âm 5 lên cao độ của trung âm 6 phải duy trì ổn định, không được di chuyển. Nắm vững phương pháp diễn tấu " nhấn trước, gảy rồi thả". Đợi sau khi tay phải gảy xong thì tay trái mới từ từ buông ra. Tốc độ vừa phải.

- Nhấn kết hợp (Hồi hoạt âm): Sau khi tay phải gảy dây,tay trái ở bên con nhạn. Đem âm mà tay phải gảy nhấn "trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. Lấy trung âm 5 làm ví dụ chính là đem 5 (nốt Sol) nhấn tới cao âm của dây đàn phía trên nó cũng chính là 6 (nốt La). Phương pháp đặt dây giống rung âm, nhấn dây cho tay trái và lấy trung âm 5 làm ví dụ. Tay phải đặt cân bằng với hộp điều âm (chỉ có ở cổ tranh Trung Quốc), tay trái đặt lên dây đàn bên trái con nhạn. Đếm nhịp 1 thì thấy bất động cho tới khi đếm nhịp 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới. Tay phải gảy trước, tay trái nhấn sau. Đợi sau khi tay phải gảy 1 lần nữa thì từ từ buông tay trái. (Đếm 1, tay phải gảy bằng thủ pháp "thác". Đếm 2, tay trái nhấn dây đến cao âm mong muốn. Đếm 3, tay trái vẫn giữ vững như vậy, tay phải gảy theo thủ pháp "thác" 1 lần nữa. Đếm 4, tay trái từ từ thả ra khiến cho âm trượt từ cao xuống thấp.

- Ngón nhún: là cách nhấn liên tục trên một dây nào đó làm cho âm thanh cao lên không quá một cung liền bậc. Ngón tay nhún tạo thành những làn sóng có dao động lớn hơn ở ngón rung, làm cho âm thanh thêm mềm mại, tình cảm sâu lắng.

Thủ pháp "Mạt"[sửa | sửa mã nguồn]

Mạt (tiếng Trung: ; bính âm: ) là một kỹ thuật quan trọng trong diễn tấu cổ tranh cũng như đàn sắt. Ngón trỏ hướng về phía lòng bàn tay gảy dây. Tay phải - nửa nắm tay, cổ tay để nằm ngang còn cánh tay mở tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay. Đem ngón trỏ đặt nhẹ nhàng lên trung âm 5. Các ngón tay còn lại buông xuống tự nhiên. Khi mới học, người chơi có thể dùng ngón út và áp út nhẹ nhàng chống đỡ trên dây đàn để ổn định thủ hình. Khi ngón trỏ có thể độc lập diễn tấu thì không cần dùng hai ngón kia.

Khi ngón trỏ đặt dây, đốt bàn tay hơi nhô ra và không được sụp xuống. Mặt bàn tay, cổ tay đặt nằm ngang không được co lại, cánh tay mở ra tự nhiên. Vị trí đặt dây của ngón trỏ cách Tiền nhạc sơn khoảng 3 cm. (Chú ý móng giả không được đặt sâu quá). Khi luyện tập đặt dây cho tay phải, tay trái đặt lên dây đàn tương ứng bên trái, duy trì thủ hình nửa nắm tay. Ngón trỏ đặt dây, dùng đốt nhỏ của ngón trỏ nhẹ nhàng gảy về phía lòng bàn tay. Dùng mặt chính diện của móng giả ngón trỏ gảy dây, gảy hướng về lòng bàn tay. Không được dùng mặt bên của móng giả để gảy dây, như vậy sẽ sản sinh tạp âm. Đốt bàn tay kéo đốt nhỏ gảy đàn, chú ý đốt nhỏ không được móp vào. Khi ngón trỏ gảy, các ngón tay khác thả lỏng tự nhiên. (Khi mới học, lực gảy đừng mạnh quá, chỉ cần gảy nhẹ nhàng & duy trì thủ hình thả lỏng tự nhiên).

Thủ pháp "Câu"[sửa | sửa mã nguồn]

Câu (tiếng Trung: ; bính âm: Gōu) là một thủ pháp diễn tấu cổ tranh bằng ngón tay phải. Ký hiệu của thủ pháp câu được mô tả bằng hình vòng cung. Nó cũng có 2 kiểu diễn tấu tương tự như thủ pháp thác. Bao gồm:

- Câu kiểu đề: Ngón giữa hướng về phía lòng bàn tay gảy dây. Tay phải luôn trong thủ hình nửa nắm tay, cổ tay đặt nằm ngang và cánh tay mở ra tự nhiên. Dồn sức từ vai xuống cánh tay, đặt ngón giữa nhẹ nhàng lên trung âm Sol (5) còn những ngón khác buông xuống tự nhiên.

Thủ pháp nhóm nhỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Là sự kết hợp giữa thủ pháp "thác" và "mạt". Nhóm nhỏ trong thủ pháp này gọi là kỹ thuật song âm (một lúc phát ra 2 âm so với đơn âm sẽ khó hơn chút). Song âm chủ yếu là ngón trỏ và ngón cái cùng tạo thành nhóm nhỏ, khi diễn tấu cần chính xác ngón trỏ và ngón cái, chứ không phải đồng thời dùng lực bốc dây và lướt dây. Dễ chạm vào dây khác âm thanh ta cần không phải là âm thanh song âm chuẩn nên trước tiên phải tìm đúng dây thật chuẩn xác, 2 ngón tay đặt vào dây đàn. Sau đó nhẹ nhàng, 2 ngón phân biệt gảy dây đàn và gảy dây đồng thời nhẹ nhàng thì âm song thanh đồng thời phát ra. Trong thực hiện thủ pháp nhóm nhỏ và nhóm lớn cần chú ý:

1. Chính diện tiếp xúc dây. Trong thực hiện thủ pháp, lưu ý 2 ngón tay. Một ngón tay rất dễ dàng tiếp xúc trực tiếp dây đàn, hai ngón tay và lại có thêm ngón cái có thể rất khó để thực hiện. Để thực hiện tốt, cần điều chỉnh góc độ thích hợp để cả hai ngón đều chính diện tiếp xúc dây đàn. 2 ngón tay phân biệt trên dây đàn, cẩn thận điều chỉnh góc độ để móng giả tiếp xúc chính diện dây đàn.
2. Khi thực hiện các thủ pháp "thác", "mạt" và câu thì vận dụng đốt ngón tay (chứ không phải là nắm tay hay cánh tay) hoàn toàn không vượt ra phạm vi nắm tay, nếu vượt qua phạm vi là cử động quá lớn vì cử động như vậy thì tốc độ càng chậm nên động tác sẽ không rõ ràng. Cần ghi nhớ cách vận dụng đốt ngón tay và điều chỉnh với trạng thái thả lỏng.

Thủ pháp nhóm lớn[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là sự kết hợp giữa thủ pháp "câu" và thác cùng lúc, tức là dùng cả ngón cái và ngón giữa khi diễn tấu. Nó là sự hình thành từ tổ hợp của 2 âm trên và dưới, âm Sol (5) trầm hơn phía dưới là dùng ngón giữa (thủ pháp "câu") diễn tấu. Khi thị xướng và hát giai điệu của âm phía trên.

Nhóm lớn có 2 cách diễn tấu, gồm "giáp" và "đề" (ngón cái và ngón giữa cùng lúc gảy 2 âm cách nhau 1 quãng 8. Đầu tiên đặt dây,tay phải duy trì thủ hình nửa nắm tay và cổ tay đặt nằm ngang, cánh tay mở ra. Dồn sức từ vai xuống cánh tay, ngón cái đặt trên trung âm 5 (nốt Sol), ngón giữa đặt trên trầm âm 5 và các ngón tay còn lại buông xuống tự nhiên. Tay trái đặt trên dây đàn phía trái trung âm 5, duy trì thủ hình nửa nắm tay. Khi đặt dây cần chú ý những điều sau:

1. Khi ngón cái và ngón giữa gảy dây, cố gắng đặt móng tay vuông góc với dây đàn và duy trì thủ hình nửa nắm tay.

2. Khi ngón cái và ngón giữa đặt dây, các ngón khác phải thả lỏng, không được vểnh lên. Chú ý cổ tay phải đặt nằm ngang, không được co lại.

3. Tay trái đặt trên dây đàn bên trái trung âm phải duy trì thủ hình nửa nắm tay.

Sau khi ngón giữa và ngón cái đặt dây xong, hai ngón này đồng thời hướng lòng bàn tay gảy dây. Kiến nghị các bạn trước khi luyện tập, hãy luyện tập động tác túm đồ vật. Để lĩnh hội mấu chốt và cách thức ngón tay phát lực, khi diễn tấu cần chú ý:

1. Ngón cái và ngón giữa phải gảy cùng lúc, không được phát âm lệch nhau.

2. Chú ý phương hướng gảy của ngón cái và ngón trỏ, gảy kiểu "đề" theo hướng lòng bàn tay.

3. Khi diễn tấu, 2 ngón tay phải phát lực bằng nhau và tập trung lực vào đầu ngón tay. Không được nghiêng lệch về ngón nào.

4. Sau khi ngón cái và ngón giữa gảy xong, thủ hình phải thả lỏng tự nhiên, tránh móng giả của 2 ngón va vào nhau gây phát sinh tạp âm.

Tổ hợp Thác và Mạt[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ hợp này được diễn tấu bằng ngón trỏ và ngón cái. Đặt dây và tay phải duy trì thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ lên trung âm Rê (dây thứ 2) trong khi các ngón tay khác buông xuống tự nhiên. Tay trái duy trì thủ hình nửa nắm tay, đặt trên dây đàn bên trái trung âm Sol (5). Trên cơ sở đặt dây chính xác thì ngón trỏ gảy trước, sau khi gảy xong thì ngón cái phải ở trên trung âm 5. Tiến hành áp dụng thủ pháp Thác kiểu Đề. Khi diễn tấu cần chú ý:

1. Khi diễn tấu hai âm, lực độ phải đều đặn
2. Duy trì tính độc lập của ngón cái và ngón trỏ, tránh để thủ hình bị cứng hoặc biến dạng.
3. Khi diễn tấu, cánh tay phải duy trì ổn định và không được nhảy nhót lên xuống.
4. Rung âm của tay trái phải đều đặn, giá trị thời gian phải chuẩn xác.

Tổ hợp Câu - Thác - Mạt - Thác[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ hợp này được diễn tấu bằng ngón giữa, ngón cái và ngón trỏ theo thủ pháp Thác, Mạt và Câu tuần tự theo quy trình "Câu - Thác - Mạt -Thác" mà diễn tấu ra 4 âm. Khi diễn tấu cần chú ý:

1. Giai đoạn mới học có thể chơi kiểu dán dây với tốc độ chậm chút. Sau khi ngón cái gảy xong, ngón cái đến vị trí đặt dây. Kế đến ngón giữa gảy xong, ngón trỏ đến vị trí đặt dây. Cuối cùng ngón trỏ gảy xong, ngón cái đến vị trí đặt dây làm cho các âm nối tiếp tự nhiên. Trên cơ sở luyện tập thành thạo mới luyện tập kiểu rời dây với tốc độ nhanh dần.
2. Khi diễn tấu cần duy trì thủ hình nửa nắm tay, giữ toàn bộ thủ hình bình ổn, Không được nhảy nhót lên xuống.
3. Lực độ phân chia cho 4 âm phải đều nhau, không được âm nặng âm nhẹ.

Thủ pháp Câu - Thác - Mạt - Thác là một kỹ thuật vô cùng quan trọng trong diễn tấu đàn sắt và cổ tranh Trung Quốc cũng như đàn tranh Việt Nam. Khi luyện tập phải tiến hành luyện tập nhiều lần, trên các dây 5 5# 2 và 5#. Sau khi cơ bản nắm được cách chơi, tiếp tục tiến hành luyện tập đi dây căn cứ vào mức độ thành thục của luyện tập có thể mở rộng từ từ khu âm gảy (ví dụ như khu âm trầm và khu bội âm trầm). Thủ pháp tổ hợp này được coi làm nhạc đệm cho hát hay cho các nhạc cụ khác diễn tấu chung thành một bản hoà tấu hoàn chỉnh, khi diễn tấu có thể dùng thị phạm tay phải hoặc tay trái đều được. Khi diễn tấu cần chú ý:

1. Gảy bằng lực của ngón tay, không quá dựa vào lực của cánh tay và vai, Tránh tình trạng diễn tấu căng thẳng.
2. Khi diễn tấu phải duy trì sự bình ổn, thả lỏng của mặt bàn tay. Ngón tay không được lật lung tung.

Nhấn âm 4 và 7[sửa | sửa mã nguồn]

Nhấn âm 4 (nốt Fa): Tay phải và tay trái phân biệt đặt trên trung âm 3 (nốt Mi), duy trì thủ hình đặt dây chính xác. Tay trái nhấn trung âm 3 lên nửa cung thành cao độ của 4, sau đó tay phải tiếp tục gảy trung âm 3. Khi luyện tập nhấn âm 4, cần chú ý:

1. Tay trái nhấn dây phải dứt khoát, chính xác. Duy trì độ ổn định của âm nhấn, lực nhấn dây của tay trái càng nhỏ thì cao âm của tay phải sẽ càng thấp. Ngược lại, lực nhấn dây của tay trái càng lớn thì cao âm của tay phải sẽ càng cao. Vì vậy, khi luyện tập nhấn âm, cần khống chế tốt lực nhấn âm của tay trái; đòi hỏi khi luyện tập phải nghe nhiều và mô phỏng nhiều.

2. Sau khi tay phải gảy dây xong, tay trái giữ vững nhưng đừng thả ra ngay lập tức hoặc là đợi khi tay phải chơi âm tiếp theo thì mới thả ra một cách nhanh chóng để tránh xuất hiện hoạt âm.

3. Thông thường, nếu như thời gian cho phép thì tay trái có thể từ từ nhấn dây trước; ví dụ như diễn tấu 4, 3 (Fa và Mi). Nếu như không có thời gian, tay trái nhấn dây và tay phải diễn tấu gần như phải tiến hành đồng thời. Động tác của tay trái phải dứt khoát, nhanh chóng vào vị trí.

Nhấn âm 7 (nốt Si): giống với cách nhấn âm 4. Tay phải và tay trái phân biệt đặt trên trung âm 6 (nốt La), duy trì thủ hình đặt dây chính xác. Tay trái nhấn trung âm 6 lên 2 cung thành cao độ của 7, sau đó tay phải tiếp tục gảy trung âm 6. Lực nhấn đến 7 phải lớn hơn 4 một chút.

Phân giải hợp âm và bà âm[sửa | sửa mã nguồn]

Hợp âm là từ 3 âm trở lên sắp xếp theo quan hệ quãng âm nhất định (ví dụ Đô - Mi - Sol, Sol - Rê - Sol, Sol - Đô - Rê - Sol), mỗi 1 âm trong quá trình hợp âm phải dựa theo trước sau và tiết tấu nhất định. Lấy hợp âm Sol - Đô - Rê - Sol làm ví dụ, đặt dây và tay phải dựa theo ngón áp út. Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa phân biệt đặt trên các dây Sol - Đô - Rê - Sol. Khi diẽn tấu cần chú ý:

1. Đối với người mới học hay nhỏ tuổi, có thể dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa tiến hành luyện tập trước. Sau khi thành thạo mới dùng thêm ngón áp dụng để tập luyện.

2. Khi mới luyện tập đặt dây, áp dụng theo thứ tự lần lượt từ ngón áp út tới ngón cái. Yêu cầu 4 ngón tay áp dụng cách đặt dây đồng thời. Khi đặt dây yêu cầu nhô ra, duy trì nguyên dạng thủ hình để đầu ngón tay ôm lấy dây đoàn, trânh tình trạng ngón tay méo mó hay cứng ngắc.

3. Khi 4 ngón đặt dây đừng đặt quá sâu, mỗi ngón đều sử dụng đầu ngón tay tiếp xúc dây.

Sau khi đặt dây xong, tay phải bắt đầu diễn tấu từ ngón áp út từ âm cao đến âm thấp và diễn tấu lần lượt theo hướng lòng bàn tay, sau khi gảy xong thì thu về lòng bàn tay một cách tự nhiên. Khi diễn tấu cần chú ý:

1. Tiếp xúc dây bằng mặt chính diện của móng giả, tránh xuất hiện tạp âm từ mặt bên móng giả.

2. Chú ý tính độc lập của mỗi ngón tay. Sau khi gảy dây từng âm, ngón tay lập tức trở về thủ hình nửa nắm tay. Không được co quắp vào lòng bàn tay.

3. Các ngón tay trong khi chơi cần chú ý sự cân bằng của lực độ, sự thống nhất của âm sắc. Không được theo kiểu âm thì mạnh, âm thì yếu.

4. Khi chơi phân giải hợp âm trong vòng quãng 8 (bát độ), ngón tay có thể đặt dây trước một cách có chuẩn bị. Còn phân giải hợp âm quá quãng 8 có thể áp dụng cách chơi rời dây.

Bà âm (tiếng Trung: 琶音; bính âm: páyín) là đem các âm trong hợp âm theo thứ tự từ thấp đến cao diễn tấu theo tốc độ trung bình nhanh. Khi diễn tấu chú ý sự khác biệt và liên hệ giữa Phân giải hợp âm và Bà âm. Hai thủ pháp này giống nhau về mặt thủ hình và cách chơi. Điểm khác biệt nằm ở: Phân giải hợp âm phải diễn tấu chính xác dựa theo tiết tấu quy định mà bà âm về tốc độ hơi nhanh chút. Diễn tấu Bà âm cần phải dựa trên cơ sở thành thạo diễn tấu phân giải hợp âm mới tiến hành tập luyện. Diễn tấu của Bà âm khá tự do có thể là tiết tấu hợp quy tắc, cũng có thể căn cứ vào sự cần thiết của nhạc khúc mà biến hóa và diễn tấu theo hai kiểu thị phạm tay trái (bên trái đàn) hay tay phải (bên phải đàn) hoặc diễn tấu 2 tay.

Kĩ thuật vê ngón[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là kĩ thuật quan trọng trong diễn tấu đàn sắt, cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt Nam. Nó lợi dụng dao động của cánh tay và cổ tay Khiến cho các đơn âm rời rạc liên kết thành 1 tuyến trở thành trường âm liên tục không ngừng khiến cho tiếng nhạc kéo dài thể hiện tác dụng ca xướng của âm nhạc. Vê trong âm nhạc có năng lực biểu hiện phong phú. Nó có thể thông qua các biến hoá về lực độ, tốc độ, âm sắc, tiết tấu,... biểu hiện ra các loại tình cảm âm nhạc khác nhau.

Thủ pháp vê chia làm: vê ngón cái, vê ngón trỏ, vê ngón giữa và vê ngón áp út. Trong đó vê ngón cái là thường gặp nhất. Nó lại chia làm 2 trường hợp: có điểm tựa & không điểm tựa. Đặt dây, mặt bên trái của bụng ngón trỏ tay phải nhẹ nhàng đặt ở chỗ cuốn băng dính của móng giả ngón cái. Ngón giữa, ngón áp út cong vào tự nhiên. Ngón út chống xuống bên phải Tiền nhạc sơn (bên phải đàn), cổ tay hơi ép xuống tiếp cận hộp điều âm (chỉ có ở cổ tranh). Mặt chính diện của móng giả ngón cái tiếp xúc dây. Khi luyện tập đặt dây cần chú ý:

1. Khi mới học, luyện động tác ngón út chống đỡ, rời dây chuyển động cổ tay trước.
2. Mấu chốt để vê tốt chính là nằm ở đặt dây và thủ hình. Khi ngón trỏ giữ móng giả ngón cái, đốt ngón tay của ngón cái phải chống đỡ; không được sụp xuống hay biến dạng. Tác dụng của ngón trỏ là khống chế và cố định móng giả của ngón cái. Lực giữ của ngón trỏ nên vừa phải, nếu như ngón trỏ dùng lực quá nhiều sẽ khiến cổ tay cứng đơ hoặc thủ hình biến dạng. Từ đó mà ảnh hưởng đến sự phát lực của ngón tay. Còn quá thả lỏng, sẽ khiến móng giả ngón cái lắc lư trước sau, thanh âm yếu ớt, đồng thời thiếu tính rõ nét.
3. Ngón giữa, ngón áp út hơi nâng lên, tránh lúc đang vê, móng giả của 2 ngón này chạm vào dây đàn mà sản sinh tạp âm.
4. Ngón út khi chống đỡ cần duy trì ổn định, nhưng đừng dùng lực quá nhiều.

Vê bao hàm 2 động tác diễn tấu ngược nhau là "Tỳ" (琵) và "Thác". Ngón cái đặt dây trên trung âm Sol (5) cách Tiền nhạc sơn khoảng 2 cm, tiếp xúc dây sẵn sàng. Cổ tay kéo ngón cái hướng về phía cơ thể diễn tấu hoàn thành động tác của "Tỳ". Sau khi gảy xong, cổ tay dựa theo quán tính kéo ngón tay hướng về phía trước cơ thể diễn tấu hoàn thành động tác của "Thác"; khi tổ hợp thủ pháp "Tỳ" và "Thác" dao động qua lại một cách nhanh chóng sẽ trở thành kỹ thuật vê. Khi diễn tấu vê ngón, cần chú ý:

1. Khi diễn tấu, phải duy trì thủ hình đặt dây không thay đổi, dựa vào lực chuyển động của cổ tay kéo ngón cái diễn tấu; cần phải nhớ ngón cái không được chủ động phản lực, biên độ chuyển động của cổ tay không được quá lớn.
2. Ngón út làm điểm chống đỡ dựa vào bên phải Tiền nhạc sơn, dùng để ổn định vận động của cổ tay. Trong quá trình diễn tấu không được dao động qua lại.

Luyện vê quãng ngắn có lợi trong việc huấn luyện lực khống chế và cảm giác rõ nét trong liền mạch của vê.

Một số kỹ thuật khác[sửa | sửa mã nguồn]

- Đả (打): Sử dụng ngón áp út để gảy dây trong một chuyển động đóng, về phía lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, cả móng (nếu đủ dài) và "đi bộ" tiếp xúc với dây.

- Phách (劈) hay bài (擘): Sử dụng ngón tay cái để gảy móc trong một chuyển động mở, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay cái.

- Khiêu (挑): Sử dụng ngón trỏ để gảy theo một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay.

- Dịch (剔): Sử dụng ngón tay giữa để gảy theo một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với dây, không có phần nào khác của ngón tay.

- Trích (摘), khẩu (扣): Sử dụng ngón tay đeo nhẫn (thứ tư) để nhổ một chuyển động mở ra, cách xa lòng bàn tay. Nếu sử dụng móng riêng, chỉ có móng tiếp xúc với chuỗi, không có phần nào khác của ngón tay. Nó ảnh hưởng từ cách chơi cổ cầm.

- Dản huyền (间弦): Một số ngón tay gảy vài dây với một chuyển động đóng. Các dây không liền kề nhau và cách nhau một quãng tám.

- Đại toát (大撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón giữa để gảy hai dây có bốn dây giữa chúng trong một chuyển động đóng, các ngón tay di chuyển về phía lòng bàn tay. Điều này nghe như quãng tám khi được phát trên một giai điệu ngũ cung. Nếu sử dụng móng tay riêng, móng tay và đầu bụng của ngón tay chạm vào dây.

- Tiểu toát (小撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón trỏ để gảy hai dây trong một chuyển động đóng, về phía lòng bàn tay. Các dây được gảy phải có một dây giữa chúng.

- Phiến toát (反撮): Sử dụng ngón tay cái và ngón giữa để gảy móc hai dây theo chuyển động mở, cách xa lòng bàn tay. Các dây gảy phải có bốn dây giữa chúng. Nếu sử dụng móng tay riêng, chỉ có móng tay chạm vào dây.

- Phú chỉ (复指): Một lớp các kỹ thuật trong đó cùng một dây được đánh hai lần liên tiếp. Có thể sử dụng cùng một ngón tay hoặc hai ngón tay khác nhau

- Song âm (双音): Đối với hai dây liền kề, nhấn dây thấp hơn để cao độ của nó tăng lên để phù hợp với dây cao hơn. Sử dụng ngón tay cái hoặc ngón trỏ để quét qua cả hai dây, trong một cử chỉ cách người biểu diễn. Nhấn dây thấp hơn sau khi nó được đánh và tạo một âm thanh trượt là một kỹ thuật khác

- Trùng âm (重音): Sử dụng ngón tay cái và ngón trỏ để gảy hai dây liền kề trong một chuyển động đóng, nhấn thấp hơn để tạo ra cao độ tương tự như cao hơn.

Dùng vĩ kéo và que gõ[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn ajaeng - đàn tranh sử dụng vĩ kéo của Triều Tiên
Một nam nhạc công Hàn Quốc đang kéo đàn tranh ajaeng

- Dùng vĩ kéo (chỉ có ở yết tranh Trung Quốc; geomungo 3 dây, ajaeng Triều Tiên và yatga Mông Cổ): đặt đàn lên giá đỡ. Riêng với văn chẩm cầm (đàn tranh kéo 9 dây) phải để dọc đàn khi kéo. Hiếm khi thấy người Việt Nam dùng vĩ kéo chơi trên đàn tranh.

Kỹ thuật tay phải chủ yếu là sử dụng cung vĩ, cung vĩ ở yết tranh khác với cung vĩ đàn nhị nhưng nó có tầm quan trọng đặc biệt: điều khiển khéo léo sẽ làm cho tiếng đàn mềm mại, ngọt ngào hoặc khoẻ mạnh, chắc chắn. Hướng chuyển động của cung vĩ là đẩy từ trên xuống dưới và kéo lên từng dây đàn. Cung vĩ của yết tranh thuộc dạng cung rời như cung của violin hay cello chứ không như cung vĩ mắc liền với dây đàn nhị.

Kỹ thuật tay trái: nhấn và tì nhẹ dây đàn. Các âm tiến hành trong một đường cung vĩ như đánh miết vĩ, nhấn từng âm và các âm vẫn luyến với nhau. Biểu hiện trạng thái đấu tranh gay gắt, có thể diễn tả sự say đắm, nặng nề. Nhịp độ bản nhạc thường là vừa và chậm. Riêng văn chẩm cầm lại kéo giống đàn nhị từ phải sang trái, có điều là kéo từng dây ở tay trái và nhấn tì dây ở tay phải. Âm thanh đàn tranh ajaeng của Hàn Quốc cũng như Triều Tiên có phần não nùng như tiếng rầu rĩ bi thương, tiếng đàn gần giống với nhạc đệm của đàn đáy Việt Nam trong ca trù. Yết tranh Trung Quốc và Ajaeng Triều Tiên có thể vừa gảy vừa kéo trong khi diễn tấu.

- Gõ (chỉ có ở đàn trúc và ngưu cân cầm Trung Quốc; đôi khi cũng dùng cho yatga Mông Cổ): tay phải cầm một que tre gõ lên từng dây đàn. Tay trái nhấn và tì dây. Người chơi cần nắm bắt được cách gõ que đàn sao cho rơi đúng điểm (cách cầu ngựa khoảng 1,5 cm – 2 cm, bụng ở đầu que gảy được rơi ở chính giữa) kết hợp hài hoa giữa cổ tay và ngón tay. Khi bật đầu que nên bật đến độ cao khoảng 45 độ so với mặt đàn.

Mông Cổ[sửa | sửa mã nguồn]

Một đầu của yatga được đặt trên đầu gối của người biểu diễn, đầu còn lại sẽ ở trên sàn hoặc sẽ được đặt trên một giá đỡ. Một số người biểu diễn thích đặt yatga trên hai khán đài. Nhạc cụ sẽ được đặt ở vị trí mà các dây cao hơn ở bên phải và phía trước, và tất cả các dây sẽ chỉ được gảy ở phía bên phải của cầu đàn.

Cao độ của một dây cũng có thể được thay đổi bằng cách di chuyển các cầu đàn. Do thiếu hai ghi chú, nên có một khoảng trống giữa các cầu của dây E và G và cũng có khoảng trống giữa các dây A và C.

Yatga được điều chỉnh bởi các cơ chế ẩn bên phải của yatga. Sau khi điều chỉnh cơ bản, nhạc cụ được tinh chỉnh bằng cách di chuyển các nhạn đàn sang hai bên. Người chơi có thể thay đổi cao độ hoặc một nốt bằng một nửa âm trở lên khi nhấn xuống dây bên trái của cầu đàn.

Bên cạnh các bản nhạc theo phong cách phương tây, một ký hiệu dựa trên số được sử dụng ở Trung Quốc và các quốc gia khác. Dây nốt cao nhất nhận được số 1 và sau đây được đánh số theo thứ tự tăng dần. Giai điệu của dây 1 phải là D hoặc Re nếu sử dụng lược đồ CDEGA. Lối chơi yatga ảnh hưởng mạnh từ đàn sắt và cổ tranh Trung Quốc. Đa phần nhạc công Mông Cổ diễn tấu yatga không hề dùng móng giả khi gảy.

Thông thường các dây màu xanh lá cây là ghi chú A. Cũng có thể điều chỉnh yatga trong 7 nốt trên mỗi quãng tám, hoặc 7 nốt và 3 nốt nửa (thang độ diatonic). Nhiều khi yatga cũng được nhạc công dùng cung vĩ (giống cây vĩ của đàn violin) để kéo vào dây hoặc búng mạnh cung vĩ lên dây để âm thanh yatga có phần sinh động. <ref>“Nhạc công trình diễn đàn yatga”. </rep>

Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]

Đa phần người Nhật chơi đàn koto trong tư thế quỳ gối

Người chơi đàn đeo móng đàn (móng gảy) vào ba ngón tay cái, trỏ và giữa của bàn tay phải để gảy đàn. Tùy từng phái mà hình dáng của móng gảy có thể là tròn hay vuông, độ lớn bé cũng khác. Như phái Ikuta thì dùng móng gảy to hình vuông, còn phái Yamada thì dùng móng gảy tròn hoặc đầu tròn. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, móng gảy có xu hướng mỏng đi. Nuôi móng tay dài có thể chơi koto mà không cần đeo móng đàn. Hoặc có thể chơi bằng phần đầu bụng của ngón tay để chơi.

Ngồi xuống và mở đầu gối của bạn với chiều rộng của thắt lưng của bạn. Tạo khoảng trống với kích thước một vài nắm tay giữa hai đầu gối của bạn.

Thẳng lên xương hông và cột sống của bạn, và hỗ trợ với bụng của bạn. Thư giãn cơ thể và vai trên của bạn. Ngồi xuống chính xác đầu tiên là vô cùng quan trọng.

Hãy ngồi xuống định vị 45 độ cho koto. Một vị trí mà xương sống của bạn đi trên đường mở rộng từ rìa (ryukaku). Đây là vị trí phù hợp bạn ngồi xuống. Tiếp theo vươn tay qua koto một cách tự nhiên; lưu ý không vặn eo, không duỗi khuỷu tay. Và giữ vai của bạn theo chiều ngang.

Khum bàn tay phải của bạn trong một vòng tròn và đặt bàn tay trái của bạn trên các dây đàn với các ngón tay với nhau. Khi bạn chơi một dây đàn xa bạn,không cúi đầu, nhưng uốn cong phần trên của cơ thể từ thắt lưng cho đến khi bàn tay của bạn đạt đến chuỗi tự nhiên. Ngồi thẳng và nâng đỡ phần thân trên của bạn với bụng và đùi của bạn. Khi bạn nhìn vào một cuốn sách âm nhạc, hãy chắc chắn nơi bạn đặt một giá đỡ sách dạy nhạc. Nếu bạn đặt chân đứng bên phải, cổ của bạn trở thành tư thế cong vẹo. Giữ đúng vị trí của bạn, thẳng mặt, Đặt tư thế đứng thẳng từ cái nhìn của bạn.

Móng đàn koto đeo trong ngón tay cái, ngón trỏ và ngón giữa của bạn.

Cong tay nhẹ nhàng theo vòng tròn. Đừng căng thẳng và làm cho nó dễ dàng. Nhấn và tỳ dây đàn xuống mặt đàn có cạnh chính xác, sau đó bạn sẽ tạo ra âm thanh tuyệt vời. Âm sắc koto và độ dày của âm phụ thuộc vào kỹ thuật chơi.

Khi bắt đầu học, bạn chơi koto chủ yếu bằng ngón tay cái của bạn. Trước khi bắt đầu chơi Koto, bạn phải lên dây cho đàn. Để bắt đầu, 13 ngựa đàn (gọi là Ji) được đặt dưới từng dây đàn, sau đó người ta điều chỉnh chúng cho tới khi các dây đạt được chính xác những âm cơ bản. Cách chỉnh âm cơ bản phổ biến nhất của Koto là: mỗi dây có một tên riêng, bắt đầu từ dây trầm nhất, Ichi (1), Ni (2), San (3), Shi (4), Go (5), Roku (6), Shichi (7), Hachi (8), Ku (9), Jyu (10), To (11), I (12), Kin (13). Năm dây tương đương với một quãng tám. Các # hơi trầm hơn hệ âm của phương Tây.

Nhẹ nhàng khum bàn tay của bạn trong một vòng tròn và đặt các ngón tay của bạn trên một dây với nhau. Đặt ngón tay thứ ba và nhỏ của bạn vào một dây và hỗ trợ nó.

Cách chơi với ngón trỏ và ngón giữa của bạn: Khi bạn chơi với ngón trỏ và ngón giữa,khum chúng vào trong (bên trái của koto). Chơi bằng tay trái: Khi bạn thực hành kỹ năng oshide (để căng dây bằng tay trái để điều chỉnh hoặc thay đổi âm thanh),ngón tay trái của bạn có thể bị đau.

Triều Tiên và Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Gayageum[sửa | sửa mã nguồn]

Diễn tấu đàn tranh sanjo gayageum
Diễn tấu đàn tranh Gayageum 25 dây

Theo truyền thống, gayageum được chơi khi ngồi trên sàn với hai chân bắt chéo, đầu đàn nằm trên đầu gối phải và đuôi đàn nằm trên sàn. Khi được chơi trong khi ngồi trên ghế hoặc ghế đẩu, đuôi đàn thường được đặt trên giá đỡ đặc biệt, tương tự như ngồi ghế. Đối với gayageum hiện đại, họ có thể được đặt trên một giá đỡ đặc biệt với người chơi ngồi trên một chiếc ghế phía sau đàn. Người CHDCND Triều Tiên thường chơi trong khi ngồi trên ghế nhưng họ không sử dụng giá đỡ ở đầu đuôi. Thay vào đó, gayageum có đôi chân có thể tháo rời được cố định vào cuối để nâng đuôi đủ cao.

Gayageum được chơi bằng cả tay phải và tay trái. Tay phải gảy và búng dây gần cầu đàn của gayageum trong khi tay trái nhấn và tì dây xuống ở phía bên trái của con nhạn để nâng cao độ của đàn. Gayageum không dùng móng gẩy mà dùng phần đầu bụng ngón tay để gẩy. Ngày nay, kỹ thuật vê ngón trên dây đàn nhưng không cần dùng móng đàn, đòi hỏi nghệ sĩ cần nuôi móng tay dài mới có kỹ thuật vê ngón khi chơi đàn tranh gayageum.

Kéo ngón tay của bạn về phía cơ thể của bạn hoặc đẩy ra khỏi nó trong khi cổ tay của bạn được nâng lên. Tay trái được sử dụng để gảy các dây theo trình tự, hoặc nó chỉ đơn giản là theo dây chỉ được chơi bởi tay phải. Các ngón đàn chơi gayageum gồm ngón búng (튕기기 Twingigi), ngón gẩy (집기 Jipgi), ngón nhấn (농현), lướt dây, ngón vê và ngón giật (뜯기 Tteutgi).

Khi chơi gayageum, tay phải luôn nằm trên mặt đàn bên cạnh hyeonchim (thành đàn). Tay phải giả định vị trí ký hiệu OK. Ngón cái chưa thực sự chạm vào dây, nhưng việc gảy được thực hiện bằng ngón trỏ. Các ngón còn lại luôn nằm trên dây phía trên ngón trỏ. Sau khi gảy, bàn tay mở ra với lòng bàn tay hướng lên. Làm như vậy sẽ kéo dài âm thanh và cho phép nó cộng hưởng. Ngoài ra còn có một kỹ thuật khác là ngón búng, nhưng đó là dành cho người chơi thuần thục. Trong ngón búng, mặt trước của ngón trỏ được sử dụng để chơi dây, người học thuần thục cũng sẽ học cách sử dụng các ngón tay khác ngoài chỉ số để chơi gayageum.

Tay trái được sử dụng để tạm thời thay đổi cường độ của dây khi cần. Chỉ số bên trái và ngón giữa là một ngón trỏ đến không gian ngón tay cái cách xa phía bên trái của con nhạn mọi lúc khi chơi gayageum. Khi cần, chỉ số bên trái và ngón giữa nhấn dây xuống trong khi dây được gảy bằng tay phải. Để chơi ngón rung (농현 nonghyeon), tỳ dây xuống bằng tay trái nhiều lần trong khi âm thanh vẫn vang. Để tạo tiếng nhấn luyến (정숭 jeongsung), tay phải gảy dây còn tay trái túm dây giật nhẹ lên.

Các dây được đặt theo thứ tự điều chỉnh sau đây từ cao nhất, xa nhất, từ ​​người chơi đến cao nhất, dây gần nhất với người chơi đàn.

Kỹ thuật tay phải[sửa | sửa mã nguồn]

Duỗi thẳng các ngón tay trên bàn tay phải của bạn, đảm bảo không có khoảng cách giữa chúng.

Thả lỏng chúng và cuộn tròn chúng vào trong, tạo thành hình nửa nắm tay. Đặt tay phải của bạn lên cầu đàn (hyeonchim) với tay phải của bạn được đặt đúng vị trí, lúc này chúng ta có thể học các kỹ thuật gayageum khác nhau.

Gảy bằng ngón trỏ: số "2" đặt phía trên nốt nhạc cho biết kỹ thuật này. Duỗi thẳng các ngón tay và đưa ngón tay cái của bạn về đốt ngón tay đầu tiên trên ngón trỏ. Làm tròn thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ của bạn trên dây bạn muốn gảy, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn trên dây bên dưới dây đích, và ngón út của bạn đặt trên cầu đàn.

Ngón búng: số "0" được đặt phía trên nốt nhạc cho biết kỹ thuật này. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo thành hình chữ "O". Đặt ngón tay cái của bạn lên dây phía trên dây mục tiêu và dùng ngón trỏ để búng dây. Sau khi bạn búng dây, không uốn cong ngón trỏ và đảm bảo rằng ngón cái của bạn vẫn ở vị trí cũ.

Gảy bằng ngón tay cái: vị trí "1" phía trên nốt nhạc cho biết điều này. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn theo đường chéo trên dây và ba ngón tay còn lại trên dây. Đảm bảo rằng tâm của đốt ngón tay cái đầu tiên chạm vào dây đàn. Cuối cùng, dùng ngón tay cái kéo dây lên trên. Khi bạn gảy đàn và đảm bảo rằng ngón trỏ của bạn tiếp xúc với dây đàn.

Gảy song thanh: để tay ở vị trí "280 độ" phía trên mặt đàn gần cầu đàn; đây là lối gảy 2 đồng âm ở hai dây khác nhau.

Kỹ thuật tay phải[sửa | sửa mã nguồn]

Duỗi thẳng các ngón tay trên bàn tay phải của bạn, đảm bảo không có khoảng cách giữa chúng.

Thả lỏng chúng và cuộn tròn chúng vào trong, tạo thành hình nửa nắm tay. Đặt tay phải của bạn lên cầu đàn (hyeonchim) với tay phải của bạn được đặt đúng vị trí, lúc này chúng ta có thể học các kỹ thuật gayageum khác nhau.

Gảy bằng ngón trỏ: vị trí số "2" đặt phía trên dây với mặt đàn. Duỗi thẳng các ngón tay và đưa ngón tay cái của bạn về đốt ngón tay đầu tiên trên ngón trỏ. Làm tròn thủ hình nửa nắm tay, đặt ngón trỏ của bạn trên dây bạn muốn gảy, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của bạn trên dây bên dưới dây đích, và ngón út của bạn đặt trên cầu đàn.

Ngón búng: vị trí số "0" được đặt trên dây với mặt đàn. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo thành hình chữ "O". Đặt ngón tay cái của bạn lên dây phía trên dây mục tiêu và dùng ngón trỏ để búng dây. Sau khi bạn búng dây, không uốn cong ngón trỏ và đảm bảo rằng ngón cái của bạn vẫn ở vị trí cũ.

Gảy bằng ngón tay cái: vị trí "1" phía trên mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn theo đường chéo trên dây và ba ngón tay còn lại trên dây. Đảm bảo rằng tâm của đốt ngón tay cái đầu tiên chạm vào dây đàn. Cuối cùng, dùng ngón tay cái kéo dây lên trên. Khi bạn gảy đàn và đảm bảo rằng ngón trỏ của bạn tiếp xúc với dây đàn.

Búng hai dây: tại vị trí "280" phía trên mặt đàn. Đưa ngón tay cái của bạn lên đầu ngón trỏ và uốn cong cả hai để tạo và hình chữ "O". Gập ngón tay giữa của bạn sao cho đầu ngón tay ở vị trí thấp hơn một chút so với chiều cao của đầu ngón trỏ. Búng ngón giữa rồi đến ngón trỏ.

Ngón giật: tại vị trí "2-1" phía trên mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bạn trên các dây ở hai bên của dây mục tiêu, di chuyển ngón trỏ của bạn xuống dây mục tiêu và dùng ngón tay cái nhấc nó lên rồi giật nhẹ lại

Song thanh (gảy ngón cái & giữa): tại vị trí "1-3" của mặt đàn. Đặt ngón tay cái và ngón giữa của bạn lên các dây đích và dùng ngón tay cái vuốt nhẹ trước rồi dùng ngón giữa kéo dây vào gần sát dây của ngón cái rồi thả tay ra.

Geomungo[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn tranh geomungo chơi trong tư thế gảy chồng âm bằng que

Geomungo thường được chơi trong khi ngồi trên sàn nhà. Các dây đàn được gảy bằng một que tre ngắn gọi là suldae, được giữ giữa ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải, trong khi tay trái ấn vào dây bằng cách búng và tì dây để tạo ra nhiều nốt khác nhau. Kỹ thuật của đàn tranh geomungo gồm gảy que, đánh chồng âm và tay trái nhấn luyến dây. Điều chỉnh điển hình nhất của dây mở cho âm nhạc truyền thống Hàn Quốc là D # / Eb, G # / Ab, C, A # / Bb, A # / Bb và A # / Bb một quãng tám thấp hơn âm trung tâm. Nhạc cụ được chơi trong âm nhạc cung đình truyền thống của Hàn Quốc (jeongak) và phong cách dân gian của sanjo và sinawi. Cách chơi gồm:

Ngón nhấn: (nhấn bằng gân tay: nhấn và miết dây đàn cho chùng lại bằng tay trái) ngón nhấn tạo cho hai âm nối liền nhau và sẽ trở thành âm luyến lặp lại nhiều lần, nghe mềm mại hơn.

Gảy que: Tay phải cầm que búng lên dây đàn tuỳ vào lực độ vừa hay mạnh trong khi tay trái thao tác ngón nhấn. Tuỳ theo từng nhạc khúc mà khi nhấn nhạc công sẽ nhấn 1 dây hay túm 2 dây trong khi vẫn gảy 1 dây. Nhấn dây bằng tay trái giữa khoảng cách của dây đàn và các phím

Đánh chồng âm: Dùng que gảy gảy liền hai dây với lực mạnh bằng tay phải.

Do âm thanh gõ đặc trưng và kỹ thuật chơi mạnh mẽ của nó, nó được cho là một nhạc cụ trầm hơn so với đàn tranh gayageum 12 dây hoặc 25 dây; tuy nhiên, được chơi bởi cả người biểu diễn nam và nữ.

Geomungo có một loạt các bài hát có thể chơi được và cũng có một loạt các giai điệu lớn.

Những loại đàn thuộc họ đàn tranh ở Đông Nam Á[sửa | sửa mã nguồn]

Mi gyaung[sửa | sửa mã nguồn]

Một cây đàn cá sấu 3 dây (mi gyaung) ở trong một ngôi đền ở Myanmar

Mi gyaung (tiếng Miến Điện: မိကျောင်း [mḭ dʑáʊɴ]) hay kyam (tiếng Môn: ကျာံ, /cam/; đọc là "chyam") là một đàn zither ba dây với hình thù con cá sấu được đẽo từ gỗ, gảy với ba dây được sử dụng như một công cụ truyền thống ở Miến Điện. Nó gắn liền với người Môn.

Thân đàn được làm bằng gỗ được chạm khắc ở mặt trên của "lưng con cá sấu gỗ" giống như một chiếc xuồng độc mộc. Nó có khoảng 13 con nhạn bằng gỗ được nâng lên theo chiều dọc thay vì cách đều nhau hoặc cách đều màu. Nó có đầu và đuôi cá sấu chạm khắc, cũng như bốn chân. Dây đàn của nó được điều chỉnh (từ thấp đến cao) FCF. Chuỗi thấp nhất được làm bằng đồng và hai chuỗi cao hơn được làm từ nylon. Nó được gảy bằng một plectrum hình que ngắn, thon đến một điểm, làm bằng sừng hoặc gỗ cứng. Không giống như đàn chakhe của Thái Lan, miếng gảy không được cầm vào ngón trỏ bên phải, mà thay vào đó chỉ đơn giản là cầm trong tay trái. Kỹ thuật vê ngón trên dây thường được sử dụng bởi tay phải. Nhạc cụ có âm thanh ù bởi vì dây được nâng lên khỏi con nhạn bằng một mảnh tre hoặc vật liệu mỏng khác như nhựa hay gỗ cứng.

Chakhe[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn 3 dây chakhe Thái Lan

Chakhe (tiếng Thái: จะเข้, phát âm tiếng Thái: [t͡ɕā.kʰêː], cũng gọi là jakhe or ja-khe), hay cũng gọi là krapeu (tiếng Khmer: ក្រពើ; hoặc takhe, tiếng Khmer: តាខេ, takhe, takkhe hay charakhe) là đàn với ba dây được sử dụng trong âm nhạc Thái Lan và Khmer. Nhạc cụ tiếng Thái và tiếng Khmer gần như giống hệt nhau. Nó có hai loại, ở Campuchia thì krapeau được làm bằng gỗ cứng theo hình cá sấu cách điệu và cao khoảng 20 cm và dài 130 đùa132 cm, còn thiết kế của Thái Lan là hình dáng quả lê bổ dọc nằm ngang với cổ đàn dài. Phần "đầu" dài 52 cm, rộng 28 cm và sâu 9 trận12 cm; phần "đuôi" dài 81 cm và rộng 11,5 cm. Nó có mười một con nhạn (chakhe) hoặc mười hai con nhạn (krapeu) các phím đàn được làm bằng tre, ngà, xương hoặc gỗ; có chiều cao từ 2 đến 3,5 cm, được dán cố định vào khung bằng sáp hoặc keo. Hai dây cao nhất của nó được làm bằng sợi tơ tằm, chỉ y tế (catgut) hoặc nylon trong khi dây thấp nhất được làm bằng kim loại. Chúng được điều chỉnh với tone là C-G-c. Đàn thường được hỗ trợ bởi ba hoặc năm ở đáy làm chân đàn. 3 dây đàn mắc vào trục (chốt đàn) để lên dây. Kỹ thuật diễn tấu của chakhe hay krapeu tương tự như mi gyaung của Miến Điện.

Kacapi[sửa | sửa mã nguồn]

Chi tiết về cấu tạo của Kacapi Parahu

Kacapi là loại đàn tương tự các loại đàn tranh Á Đông và zither phương Tây. Đây là loại đàn zither của người SundaIndonesia, khu vực Java. Từ kacapi trong tiếng Sundan cũng dùng để chỉ cây sấu đỏ, từ đó ban đầu gỗ được sử dụng để chế tạo đàn này. Con nhạn của kacapi có dạng hình chóp.

Con nhạn Kacapi

Theo hình dạng hoặc hình dạng vật lý của nó, có hai loại kacapi:

Kacapi Parahu (Thuyền Kacapi) hoặc Kacapi Gelung; và Kacapi Parahu là một hộp cộng hưởng với cấu tạo hình thang cân để cho phép âm thanh phát ra. Các cạnh của loại kacapi này được làm thon dần từ trên xuống dưới, tạo cho thùng đàn có hình dạng giống như chiếc thuyền. Vào thời cổ đại, nó được làm trực tiếp từ gỗ nguyên khối bằng cách đục lỗ.

Siter Kacapi là loại đàn zither 15 dây. Tương tự như Kacapi Parahu, lỗ của nó nằm ở phía dưới. Mặt trên và mặt dưới của nó tạo thành hình dạng giống hình thang cân.

Đối với cả hai loại kacapi, mỗi dây được mắc vào con nhạn và Kacapi Parahu (dạng thuyền) có trục chốt ở phía trên bên phải của hộp. Chúng có thể được điều chỉnh trong các hệ thống khác nhau: pelog, sorog/madenda hoặc slendro.

Ngày nay, hộp cộng hưởng của kacapi được tạo ra bằng cách dán sáu tấm gỗ cạnh nhau.

Theo truyền thống, kacapi được chơi bằng cách ngồi khoanh chân trên sàn nhà. Do đó, khoảng cách các dây là khoảng 25 cm trên sàn. Ngày nay, kacapi đôi khi được đặt trên khung gỗ, để người chơi có thể ngồi trên ghế. Nếu kacapi indung được chơi khi đang ngồi trên sàn, thường là một cái gối hoặc một vật nhỏ khác được đặt bên dưới bàn tay trái của nó, như được nhìn thấy từ người chơi, để âm thanh có thể tự do thoát qua lỗ cộng hưởng ở dưới cùng của hộp âm nhạc. Một số kecapi được trang bị chân đế nhỏ, do đó không cần thiết phải nâng chúng theo cách này.

Về âm thanh: hơi giống koto Nhật nhưng âm sắc thiên về zither phương Tây hay guitar. Người ta chơi kacapi gảy trực tiếp bằng đầu ngón tay chứ không đeo móng giả, tương tự như chơi đàn tranh gayageum Hàn Quốc. Cách lên dây của kacapi tương đương với âm sắc của các nhạc cụ Tây Nguyên ở Việt Nam: Sol – Si Do – Re – Fa# - Sol.

Đàn KoTaMo[sửa | sửa mã nguồn]

KoTaMo là loại đàn zither gồm sự kết hợp của đàn tranh koto Nhật, tanputa (một nhạc cụ dây gảy cổ dài, có nguồn gốc từ Ấn Độ, được tìm thấy trong các hình thức khác nhau trong âm nhạc Ấn Độ. Nó không chơi giai điệu mà chỉ hỗ trợ và duy trì giai điệu của một nhạc cụ hoặc ca sĩ khác bằng cách cung cấp một bourdon hoặc drone hòa âm liên tục) và monochord (một nhạc cụ phòng thí nghiệm âm nhạc và khoa học cổ đại).

Koto có các con nhạn di động và cho phép điều chỉnh ở nhiều quy mô khác nhau. Thông thường nó được điều chỉnh trong ngũ giác. Koto và tanpura đều được đặt ở một bên của nhạc cụ. Khi Kotamo được đặt thẳng đứng, có thể chơi cả hai bên một cách đồng thời. Một tay chơi với âm thanh Monochord, tay còn lại ứng biến trên dây của Koto và Tambura. Kotamo tổng cộng có 58 dây và 15 con nhạn của koto. Nếu không có con nhạn của koto, các dây đàn của KoTaMo chỉ toàn là đơn âm.

Đàn Jetigen[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn jetigen của Kazakhstan trong một bảo tàng

Jetigen (tiếng Kazakh: жетіген, phát âm [ʑjɪtjɪɣjɪn], or dzhetigan or zhetygen) là một loại đàn zither có nhạn (ngựa đàn) của người Kazakhstan (có thể hiểu nôm na là đàn tranh của Kazakhstan). Loại jetigen cổ xưa nhất trông giống như chiếc hộp kéo dài rỗng ra từ mảnh gỗ với 7 dây và bảy con nhạn, lúc đầu dây của Jetigen bện từ lông đuôi ngựa nên về sau người ta thay bằng dây nylon hay dây thép. Mặt đàn của Jetigen trông giống như hộp gỗ dài rỗng. Jetigen không có hộp âm thanh và trục đàn. Các dây được kéo dài bằng tay từ phía bên ngoài của đàn. Sau đó, phần trên của Jetigen được phủ hộp âm thanh gỗ. Asyks (con nhạn) đã ra ngoài dưới mỗi dây từ hai bên và trước kia, nhạn của jetigen được làm từ xương động vật. Di chuyển chúng có thể điều chỉnh dây. Nếu các con nhạn (assyks) được kéo lại gần nhau thì giai điệu sẽ tăng lên và nếu tách ra thì giai điệu sẽ giảm xuống. Điều chỉnh dây đàn được thực hiện bởi các con nhạn và bằng cách di chuyển nó trên dây. Các nhạc cụ ban đầu có dạng một hộp hình chữ nhật, được chạm khắc từ gỗ, với các dây kéo dài trên đầu.

Một nghệ sĩ Kazakhstan chơi đàn jetigen

Đàn Ognyugeum[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là một trong những nhạc cụ đặc biệt của Bắc Triều Tiên. Người trẻ nhất cho đến nay, đàn zither Ongnyugeum được cho là đã được tạo ra vào năm 1973 theo yêu cầu của nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Chính Ân. Trong khi quy kết một sáng tác nhạc cụ từ một người đứng đầu nhà nước là nghi ngờ, có thể thấy rằng lãnh đạo Triều Tiên đã thấy những cải cách âm nhạc ra khỏi quốc gia.

Ognyugeum có 32 hoặc 33 dây được sắp xếp trên một bảng âm hình thang. Người chơi ngồi ở vị trí hẹp của đàn và gảy bằng ngón tay. Cả hai điểm cuối bên phải và bên trái của dây được sắp xếp theo các đường cong s phù hợp. Một hàng nhạn cố định nằm ở bên trái của tay người chơi cho phép nhấn dây. Bảng âm có một lỗ âm thanh mở ở phía trên, hướng âm thanh lên trên, thay vì xuống như trên hầu hết các đàn zithers châu Á (đàn tranh) dài khác.

Theo Hàn Quốc nhạc cụ bách khoa của Viện âm nhạc cổ điển quốc gia Hàn Quốc, ongnyugum được chơi bên ngoài Bắc Triều Tiên ở tỉnh Cát Lâm và ở Hàn Quốc; Các trang web video trực tuyến khác nhau và các cửa hàng tin tức đã ghi lại hiệu suất trong vài thập kỷ qua.

Cuốn sách chính thức nhất của người Viking về thảo luận về Ognyugeum là cuốn sách Ognyugeum, xuất bản năm 1988; Có các bản sao trong các thư viện ở Los Angeles, New York và Boston, Hoa Kỳ. Tôi nói nó chính thức bởi vì nó được xuất bản ở Bắc Triều Tiên.

Cách làm đàn tranh tự chế[sửa | sửa mã nguồn]

Một cây đàn tranh tự chế

Không quá khó khi tạo ra chiếc đàn tranh của mình mà không quá đắt so với mua đàn ở cửa hàng nếu chi phí hay kinh tế của bạn không đủ, hãy lấy một tấm gỗ chữ nhật dài, sau đó lấy búa đóng những chiếc đinh lên phần đầu và phần cuối của mặt ván (tùy theo kích thước của ván gỗ). Sau đó mắc dây lên đinh và buộc chặt dây (sử dụng dây từ sợi nilon loại dày để tránh bị đứt, hoặc dùng dây cước càng tốt). Sau đó bạn chỉ cần mua bộ con nhạn đàn tranh rồi xếp lên ván gỗ để mắc dây là xong. Nếu như bạn không đủ tiền mua con nhạn, bạn cũng có thể dùng cành cây gỗ cứng (cành to), đẽo thành hình chiếc kìm chữ A. Hoặc dùng những miếng gỗ hình lập phương kích cỡ khác nhau làm con nhạn mắc dây đàn tùy bạn. Bạn chẳng phải là nghệ nhân hay nhà sản xuất đàn tranh mà cũng tự làm cho mình cây đàn không hề tốn phí quá nhiều tiền.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 古筝改造才刚刚开始——古筝家王天一展望新筝前景[liên kết hỏng]》,中国乐器工业网
  2. ^ “新筝与钢琴协奏曲 《西楚霸王》2016匈牙利新春音乐会 皓东影视工作室”.
  3. ^ “Study of Names of Geomungo in Classical Literatures” (bằng tiếng Hàn).
  4. ^ Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê
  5. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên vanGulik
  6. ^ Wong, Samuel Shengmiao (2005). Qi: An Instrumental Guide to the Chinese Orchestra. Singapore: TENG. tr. 69-83.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]


Bản mẫu:Nhạc cụ dân gian Trung Quốc