Bước tới nội dung

You Belong with Me

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"You Belong with Me"
Bức ảnh bìa của "You Belong with Me" cho thấy Swift đang mặc bộ đồ diễu hành cùng những người bên cô
Đĩa đơn của Taylor Swift
từ album Fearless
Phát hành20 tháng 4 năm 2009 (2009-04-20)
Thu âm2008
Phòng thuBlackbird (Nashville)
Thể loại
Thời lượng3:51
Hãng đĩaBig Machine
Sáng tác
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của Taylor Swift
"White Horse"
(2008)
"You Belong with Me"
(2009)
"Fifteen"
(2009)
Video âm nhạc
"You Belong with Me" trên YouTube

"You Belong with Me" là một bài hát của ca sĩ–nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift kiêm đĩa đơn thứ ba nằm trong album phòng thu thứ hai của cô, Fearless (2008). Big Machine Records phát hành ca khúc này lên đài phát thanh vào ngày 20 tháng 4 năm 2009. Swift lấy cảm hứng thực hiện "You Belong with Me" sau khi nghe được cuộc trò chuyện giữa một thành viên ban nhạc và người bạn gái của anh qua điện thoại. Cô cùng Liz Rose sáng tác ca từ bài hát mang đề tài kể về mối tình đơn phương. Swift và Nathan Chapman đảm nhận sản xuất và phối khí "You Belong with Me" với phần âm thanh mang giai điệu pop đồng quê từ nhạc cụ banjo. Ngoài ra, bài hát còn sử dụng những nhạc cụ như vĩ cầm, mandolin, guitar điện và guitar bass phong cách rock. Mặc dù "You Belong with Me" được quảng bá lên đài phát thanh đồng quê nhưng nhiều nhà phê bình lại gán bài hát này thuộc tiểu thể loại pop thập niên 1980 như pop rockpower pop.

Các nhà phê bình đương thời nhìn chung hoan nghênh "You Belong with Me" nhờ vào phần nhạc thân thiện với đài phát thanh cùng ca từ tràn đầy cảm xúc, song cũng có một số người bảo rằng bài hát này quá giống sản phẩm liền trước của Swift và có thể khó nghe đối với những khán giả nhất định. Tuy một vài nhà phê bình nữ quyền đã từng lên án ca từ slut-shaming nhưng những nhận định về sau lại cho rằng "You Belong with Me" chính là một trong những bài hát biểu tượng của Swift. Tại giải Grammy năm 2010, ca khúc được đề cử ở ba hạng mục gồm Bài hát của nămThu âm của năm. "You Belong with Me" đạt top 10 ở một số bảng xếp hạng và được chứng nhận đĩa tại Úc, Canada, Nhật Bản và New Zealand. Tại Hoa Kỳ, bài hát đạt hạng 2 ở Billboard Hot 100 và trở thành bài hát đồng quê đầu tiên đạt hạng nhất ở cả hai bảng xếp hạng Hot Country Songs và bảng xếp hạng Radio Songs toàn thể loại. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận đĩa đơn 7× Bạch kim.

Roman White phụ trách đạo diễn video âm nhạc cho "You Belong with Me". Nội dung của MV cho thấy Swift đóng cả hai vai diễn: một vai phản diện là hoạt náo viên tóc nâu có danh tiếng nhưng tính tình thiếu thiện cảm; một vai chính diện là cô gái hàng xóm tóc vàng đang khao khát tình yêu từ bạn trai của nhân vật phản diện. Video âm nhạc "You Belong with Me" được công chiếu trên CMT vào ngày 4 tháng 5 năm 2009 và thắng giải Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ tại giải Video âm nhạc của MTV. Câu chuyện Kanye West ngắt ngang bài phát biểu nhận giải của Swift tại buổi lễ đã vấp phải tranh cãi rộng rãi trong truyền thông. Sau vụ tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm với hãng đĩa Big Machine vào năm 2019, nữ ca sĩ tiến hành thu âm lại bài hát này với tên gọi là "You Belong with Me (Taylor's Version)" và phát hành trong album tái thu âm Fearless (Taylor's Version) (2021) của cô. Tính đến năm 2023, Swift đã đưa "You Belong with Me" vào danh sách tiết mục trong 5 chuyến trên tổng 6 chuyến lưu diễn thế giới do cô chủ trì.

Bối cảnh và sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời gian đi lưu diễn với vai trò nghệ sĩ mở màn sân khấu cho các nhạc sĩ nhạc đồng quê khác nhằm quảng bá album đầu tay vào năm 2007 và năm 2008, Taylor Swift tranh thủ sáng tác bài hát cho album phòng thu thứ hai Fearless của cô.[1][2] Nhằm giúp người hâm mộ có thể dễ dàng cảm thấu được ý tưởng của Fearless, nữ ca sĩ tiếp tục đi theo chủ đề lãng mạn như album trước là sáng tác bài hát kể về tình yêu và trải nghiệm cá nhân dưới góc nhìn của thiếu nữ tuổi teen.[3] Nhạc phẩm cuối cùng sẽ là một tập hợp những bài ca bàn về thử thách trong chuyện tình, mà chuyện tình đó lại chứa đựng những hình ảnh thời cấp ba cùng ca từ đậm chất cổ tích.[4] Swift và Nathan Chapman đã thu âm hơn 50 bài hát cho Fearless, nhưng họ chỉ lựa ra 13 bài (trong đó có "You Belong with Me") để đưa vào album.[5] Kỹ sư âm thanh Char Carlson đảm nhận phần thu giọng "You Belong with Me". Bài hát hoàn toàn được sản xuất bởi Swift và Chapman, còn Justin Niebank thì phối trộn âm thanh tại Blackbird Studios ở Nashville, Tennessee.[6]

Swift lấy ý tưởng nghe ngóng được cuộc trò chuyện giữa một thành viên ban nhạc và người bạn gái qua điện thoại để sáng tác "You Belong with Me".[7] Cô còn nhớ lại bạn nam kia trở nên yếu thế khi người bạn gái kia trách móc với anh, và đó cũng là ý tưởng cho cô sáng tác câu mở đầu: "You're on the phone with your girlfriend, she's upset. She's going off about something that you said."[a][8] Swift bày tỏ cảm thông với thành viên ban nhạc và do đó trong bài hát, nữ ca sĩ tự hóa thân làm nhân vật "cô gái hàng xóm" có tình cảm thầm kín với cậu bạn đó. Nhân vật của Swift còn đồng cảm với một người khi yêu phải một cô gái tuy nổi tiếng nhưng tính tình "tự cao tự đại, lố lăng và được đánh giá quá cao".[9][10] Swift lập tức sáng tác thêm vài lời ca và hoàn thiện toàn bộ phần cốt truyện trong một buổi sáng tác cùng Liz Rose.[9] Nữ ca sĩ đã biểu diễn nhạc cụ phân đoạn tiền điệp khúc và điệp khúc cho Rose nghe, rồi cô hát lên hai câu trong bài hát mà cô yêu thích nhất: "She wears short skirts / I wear T-shirts".[b][9][11] Rose gợi ý cho Swift viết "một ý gì đó liên quan đến khán đài" và họ nảy ra thêm một đoạn lời: "She's cheer captain and I'm on the bleachers."[c][11] Swift bảo rằng, "Tôi kể lại câu chuyện và liên hệ lại theo một tình huống khác vì tôi không có tình cảm với một thành viên trong ban nhạc của mình [...] Nhưng tôi hiểu được cảm giác ao ước được một người nào đó mà lại yêu phải một người không biết trân trọng anh ấy."[12]

Nhạc và lời

[sửa | sửa mã nguồn]

"You Belong with Me" là một bài hát sử dụng cấu trúc phân khúc–điệp khúc với phần tiền điệp khúc được chèn ở giữa phân khúc và điệp khúc. Phần phân khúc và điệp khúc đi theo tiến trình hợp âm nguyên I−V−ii−IV (F♯C♯G♯B) và mỗi hợp âm trong đó gồm có hai tiết nhịp.[13] Mặc dù dùng chung hợp âm nhưng phần tiền điệp khúc lại sử dụng tiến trình ii−IV−I−V chỉ có một tiết nhịp ở mỗi hợp âm. "You Belong with Me" là bài hát mang tiết tấu vừa phải có số chỉ nhịp4
4
. Mỗi đoạn nhạc được chia thành các câu có tám tiết nhịp. Trong bài hát, Swift hát bằng nhiều tông giọng khác nhau. Khoảng âm của cô tăng dần theo từng đoạn từ phân khúc đến tiền điệp khúc.[14] Gần hết điệp khúc, Swift áp dụng kỹ thuật luyến láy melisma và hát ba nốt cách nhau quãng ngắn (B−A♯) rồi hạ tông đáng kể (A♯−D♯) ở hai từ "see" và "me" trong lời bài hát "Why can't you see / you belong with me?".[d][15] Hai nhà âm nhạc học Nate Sloan và Charlie Harding đặt tên motif giai điệu ba nốt này là "T-Drop".[e]

Mặc dù đã có nhiều bài đánh giá từ các ấn phẩm đại chúng phân loại "You Belong with Me" là một bài hát pop đồng quê[17] nhưng cũng có nhiều chuyên gia phê bình và nhà âm nhạc học gán cho bài hát này là nhạc pop do ca khúc thỏa điều kiện phát thanh ở nhiều hơn một định dạng.[f] Savannah Dantona từ American Songwriter bảo rằng "You Belong with Me" rõ ràng là một "bài hát pop có chất liệu từ đồng quê chứ không phải là đồng quê có chất liệu từ pop".[21] Nolan Gasser phản biện lại rằng bài hát có gốc gác từ nhạc đồng quê là nhờ vào tiếng bập bùng của banjo ở các phân đoạn, tiếng guitar thép pedal, tiếng riff guitar slide thỉnh thoảng và chất giọng twang dịu nhẹ của Swift.[22] Khi đến điệp khúc của "You Belong with Me", âm thanh nhạc cụ banjo và pedal thép thu nhỏ xuống để dọn đường cho phần nhạc cao trào của guitar bassguitar điện cường độ mạnh xuất hiện.[23]

Mayer Nissim của Digital SpyJody Rosen phân loại "You Belong with Me" là power pop,[24][25] còn tác giả Andrew Unterberger của tạp chí Billboard thì bảo rằng nhờ đoạn chuyển dồn dập từ phân khúc sang điệp khúc mà bài hát này nghe "gần giống... như một bài hát rock thập niên 90".[26] Gasser, Michael Campbell và James E. Perone dẫn ra cấu trúc bài hát, nhịp điệu và cách sử dụng chung của nhạc cụ guitar acoustic, electric và bass để xếp "You Belong with Me" thuộc phong cách thể loại thập niên 1980 như pop rock, new wavepop punk.[27] Theo Perone, bài hát đã sử dụng kiểu kết hợp "hết sức đặc biệt" giữa guitar và banjo đồng quê, giữa sáo và mandolin trong kết cấu nốt móc đơn vững chắc.[28]

Nội dung của "You Belong with Me" kể về tâm tư của một nhân vật nữ đang muốn bày tỏ tình cảm với một người bạn nam đang yêu một cô gái khó ưa.[7][29] Lời bài hát lấy bối cảnh học đường cấp ba điển hình ở Mỹ. Nhân vật chính tự nhận bản thân là một cô gái tầm thường và "dưới kèo", còn cô bạn gái của nhân vật nam là một hoạt náo viên vừa nổi tiếng vừa quyến rũ.[30] Người hát thể hiện giá trị của bản thân với bạn nam qua lời bài hát: "She doesn't get your humor like I do [...] She'll never know your story like I do",[g][31] nhưng chàng trai thì lại không hay biết được điều đó.[32] Nữ chính thì tiếp tục diễn tả sự đối lập về mặt hoàn cảnh của mình so với người bạn gái của anh chàng đó qua đoạn tiền điệp khúc: "She wears high heels, I wear sneakers / She's cheer captain and I'm on the bleachers".[h][33][34] Xuyên suốt bài hát, người dẫn truyện liên tục ra sức cho người bạn nam thấy được tình cảm của cô.[30][35] Thông điệp ẩn của bài hát sau khi giải mã trong album Fearless là "love is so blinded you couldnt see me".[i][36]

Mặc dù mang giai điệu sôi động vui vẻ nhưng một số nhà phê bình lại nhận thấy ca từ của "You Belong with Me" chứa đựng nỗi sầu muộn.[19][37] Họ cho rằng Swift đã tạo nên độ tin cậy và tính gần gũi đại chúng với khán giả của cô bằng cách đặt mình vào hoàn cảnh của cô gái bình dân kém nổi tiếng trong bài hát (ngược lại với hình tượng nổi tiếng và hấp dẫn ngoài đời của nữ ca sĩ).[25][38] Biên tập viên Ken Tucker của đài NPR đánh giá "You Belong with Me" truyền tải hiệu quả được khát khao của thiếu nữ nhờ vào cả phần lời lẫn phần giọng mang đến cảm giác "nhức nhối mãnh liệt" tràn ngập.[39] Gasser bảo rằng ca từ độc thoại là yếu tố gây ảnh hưởng nhất ở thể nhạc đồng quê lên "You Belong with Me",[40] còn Tom Breihan từ Pitchfork thì nhận định chủ đề tình yêu đơn phương của bài hát đã gợi nhớ người nghe đến thể loại "twee indie pop thiên hướng cảm xúc yếu đuối và đau khổ".[19] Trên tờ Edmonton Journal, Amanda Ash cho biết lời bài hát không quá đa cảm bởi vì nhân vật của Swift có ý "chế nhạo một chàng trai lựa chọn sai phụ nữ nhưng cũng phải rớt nước mắt vì sự mù quáng của anh ta".[41]

Phát hành và diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]
Faith Hill cầm mic hát từ góc thấp hơn
"You Belong with Me" là bài hát đồng quê đầu tiên đạt hạng nhất trên Radio Songs của Billboard và số lượng khán giả phát thanh crossover lớn nhất kể từ "Breathe" của Faith Hill (hình) vào năm 2000.

Trước khi Fearless ra mắt, hãng đĩa Big Machine Records đăng tải "You Belong with Me" độc quyền lên trang iTunes Store vào tháng 11 năm 2008 nhằm quảng bá album thứ hai của Swift trong khuôn khổ "Countdown to Fearless".[42] Bài hát ra mắt ở hạng 12 trên Billboard Hot 100 tại Hoa Kỳ nhờ vào 172.000 lượt tải nhạc, giúp cho Swift san bằng số bài hát ra mắt ở top 20 nhiều nhất trong một năm với Jonas Brothers (5 bài hát).[43][44] Sang năm kế tiếp, Big Machine phát hành "You Belong with Me" lên đài phát thanh đồng quê tại Hoa Kỳ làm đĩa đơn thứ ba của Fearless vào ngày 20 tháng 4 năm 2009.[45][46] Bài hát còn được Big Machine hợp tác phát hành lên đài phát thanh hit đương đại vào ngày 18 tháng 5 năm 2009 với Republic Records.[47] Đến giữa tháng 8 năm 2009, "You Belong with Me" đạt hạng cao nhất ở thứ nhì trên Billboard Hot 100, đằng sau "I Gotta Feeling" của nhóm nhạc người Mỹ The Black Eyed Peas.[48]

"You Belong with Me" lập thành tích thu về một lượng khán giả phát thanh crossover (không phải đồng quê) lớn nhất kể từ "Breathe" của Faith Hill vào năm 2000.[49] Tính đến năm 2011, ca khúc vẫn còn giữ kỷ lục số khán giả nghe phát thanh lớn nhất ở một nghệ sĩ đồng quê.[50] Trên bảng xếp hạng Radio Songs Hoa Kỳ, "You Belong with Me" đạt hạng nhất và trở thành đĩa đơn đầu tiên của Swift cũng như bài hát nhạc đồng quê đầu tiên đạt được thành tích này tính từ lúc Billboard bắt đầu đưa Nielsen BDS vào theo dõi số liệu âm nhạc kể từ năm 1990.[51] Ở bảng xếp hạng phát thanh khác, ca khúc giành hai tuần đứng đầu Hot Country Songs,[52] 14 tuần giữ ngôi vương Adult Contemporary,[53] và đạt hạng 2 ở cả hai bảng xếp hạng Pop Songs[54]Adult Pop Songs.[55] "You Belong with Me" là bài hát được phát thanh nhiều thứ nhì trong năm 2009 tại Hoa Kỳ đằng sau đĩa đơn chủ đạo "Love Story" của Fearless.[56] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận "You Belong with Me" đĩa 7× Bạch kim sau khi đạt cột mốc 7 triệu đơn vị tiêu thụ tương đương gồm có doanh số bán lẻ và phát trực tuyến.[57] Bài hát đã bán được 4,9 triệu bản tại Hoa Kỳ tính đến tháng 7 năm 2019.[58]

Mercury Records phụ trách phát hành "You Belong with Me" làm đĩa đơn tại Anh Quốc vào ngày 24 tháng 8 năm 2009.[59] Ca khúc đạt hạng 30 trên UK Singles Chart và được British Phonographic Industry (BPI) chứng nhận đĩa Bạch kim.[60][61] "You Belong with Me" còn đạt top 10 ở bảng xếp hạng Canada (3),[62] Úc (5),[63] New Zealand (5)[64] và Nhật Bản (10);[65] và đạt top 40 ở Ireland (12),[66] Slovakia (17),[67] Hungary (31)[68] và Đan Mạch (32).[69] Ở Canada, bài hát vươn lên vị trí quán quân bảng xếp hạng phát thanh Canada Country,[70] Canada CHR/Top 40[71]Canada Hot AC.[72] "You Belong with Me" còn được chứng nhận đĩa Bạch kim đơn ở Nhật Bản[73] và New Zealand,[74] đĩa 9× Bạch kim ở Úc[75] và đĩa 2× Bạch kim ở Canada.[76]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong các bài đánh giá album Fearless, nhiều nhà phê bình coi "You Belong with Me" là một bài hát nổi bật và khuyến khích tải nhạc về nghe.[j] Một số người tán dương giai điệu bài nhạc bắt tai và thân thiện với đài phát thanh, tương xứng với sự thành công ở định dạng phát thanh crossover của đĩa đơn.[k] Nhà báo Craig S. Semon từ tờ Telegram & Gazette diễn tả "You Belong with Me" là một "bài hát giữ nhiệt không thể cưỡng lại được",[82] còn Chris Richards trên báo The Washington Post thì bảo rằng bài hát đã kết hợp "cực kỳ tự nhiên" giữa hai nhạc cụ banjo đồng quê với guitar new wave.[35]

Giới chuyên môn cũng khen ngợi phần ca từ của "You Belong with Me" đã tạo được tiếng vang với đông đảo khán giả gồm người lớn và bộ phận người nghe cốt lõi của Swift là các cô gái tuổi teen.[l] Một vài cây bút đánh giá thì nhận thấy tính phức tạp thú vị trong sáng tác ca từ của Swift ở bài hát.[84] Josh Love biên soạn cho The Village Voice chọn "You Belong with Me" là một trong những bài hát xuất sắc của album cho thấy nét "thông thái siêu phàm và tính bao hàm" về mặt nội dung.[85] Jon P. McLaughlin bên The Province thì bảo rằng bài hát đã lột tả được "sắc thái và chi tiết chính xác" của mối tình lãng mạn thời trung học.[86] Ash nhận định rằng một bài hát "dí dỏm" như vậy đã tạo nên tính trưởng thành trong góc nhìn tuổi trẻ của Swift, đỡ hơn so với đĩa đơn "ngớ ngẩn" như "Teardrops on My Guitar" (2006).[41]

Mặt khác, một số nhà phê bình bày tỏ quan điểm tế nhị và trái chiều với "You Belong with Me". Tác giả Chris Williams của Billboard bảo rằng lời bài hát nghe có thể trẻ con đối với một số khán giả thưởng thức âm nhạc,[20] còn nhà phê bình Johnny Davis từ The Observer thì bảo rằng những hình ảnh cấp ba trong đó "có thể gây khó chịu với khán giả ở Anh".[87] Mayer Nissim từ Digital Spy chê bai phần ca từ so sánh với nhân vật phản diện là khó tạo được sự đồng cảm và "không để lại nhiều ấn tượng".[24] Sean Daly phê bình trên Tampa Bay Times rằng "You Belong with Me" quá tương đồng với nhiều đĩa đơn trước kia của Swift.[88] Amy Gail Hansen cho rằng bài hát rất giống "Teardrops on My Guitar", "Stay Beautiful" và "Invisible" do tất cả đều kể về cảm xúc ao ước tình yêu từ chàng trai mà người hát lại không thể có được.[12] Sau khi bài hát nhận về đề cử ở ba hạng mục tại giải Grammy lần thứ 52, cây viết Jonathan Keefe phía Slant Magazine lên bài nhận định rằng tuy "You Belong with Me" có thể không là một bài hát xuất sắc nhất do Swift sáng tác nhưng ca khúc này còn đỡ hơn nhiều so đối thủ khác vì "khó có thể đào bới về mặt cấu trúc âm nhạc để chê được".[89]

Thành tựu và tái đánh giá

[sửa | sửa mã nguồn]

Pitchfork xếp "You Belong with Me" ở hạng 69 trong danh sách bài hát xuất sắc nhất năm 2009.[19] Cùng năm, bài hát đứng hạng 10 trong cuộc bình chọn từ đông đảo đội ngũ chuyên môn trên Pazz & Jop của The Village Voice.[90] Năm 2010, "You Belong with Me" giành được đề cử và giải thưởng trong công nghiệp âm nhạc. Tại giải Grammy lần thứ 52, bài hát được đề cử Bài hát của năm, Thu âm của nămTrình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất.[91] "You Belong with Me" thắng Bài hát được yêu thích nhất tại giải Sự lựa chọn của trẻ em năm 2010[92] và được đề cử Bài hát của năm tại giải thưởng Hàn lâm nhạc đồng quê lần thứ 45.[93] Tại giải BMI đồng quê do Broadcast Music, Inc. tổ chức nhằm vinh danh những bài hát đồng quê có hiệu suất phát sóng tốt nhất trên đài phát thanh và truyền hình Mỹ, "You Belong with Me" đưa Swift trở thành người trẻ tuổi nhất đoạt giải Nhạc sĩ sáng tác bài hát của năm. Cô còn là người đầu tiên thắng giải Bài hát của năm ba lần liên tiếp sau "Teardrops on My Guitar" vào năm 2008 và "Love Story" vào năm 2009.[94][95]

Nhiều nhà phê bình đã công nhận "You Belong with Me" là một trong những bài hát biểu tượng của Swift[96][97] và bảo rằng chất nhạc thân thiện với thể loại pop của ca khúc góp phần đưa nữ ca sĩ nhạc đồng quê trở thành một nghệ sĩ nhạc pop đại chúng sau này.[98][99] Tháng 5 năm 2024, Nate Jones của Vulture xếp "You Belong with Me" ở hàng thứ hai sau "All Too Well" trong danh sách xếp hạng 245 bài hát của Swift. Anh ca tụng đây là một bài hát "kinh điển" bàn về cảm xúc thời cấp ba và bảo rằng: "Lời bài hát về váy ngắn và áo thun rất có thể sẽ được nhắc đến trong bản cáo phó của Swift một ngày nào đó".[100] Chris Willman chấp bút cho Variety (2024) đặt "You Belong with Me" ở hàng đầu danh sách của ông và nhận xét rằng phần khí nhạc "cuốn hút một cách kỳ quái" và ca từ truyền cảm mang đề tài cảm xúc tuổi teen đã giúp cho bài hát duy trì độ nổi tiếng về lâu về dài.[101] Nhà báo Hannah Mylrea thuộc NME (2020) xếp bài hát ở hàng thứ 22 trên tổng số 161 bài hát của Swift,[102] và Jane Song biên tập cho Paste (2020) xếp ca khúc ở hạng 8 trên tổng số 158 bài hát.[98] Tuy nhiên, cộng tác viên lâu năm Rob Sheffield đến từ Rolling StoneAlexis Petridis bên The Guardian không đánh giá cao "You Belong with Me". Sheffield (2024) đặt ca khúc ở vị trí thứ 103 trên tổng số 274 bài hát,[103] trong khi Petridis thì bảo rằng bài hát kém ảnh hưởng hơn một chút so với "Love Story".[104]

CMTVH1 lần lượt đưa "You Belong with Me" vào danh sách xuất sắc nhất thập niên 2000 ở hạng 8 và hạng 50.[105][106] Vào năm 2017, Billboard xếp điệp khúc của "You Belong with Me" ở vị trí thứ 52 trong danh sách "100 điệp khúc xuất sắc nhất thế kỷ 21" với lời nhận xét từ nhà phê bình Andrew Unterberger rằng: "Có hàng tá khoảnh khắc mà bạn phải công nhận rằng Taylor Swift một ngày nào đó sẽ trở thành ngôi sao nhạc pop lớn nhất thế giới. Có lẽ không gì có thể sánh hơn đoạn điệp khúc ['You Belong With Me'] không thể chê vào đâu được."[107] Tạp chí này cũng đặt bài hát ở vị trí thứ 42 trong danh sách "500 bài hát pop xuất sắc nhất" (2023) và Jason Lipshutz bảo rằng "những dòng lời đáng nhớ và giọng ca sắc thái đã khiến cho ['You Belong With Me'] trở nên trường tồn theo thời gian".[108] Năm 2020, "You Belong with Me" đứng đầu danh sách "91 bài hát chủ đề tình đơn phương xuất sắc nhất" của Teen Vogue.[109]

Một số tác giả nữ quyền chỉ trích "You Belong with Me" là bài hát chống đối phụ nữ hoặc slut-shaming. Họ chỉ ra rằng lời bài hát mà nhân vật mặc áo thun so sánh bản thân với cô bạn gái phản diện váy ngắn là hành động cho thấy nhân vật chính đang có ý hạ thấp phụ nữ khác để giành lấy ánh mắt chú ý của đàn ông.[110][m] Trên website Vulture, Sady Doyle gọi "You Belong with Me" là "một thành công lớn của chủ nghĩa phân biệt giới tính giữa gái với gái" và cổ xúy "ưu thế đạo đức và phong cách ngoan ngoãn làm điệu thời thập niên 50",[114] còn Lauren Michele Jackson từ Rolling Stone thì gọi đây là "chuyến tham quan sống động đến thung lũng mà ở đó tôi phải đấu đá với nhiều cô gái khác".[115] Nate Jones bảo rằng cũng giống như những bài hát đương thời trước đó của Swift, "You Belong with Me" được sáng tác là nhằm tạo nên sức hấp dẫn cho người thưởng thức có quan điểm bảo thủ và theo phe bang đỏ.[114] Emily St. James từ Vox lên tiếng bảo vệ bài hát. Cô cho rằng những tác giả cáo buộc chống lại phụ nữ đã hoàn toàn ngó lơ tính thiện ý của Swift trong việc "đóng vai cả hai người phụ nữ" khi "những cô gái hàng xóm có tấm lòng nhân hậu sẽ luôn luôn buồn phiền lo lắng cho chàng trai dễ thương mà phải yêu nhầm người đàn bà hoạt náo viên vô liêm sỉ". James nhận xét "You Belong with Me" là một bài hát "phát triển dựa trên cảm xúc tổn thương tha thiết và mãnh liệt".[116]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Bối cảnh và nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]
Hai hình chụp màn hình của "You Belong with Me". Hình trên cho thấy Swift mặc áo thun, đeo kính và mang tóc vàng. Hình dưới cho thấy Swift mang tóc đen và ngồi trên xe mui trần, còn Till thì ngồi bên cạnh với hình ảnh mờ.
Swift thể hiện cả hai vai nhân vật chính (hình trên) và nhân vật phản diện (nữ hình dưới). Lucas Till (nam hình dưới) đóng vai bạn trai trong video âm nhạc "You Belong with Me".

Roman White phụ trách đạo diễn cho video âm nhạc của "You Belong with Me".[117] Swift đóng cả hai vai gồm nhân vật chính ("cô nàng phiền muộn lo lắng cho chàng trai mà cô ấy không thể có được") và nhân vật phản diện ("một cô gái nổi tiếng, khủng khiếp, đáng sợ, hăm dọa và hoàn hảo"). Diễn viên Lucas Till vào vai nam chính trong MV. Anh từng quen biết Swift qua bộ phim Hannah Montana: The Movie vào tháng 4 năm 2008.[118][119] Theo một đoạn phim hậu trường công chiếu trên Great American Country, Swift diễn tả lại rằng nhân vật chính có ước muốn được đứng chung vị trí của nhân vật phản diện trong mối quan hệ với chàng trai. Quá trình quay phim diễn ra trong hai ngày ở hai thành phố GallatinHendersonville bên Tennessee. Những phân cảnh vũ hội và trận đấu bóng bầu dục thì được ghi hình tại trường trung học Pope John Paul II. Tại đây, đội ngũ sản xuất bắt tay hợp tác với nhiều nhân vật quần chúng như học sinh, thành viên ban nhạc, hoạt náo viên và các cầu thủ bóng bầu dục. Swift sử dụng diễn viên thế thân để thực hiện cảnh quay vừa có cả nhân vật chính vừa có cả nhân vật phản diện.[119] Hai chiếc váy mà Swift mặc ở cảnh cuối thì được mua ở hiệu Jovani Fashion.[120]

Đoạn video bắt đầu với cảnh nhân vật của Till đang cãi nhau với bạn gái qua điện thoại, nhân vật chính đeo kính to và mái tóc vàng xoăn khi đó để ý được và bắt chuyện. Cả hai giao tiếp bằng cách giơ biển hiệu qua cửa sổ phòng ngủ liền kề. Đến cuối cùng thì chàng trai đóng cửa sổ lại và không nhìn thấy cô gái tóc vàng giơ tấm biển ghi "I love you". Trong phòng của mình, cô gái tóc vàng thử từng bộ trang phục tuổi teen trung học và nhảy nhót ca hát say sưa đến mức không biết rằng chàng trai đang quan sát cô qua cửa sổ. Ở cảnh này, White đã cắt ghép chỉnh sửa và thay toàn bộ cảnh nhảy múa sao cho theo ý Swift là phải "ngu ngốc nhất". Ngày hôm sau, cô gái tóc vàng đang ngồi trên ghế đọc sách thì chàng trai đến gần và nói chuyện với cô. Nhân vật phản diện với mái tóc thẳng mượt màu nâu điều khiển chiếc mui trần đến, thu hút sự chú ý của chàng trai. Anh và cô gái tóc nâu hôn nhau trên xe. Nhân vật phản diện nhìn cô gái tóc vàng bằng ánh mắt thù địch.[119]

Cô gái tóc nâu là hoạt náo viên trong một trận đấu bóng bầu dục, còn cô gái tóc vàng thì chỉ ngồi trên khán đài và biểu diễn trong ban nhạc trường học (do ban nhạc lưu diễn ngoài đời của Swift thủ vai). Sau khi ghi bàn touch down ấn định chiến thắng, chàng trai phát hiện bạn gái mình đang tán tỉnh một đồng đội (do một người bạn của Austin Swift, em trai ngoài đời của Swift, thủ vai).[121] Anh cãi nhau gay gắt với nhân vật phản diện, và cô gái tóc vàng nhìn thấy được chuyện đó. Quay lại cảnh cửa sổ phòng ngủ, chàng trai và cô gái tóc vàng lại giao tiếp bằng cách giơ biển. Anh hỏi rằng liệu cô gái có đi dự vũ hội không và cô nói không. Cô gái tóc vàng nhận thấy vẻ thất vọng của chàng trai và quyết định mặc bộ váy trắng không đeo kính đi dự vũ hội. Cô gái tóc nâu tiếp cận chàng trai nhưng anh phớt lờ và đi đến chỗ cô gái tóc vàng. Ở cuối video, cả chàng trai lẫn cô gái tóc vàng trao cho nhau tờ giấy gấp lại với nội dung "I love you" và hai người hôn nhau. Theo White, cảnh này dùng để tượng trưng cho "con người thật của cô ấy" và Swift cho rằng đó là một kết thúc có hậu.[119]

Phát hành và đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Taylor Swift mặc váy đỏ, cầm chiếc cúp VMA 2009 và cười tươi.
Swift cùng với cúp Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009.

Video âm nhạc của "You Belong with Me" được công chiếu lên CMT vào ngày 4 tháng 5 năm 2009. Great American Country công chiếu video vào ngày 6 tháng 5 và phát hành phim hậu trường Taylor Swift on the Set: You Belong with Me có thời lượng dài 30 phút sau đó cùng tháng.[122] MTV cũng từng phát sóng xoay tua video âm nhạc "You Belong with Me" lên truyền hình. Trên MTV Buzzworthy Blog, Tamar Anitai nhận xét rằng phần nội dung và trang phục của "You Belong with Me" gợi nhớ đến sáu bộ phim tuổi teen vào cuối thập niên 1990 và 2000 như She's All That, Cô gái lắm chiêu, Đội trống cổ động, Bring It On, A Cinderella StoryNick & Norah's Infinite Playlist.[123] Chris Ryan bảo rằng MV có nội dung tương tự như một bộ phim hài kịch lãng mạn và tán dương "You Belong with Me" là MV đáng nhớ nhất trên MTV vào năm 2009.[124] MV được đề cử Video của năm tại giải thưởng Hàn lâm nhạc đồng quê lần thứ 45,[125] Video của năm và Video nữ ca sĩ của năm tại Giải thưởng Âm nhạc CMT năm 2010.[126] Tại giải Video của MuchMusic năm 2010 bên Canada, MV "You Belong with Me" được đề cử Video nghệ sĩ quốc tế xuất sắc nhất và Lựa chọn của mọi người: Video quốc tế được yêu thích nhất.[127]

Tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009, "You Belong with Me" thắng Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ. Trong lúc Swift đang phát biểu nhận giải, rapper Kanye West bước lên sân khấu, giật mic của Swift và bảo rằng: "Này Taylor, anh rất vui cho em. Anh sẽ để em nói nốt, nhưng Beyoncé có video hay nhất mọi thời đại", nhắc đến MV "Single Ladies (Put a Ring on It)" của Beyoncé được đề cử cùng hạng mục.[128] Sự việc đã biến thành một cuộc tranh cãi trong truyền thông và dẫn đến nhiều Internet meme ra đời, và người ta gọi vụ giật mic đó là "Kanyegate".[129][130] Gần như mọi ấn phẩm và đa số bộ phận công chúng đều chỉ trích hành động của West, đặc biệt tổng thống Mỹ lúc bấy giờ Barack Obama đã gọi West là "thằng khốn".[131] Sau sự việc, West đã gửi lời xin lỗi và được Swift chấp nhận.[132] Học giả văn hóa đại chúng Shaun Cullen gọi sự việc trên là ví dụ của "kịch mê lô chủng tộc" Mỹ. Màn kịch đó tái hiện chính xác hành vi cạnh tranh văn hóa giữa một kẻ phản diện da đen hung bạo thù địch và một nạn nhân da trắng ngây thơ duyên dáng.[133] Mặt khác, Michael Deacon trên báo The Daily Telegraph tuy phản đối hành động giật mic của West nhưng anh lại đồng tình rằng video của Swift đúng là "nhạt nhòa" và "nhàm chán".[134] Vấn đề tranh cãi do giật mic đã tác động xuyên suốt sự nghiệp sau này của cả West và Swift, nhất là mối hiềm khích được nhắc lại trong bản phát hành âm nhạc của cả hai như album năm 2010 My Beautiful Dark Twisted Fantasy cùng đĩa đơn năm 2016 "Famous" của West, và album năm 2017 Reputation của Swift.[135][136][137]

Giới chuyên môn đã công nhận "You Belong with Me" là MV mang tính biểu tượng. Năm 2014, Billboard xếp video vào danh sách "20 video âm nhạc chủ đề học đường cấp ba xuất sắc nhất".[138] Mary Fogarty và Gina Arnold nhận xét rằng MV "You Belong with Me" là cách thức Swift thể hiện tài năng trong việc khắc họa tính cách trái ngược nhau nhưng vẫn giữ được tính chân thực của cô. Họ còn gọi MV là một ví dụ ban đầu về địa vị văn hóa "vừa là nhân vật phản diện vừa là nạn nhân" của Swift, vốn đại diện cho lý tưởng về "một nước Mỹ đã đi vào lịch sử" và "một tương lai nữ quyền".[139] Chiếc áo phông "Junior Jewels" mà nhân vật tóc vàng mặc đã trở thành diện mạo đáng nhớ. Glenn Rowley chấp bút cho website Grammy.com bảo rằng hình ảnh đó "đã hình thành khía cạnh ngốc nghếch trong cá tính của Swift" và cho thấy nữ ca sĩ luôn sẵn sàng nhập vai nhân vật trong các video âm nhạc của cô.[140] Spin (2017) xếp "You Belong with Me" ở hàng thứ hai sau "Blank Space" (2014) trong danh sách MV xuất sắc của Swift và viết rằng: "Đây không phải là lần cuối cùng [Swift] chiến thắng những kẻ được cho là bắt nạt cô ấy (hoặc tự coi mình là nạn nhân)".[141]

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
Swift hát vào mic, mặc đồ chơi trống.
Swift tạo dáng trên sân khấu với màn hình phía sau chiếu cận cảnh khuôn mặt của cô.
Swift biểu diễn "You Belong with Me" làm tiết mục mở đầu trong Fearless Tour. Lúc đầu cô mặc trang phục ban nhạc diễu hành (trái). Sau đó, Swift chuyển sang mặc bộ váy cocktail lấp lánh (phải)

Trong thời gian đi quảng bá Fearless vào năm 2009, Swift trình diễn "You Belong with Me" ở nhiều chương trình truyền hình và sự kiện gồm có The Today Show[142] và giải thưởng Âm nhạc CMT.[143] Nữ ca sĩ biểu diễn tại một mini concert ở trường trung học Bishop Ireton có học sinh đoạt giải cuộc thi Verizon Wireless.[144] Tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2009, Swift biểu diễn "You Belong with Me". Ban đầu nữ ca sĩ hát ở ga tàu điện ngầm khi mặc áo khoác dài màu nâu và đội mũ len đen. Sau đó, cô cởi áo khoác dài và để lộ chiếc váy cocktail màu đỏ. Khi tàu điện ngầm dừng lại, Swift bước lên đứng ở phía trên chiếc taxi màu vàng và kết lại màn trình diễn.[145] Năm 2022, Billboard xếp "You Belong with Me" vào hàng thứ 14 trong danh sách những buổi biểu diễn VMA xuất sắc nhất mọi thời đại.[146] Sau VMA, Swift biểu diễn "You Belong with Me" trên chương trình The ViewSaturday Night Live.[147][148] Cô đã trình diễn bài hát hai lần ở Late Show with David Letterman vào năm 2010 và 2012.[149][150]

Swift từng đưa "You Belong with Me" vào trong danh sách tiết mục của những lễ hội âm nhạc mà cô chủ trì vào năm 2009 như Florida Strawberry Festival,[151] Houston Livestock Show and Rodeo,[152]lễ hội Âm nhạc CMA.[153] Cô còn trình diễn bài hát trên kênh truyền hình GMTV của Anh[154] và tại nhạc hội Sound Relief ở Úc.[155] "You Belong with Me" là tiết mục mở đầu trong chuyến lưu diễn đầu tiên của Swift, Fearless Tour (2009–2010). Trước khi buổi hòa nhạc bắt đầu, màn hình phía sân khấu chiếu những người nổi tiếng gồm có Miley Cyrus, Faith Hill và Garth Brooks chia sẻ định nghĩa về "fearless" theo họ.[156] Khi buổi biểu diễn khai mạc, sân khấu thay đổi chủ đề thành hành lang trường học, còn màn hình sân khấu thì hiện lên các tủ khóa. Sáu vũ công phụ họa diện trang phục hoạt náo và ban nhạc hỗ trợ gồm bảy thành viên mặc trang phục diễu hành. Swift xuất hiện ở phía trên sân khấu, mặc đồng phục đánh trống và hát "You Belong with Me".[157] Giữa màn trình diễn, các vũ công cởi bỏ bộ trang phục diễu hành của Swift và làm lộ chiếc váy cocktail và đôi bốt màu bạc lấp lánh bên trong.[158][159]

Swift đang hát, mặc váy lấp lánh.
Swift trình diễn "You Belong with Me" tại The Eras Tour vào năm 2023

Tại giải Grammy lần thứ 52 vào tháng 2 năm 2010, Swift và Stevie Nicks trình diễn medley các bài hát "You Belong with Me", "Today Was a Fairytale", và "Rhiannon" của Fleetwood Mac. Đầu tiên, Swift mặc áo blouse trắng quần jean và trình diễn "Today Was a Fairytale" bằng guitar acoustic. Nữ ca sĩ tiếp đến song ca bài hát "Rhiannon" cùng Nicks. Sau đó, cô biểu diễn guitar acoustic bài "You Belong with Me". Khi đó, Nicks lui về đánh nhạc cụ tambourine, gật đầu và thỉnh thoảng hát theo Swift.[160] Buổi biểu diễn vấp phải hàng loạt chỉ trích nặng nề do Swift hát lạc tông và hòa giọng tệ với Nicks. Nhiều chuyên gia phê bình đều lên tiếng thắc mắc khả năng ca hát của Swift khi đó.[161][162] Nhà báo Jon Caramanica trên The New York Times bảo rằng thật sảng khoái khi "chứng kiến một ai đó có năng khiếu thỉnh thoảng gây ra sự cố" và với một người ngày càng nổi tiếng như Swift thì cần phải "thất bại đi một chút".[163] CEO Scott Borchetta từ Big Machine bênh vực cho Swift, "Tuy con bé không phải là ca sĩ kỹ thuật xuất sắc nhất, nhưng con bé có thể là ca sĩ thể hiện giàu cảm xúc nhất."[164]

"You Belong with Me" tiếp tục được đưa vào danh sách tiết mục trong chuyến lưu diễn thứ hai và thứ ba của Swift: Speak Now World Tour (2011–2012)[165][166]The Red Tour (2013–2014). Tại Red Tour, Swift đã cải biên bài hát thành phiên bản nhóm nhạc nữ những năm 1960.[167][168] Tháng 10 năm 2012, "You Belong with Me" được biểu diễn tại BBC Radio 1's Teen Awards[169] và trong một tập VH1 Storytellers thu tại Harvey Mudd College bên California.[170] Trong một số buổi lưu diễn ở The 1989 World Tour (2015), Swift thể hiện ca khúc dưới dạng phiên bản acoustic vốn không nằm trong danh sách tiết mục thông thường.[171][172] Cô từng hát "You Belong with Me" tại Formula One United States Grand Prix vào ngày 22 tháng 10 năm 2016,[173] tại sự kiện Super Saturday Night trước Super Bowl vào ngày 4 tháng 2 năm 2017.[174] Swift gộp bài hát với "Style" và "Love Story" thành tiết mục liên khúc trong danh sách trình diễn ở Reputation Stadium Tour (2018).[175] Cô còn biểu diễn "You Belong with Me" ở chuyến lưu diễn The Eras Tour (2023–2024).[176]

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Ca–nhạc sĩ và nhà sản xuất Butch Walker quay một đoạn video dài bảy phút ghi lại cảnh anh thu âm nhạc cụ và cover "You Belong with Me" và xuất bản lên YouTube vào tháng 11 năm 2009. Trong video, Walker chơi trống và chỉnh đàn mandolin rồi hát bài hát với phần lời được sửa lại theo góc nhìn của nam giới.[177] Bản cover về sau được phát hành ở phiên bản Deluxe album năm 2010 I Liked It Better When You Had No Heart của Walker, thuộc thể loại dân gianbluegrass với nhạc cụ là banjo.[178][179] Jonathan Keefe từ Slant Magazine tán dương lối biên khúc "You Belong with Me" của Walker là "tuyệt vời" và bảo rằng bản sáng tác "nhấn mạnh giai điệu và cấu trúc hoàn hảo vốn là điểm ăn khách thực sự ở bài hát".[180]

Nhạc sĩ hài "Weird Al" Yankovic đã chế "You Belong with Me" với tựa đề "TMZ", sau đó phát hành trong album phòng thu Alpocalypse (2011) của anh.[181] Ở "TMZ", Yankovic nhạo báng cách mà thợ săn ảnh và website lá cải TMZ liên tục đăng tin xấu về nghệ sĩ nổi tiếng.[182] Yankovic cho biết bài hát hoàn toàn không thể hiện quan điểm ủng hộ tay săn ảnh hay những người nổi tiếng. Thay vào đó, anh chế giễu "nỗi ám ảnh của mọi người đối với văn hóa của người nổi tiếng. Điều đó đúng là nực cười và chẳng hiểu tại sao chúng ta lại quan tâm đến mấy chuyện đó nữa".[183] Video âm nhạc của "TMZ" do Bill Plympton đạo diễn, được ghi hình vào tháng 10 năm 2010 và đưa vào DVD của Alpocalypse.[184][185] Tháng 3 năm 2010, một nhóm sinh viên đến từ đại học Rochester đăng tải video âm nhạc chế phiên bản đồng tính nam của "You Belong with Me" lên YouTube.[186] Bài hát được sử dụng trong trò chơi điện tử năm 2009 Band Hero.[187] Hai ca sĩ kiêm diễn viên người Mỹ Selena GomezLady Gaga từng hát "You Belong with Me".[188][189]

Đội ngũ sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin phần ghi công được lấy từ ghi chú của Fearless[6]

  • Taylor Swift – giọng hát, sáng tác bài hát, sản xuất
  • Liz Rose – sáng tác bài hát
  • Nathan Chapman – sản xuất
  • Steve Blackmon – trợ lý kỹ thuật thu âm, trợ lý trộn nhạc
  • Chad Carslon – kỹ thuật thu âm
  • Justin Niebank – trộn nhạc

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận của "You Belong with Me"
Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Úc (ARIA)[75] 9× Bạch kim 630.000double-dagger
Canada (Music Canada)[76] 2× Bạch kim 160.000*
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[216] Bạch kim 90.000double-dagger
Nhật Bản (RIAJ)[73] Bạch kim 250.000*
New Zealand (RMNZ)[74] Bạch kim 15.000*
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[217] Vàng 30.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[61] Bạch kim 600.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[57] 7× Bạch kim 7.000.000double-dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

"You Belong with Me (Taylor's Version)"

[sửa | sửa mã nguồn]
"You Belong with Me (Taylor's Version)"
Bài hát của Taylor Swift
từ album Fearless (Taylor's Version)
Phát hành9 tháng 4 năm 2021 (2021-04-09)
Phòng thu
  • Blackbird (Nashville)
  • Prime Recording (Nashville)
Thời lượng3:51
Hãng đĩaRepublic
Sáng tác
Sản xuất
Video lời bài hát
"You Belong with Me (Taylor's Version)" trên YouTube

Năm 2018, Swift rời khỏi Big Machine và ký bản hợp đồng mới với Republic Records.[218] Tuy nhiên, cô đã vướng phải một cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào giữa năm 2019 với người quản lý tài năng Scooter Braun, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Braun đã mua lại Big Machine Records kèm theo các bản thu hoàn chỉnh những album trước đó của nữ ca sĩ dưới sự phát hành từ phía hãng đĩa cũ.[219] Sau khi cân nhắc lựa chọn thì cuối cùng, Swift quyết định tái thu âm sáu album phòng thu đầu tiên vào tháng 11 năm 2020.[220][221] Bằng việc tái thu âm, Swift sẽ có toàn bộ quyền sở hữu bản thu mới, cho phép cô tự cấp phép chính mình sử dụng những bản nhạc tái thu âm với mục đích thương mại và hy vọng thay thế được các phiên bản thuộc quyền sở hữu của Big Machine.[222] Swift phân loại các bản tái thu âm bằng hậu tố "Taylor's Version".[223]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

"You Belong with Me (Taylor's Version)" được Republic Records phát hành trong album Fearless (Taylor's Version) vào ngày 9 tháng 4 năm 2021.[224] Một ngày trước phát hành, ca–nhạc sĩ Olivia RodrigoConan Gray đăng tải video ghi lại cảnh họ khiêu vũ trên đoạn nhạc "You Belong with Me (Taylor's Version)" lên TikTok.[225]

"You Belong with Me (Taylor's Version)" lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn tại Úc (37),[226] Canada (44),[62] Ireland (30),[227] Singapore (20)[228] và Anh Quốc (52).[229] Ca khúc được chứng nhận đĩa 2× Bạch kim ở Úc,[75] đĩa 2× Bạch kim ở Brasil[230] và đĩa Bạc ở Anh Quốc.[231] Tại Hoa Kỳ, "You Belong with Me (Taylor's Version)" đạt cao nhất ở hạng 75 trên Billboard Hot 100[198] và hạng 16 trên Hot Country Songs.[52] Bài hát cũng đạt hạng 51 trên Billboard Global 200.[232]

Sản xuất và đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Swift sản xuất "You Belong with Me (Taylor's Version)" cùng với Christopher Rowe. Rowe thu giọng nữ ca sĩ ở Kitty Committee Studio bên London. David Payne thu âm bài hát dưới sự giúp đỡ của Lowell Reynolds. John Hanes cùng Reynolds và David Garten đảm nhận khâu kỹ thuật tại Black Bird và Prime Recording Studios bên Nashville. Đội ngũ nhạc sĩ của "You Belong with Me (Taylor's Version)" gồm có Amos Heller biểu diễn guitar bass; Mike Meadows biểu diễn guitar acoustic, banjitar, banjo và mandolin; Paul Sidoti biểu diễn guitar điện; Matt Billingslea biểu diễn trống và Jonathan Yudkin biểu diễn sáo. Caitlin Evenson phụ trách hát nền. Serban Ghenea trộn nhạc "You Belong with Me (Taylor's Version)" ở MixStar Studios bên Virginia Beach.[233] Lối biên khúc của "You Belong with Me (Taylor's Version)" được nhận định là giống hệt như bản gốc.[234][235] Theo Alexandra Pollard từ The Independent, các yếu tố âm nhạc trong ca khúc đã được "tái tạo lại một cách tỉ mỉ".[236] Nhà báo Kitty Empire của The Observer cho biết "You Belong with Me (Taylor's Version)" sở hữu khí nhạc "mượt mà" và "sắc thái" hơn, thể hiện rõ ở "cách guitar và banjo hòa quyện với nhau",[234] còn Lucy Habron trực thuộc Clash cho biết âm thanh nhạc cụ rõ ràng hơn sẽ làm cho bài hát trở nên "trong trẻo dễ nghe hơn".[237]

Giới phê bình nhận xét giọng hát của Swift là đặc điểm thay đổi nổi bật nhất và mang đến trải nghiệm nghe mới mẻ. Emily St. James nhận xét rằng trong "You Belong with Me (Taylor's Version)", âm vực giọng của Swift rộng hơn đã khiến cho bản tái thu âm lần này trở nên đầy đặn hơn. Cô cũng cho biết góc nhìn kể chuyện đã thay đổi theo thời gian và tán tụng phiên bản mới là "ấm áp và đồng cảm hơn".[116] Hannah Mylrea phía NME cho biết Swift đã quay trở lại thành công những cảm xúc tuổi teen "bằng tấm lòng tốt và sự rung cảm",[238] còn Saloni Gajjar viết cho The A.V. Club thì nói rằng Swift thay đổi tinh tế trong cách truyền tải nhằm nâng cao tác động cảm xúc của bài hát.[239] Tác giả Joe Coscarelli của báo The New York Times cho biết ca khúc tái thu âm "nghe giống như [một bản cover]" vì giọng hát của Swift đã trưởng thành nhưng ca từ vẫn tuổi teen.[235] Heather Taylor-Singh phía Exclaim! và Jonathan Bernstein từ Rolling Stone nhận định giọng hát của Swift đã phần nào mất đi cảm giác tuổi trẻ như ở bản gốc.[240][241]

Đội ngũ sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin phần ghi công được lấy từ ghi chú của Fearless (Taylor's Version)[233]

  • Taylor Swift – giọng hát chính, sáng tác bài hát, sản xuất
  • Liz Rose – sáng tác bài hát
  • Christopher Rowe – sản xuất, kỹ thuật thu âm
  • Max Bernstein – guitar thép
  • Matt Billingslea – trống, lập trình bộ gõ
  • Dan Burns – lập trình bộ gõ
  • Caitlin Evanson – giọng hát bè
  • Derek Garten – kỹ thuật bổ sung
  • Serban Ghenea – trộn nhạc
  • John Hanes – kỹ thuật
  • Amos Heller – guitar bass
  • Mike Meadows – guitar acoustic, banjitar, banjo, mandolin
  • David Payne – kỹ thuật thu âm
  • Lowell Reynolds – kỹ thuật bổ sung
  • Paul Sidoti – guitar điện
  • Jonathan Yudkin – sáo

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng năm 2021 của "You Belong with Me (Taylor's Version)"
Bảng xếp hạng (2021) Vị trí
cao nhất
Úc (ARIA)[242] 53
Canada (Canadian Hot 100)[62] 44
Global 200 (Billboard)[232] 51
Ireland (IRMA)[227] 30
New Zealand Hot Singles (RMNZ)[243] 5
Singapore (RIAS)[228] 20
Anh Quốc (OCC)[229] 52
Hoa Kỳ Billboard Hot 100[198] 75
Hoa Kỳ Hot Country Songs (Billboard)[52] 16
Bảng xếp hạng năm 2024 của "You Belong with Me (Taylor's Version)"
Bảng xếp hạng (2024) Vị trí
cao nhất
Úc (ARIA)[226] 37

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận của "You Belong with Me (Taylor's Version)"
Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Úc (ARIA)[75] 2× Bạch kim 140.000double-dagger
Brasil (Pro-Música Brasil)[230] 2× Bạch kim 80.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[231] Vàng 400.000double-dagger

double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tạm dịch: "Cậu đang nói chuyện qua điện thoại với bạn gái, cô ấy không vui. Cô ấy giận dỗi vì cậu đã lỡ nói chuyện gì đó."
  2. ^ Tạm dịch: "Cô ấy mặc váy ngắn / Tớ thì mặc áo thun."
  3. ^ Tạm dịch: "Cô ấy là đội trưởng hoạt náo viên / Tớ thì chỉ ngồi trên khán đài."
  4. ^ Tạm dịch: "Tại sao cậu không nhìn thấy được vậy / Cậu thuộc về tớ rồi mà?"
  5. ^ Motif giai điệu ba nốt còn được gọi là nhóm tiết tấu ba nốt trong một âm. Theo Sloan và Harding, "T-Drop" chính là motif giai điệu thương hiệu trong giọng hát của Swift. Về sau, lối thể hiện này còn xuất hiện ở một số bài hát khác của nữ ca sĩ như "Mean" (2010), "State of Grace" (2012) và "Welcome to New York" (2014).[16]
  6. ^ Nguồn từ Paste,[18] Pitchfork[19]Billboard.[20]
  7. ^ Tạm dịch: "Cô ấy không hiểu được trí óc khôi hài của cậu như tớ [...] Cô ấy không bao giờ biết rõ đầu đuôi câu chuyện của cậu như tớ."
  8. ^ Tạm dịch: "Cô ấy mang giày cao gót, tớ thì đeo giày tập / Cô ấy là đội trưởng hoạt náo viên và tớ thì chỉ ngồi trên khán đài."
  9. ^ Tạm dịch: "Tình yêu mù quáng đến mức anh không thể nhìn thấy em."
  10. ^ Nguồn từ bài đánh giá của Rob Sheffield trên Blender,[77] Rashod D. Ollison trên The Baltimore Sun,[78] Folha de S. Paulo[79] và Darryl Sterdan trên Ottawa Sun.[80]
  11. ^ Nguồn từ bài đánh giá của The Belfast Telegraph[81] và Chris Williams trên Billboard.[20]
  12. ^ Nguồn từ Williams,[20] The Belfast Telegraph,[81] Craig Mathieson trên The Age[83] và Leah Greenblatt trên Entertainment Weekly.[29]
  13. ^ Nguồn từ The Washington Post,[111] The A.V. Club[112]MTV.[113]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Kawashima, Dale (ngày 16 tháng 2 năm 2007). “Taylor Swift Interview (2007): She Discusses Her Debut Album, Taylor Swift, Her Hit "Tim McGraw", And How She Got Started” [Phỏng vấn Taylor Swift (2007): Cô ấy thảo luận về album đầu tay của mình, Taylor Swift, bản hit "Tim McGraw" và cách cô ấy khởi nghiệp]. Songwriter Universe (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  2. ^ Tucker, Ken (ngày 26 tháng 3 năm 2008). “The Billboard Q&A: Taylor Swift” [Hỏi đáp Billboard: Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  3. ^ Graff, Gary (ngày 26 tháng 3 năm 2010). “Living Fearless Taylor Swift Talks About Her Whirlwind Rise to the Top” [Sống can đảm Taylor Swift kể về quá trình vươn lên dẫn đầu như cơn lốc của cô ấy]. The Oakland Press (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ Perone 2017, tr. 20.
  5. ^ Ganz, Caryn (ngày 2 tháng 10 năm 2008). “Fall Music Preview: Taylor Swift's Fearless [Nghe trước âm nhạc mùa thu: Fearless của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2024.
  6. ^ a b Taylor Swift (2008). Fearless (Ghi chú CD) (bằng tiếng Anh). Big Machine Records.
  7. ^ a b Bried, Erin (tháng 3 năm 2009). “Taylor Swift Has 1,056,375 Friends” [Taylor Swift có 1.056.375 bạn bè]. Self (bằng tiếng Anh). 31 (3). ProQuest 199854514.
  8. ^ Spencer 2010, tr. 66–67.
  9. ^ a b c Spencer 2010, tr. 67.
  10. ^ Eliscu, Jenny (ngày 2 tháng 10 năm 2008). “Rock & Roll Diary” [Nhật ký Rock & Roll]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh) (1062): 18. ProQuest 220166460.
  11. ^ a b Widdicombe 2011, tr. 110.
  12. ^ a b Hansen 2010, tr. 56.
  13. ^ Gasser 2019, tr. 310; Sloan & Harding 2020, tr. 29.
  14. ^ Gasser 2019, tr. 311.
  15. ^ Sloan & Harding 2020, tr. 22; 31.
  16. ^ Sloan & Harding 2020, tr. 21–23.
  17. ^ Gasser 2019, tr. 310.
  18. ^ Kiefer, Kate (ngày 4 tháng 6 năm 2009). “Six Great Taylor Swift Songs” [Sáu bài hát tuyệt vời của Taylor Swift]. Paste (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  19. ^ a b c d “The Top 100 Tracks of 2009” [Top 100 bài hát của năm 2009]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  20. ^ a b c d Williams, Chris (ngày 2 tháng 5 năm 2009). “The Billboard Reviews: Singles” [Đánh giá của Billboard: Đĩa đơn] (PDF). Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 121 (17): 30. ISSN 0006-2510. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  21. ^ Dantona, Savannah (ngày 21 tháng 9 năm 2023). “From Country to Pop: 5 Taylor Swift Songs That Define Her Genre Shift” [Từ đồng quê đến pop: 5 bài hát của Taylor Swift giúp định nghĩa quá trình thay đổi thể loại nhạc của cô ấy]. American Songwriter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  22. ^ Gasser 2019, tr. 310–311.
  23. ^ Gasser 2019, tr. 311–312; Campbell 2018, tr. 308.
  24. ^ a b Nissim, Mayer (ngày 10 tháng 9 năm 2009). “Taylor Swift: 'You Belong With Me' [Taylor Swift: 'You Belong With Me'] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  25. ^ a b Rosen, Jody (ngày 17 tháng 11 năm 2013). “Why Taylor Swift Is the Reigning Queen of Pop” [Tại sao Taylor Swift là nữ hoàng trị vì của nhạc pop]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  26. ^ Unterberger, Andrew (ngày 26 tháng 4 năm 2017). 'You Don't Get Many Songs Like That': Liz Rose on Co-Writing Taylor Swift's 'You Belong With Me' Chorus” ['Bạn không thể có nhiều bài hát như thế được đâu': Liz Rose nói về quá trình đồng sáng tác điệp khúc 'You Belong With Me' của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  27. ^ Gasser 2019, tr. 311–312; Perone 2017, tr. 22; Campbell 2018, tr. 308.
  28. ^ Perone 2017, tr. 22.
  29. ^ a b Greenblatt, Leah (ngày 5 tháng 11 năm 2008). Fearless (2008)” [Đánh giá Fearless (2008)]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  30. ^ a b Perone 2017, tr. 21–22.
  31. ^ Lewis, Randy (ngày 26 tháng 10 năm 2008). “She's Writing Her Future” [Cô ấy đang viết nên tương lai của mình]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  32. ^ Sloan & Harding 2020, tr. 30.
  33. ^ Cills, Hazel (ngày 19 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: Fearless Album Review” [Đánh giá album Taylor Swift: Fearless]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  34. ^ O'Connor, Roisin (ngày 23 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: Her 100 Album Tracks – Ranked” [Taylor Swift: Xếp hạng 100 bài hát album của cô ấy]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  35. ^ a b Richards, Chris (ngày 11 tháng 11 năm 2008). “Taylor Swift, Fearless and Full of Charm” [Taylor Swift, Fearless và tràn đầy quyến rũ]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). tr. C01. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  36. ^ Hansen 2010, tr. 60.
  37. ^ Mathieson, Craig (ngày 21 tháng 11 năm 2008). “Taylor Swift: Music” [Taylor Swift: Âm nhạc]. The Age (bằng tiếng Anh). tr. 14. ProQuest 364119271.
  38. ^ Farber, Jim (ngày 4 tháng 11 năm 2008). “Wispy Formula Is Still Taylor-Made For Success” [Công thức mỏng manh vẫn được Taylor sử dụng để đạt thành công]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). tr. 36. ProQuest 306247988.
  39. ^ Tucker, Ken (ngày 4 tháng 12 năm 2008). “Taylor Swift's Fearless Follow-Up Album” [Tìm hiểu album Fearless của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  40. ^ Gasser 2019, tr. 312.
  41. ^ a b Ash, Amanda (ngày 6 tháng 12 năm 2008). “Swift's More Mature, But Stays Fearless” [Swift ngày càng trưởng thành nhưng vẫn giữ can đảm]. Edmonton Journal (bằng tiếng Anh). tr. D3. ProQuest 250621343.
  42. ^ Tucker, Ken (ngày 25 tháng 10 năm 2008). “Taylor Swift Goes Global” [Taylor Swift trở nên nổi tiếng toàn cầu] (PDF). Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 120 (43): 22–25. ISSN 0006-2510. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  43. ^ Cohen, Jonathan (ngày 13 tháng 11 năm 2008). “T.I. Leads Hot 100; Kanye, Taylor Debut High” [T.I. dẫn đầu Hot 100; Kayne và Taylor ra mắt hạng cao]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  44. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 22 tháng 11 năm 2008). “Five Times' the Charm for Swift” [Gấp năm lần bùa mê cho Swift]. Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 120 (47): 86. ISSN 0006-2510. ProQuest 227227550.
  45. ^ “Country Aircheck Chart Info” [Thông tin xếp hạng phát thanh đồng quê của Country Aircheck] (PDF). Country Aircheck (bằng tiếng Anh) (136). ngày 13 tháng 4 năm 2009. tr. Chart Page 4. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  46. ^ Strecker, Erin (ngày 23 tháng 4 năm 2015). “Happy Anniversary, Taylor Swift's 'You Belong With Me': 5 Great Moments” [Chúc mừng kỷ niệm 'You Belong With Me' của Taylor Swift: 5 khoảnh khắc tuyệt nhất]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  47. ^ “Airplay Archive – CHR” [Lưu trữ phát thanh – CHR]. FMQB (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  48. ^ Ben-Yehuda, Ayala (ngày 13 tháng 8 năm 2009). “Black Eyed Peas, Jason Mraz Tie Records On Billboard Hot 100” [Black Eyed Peas, Jason Mraz hòa kỷ lục trên Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  49. ^ Ben-Yehuda, Ayala (ngày 6 tháng 8 năm 2009). “T.I., Jay Sean Post Big Numbers On Billboard Hot 100” [T.I., Jay Sean lập con số khủng trên Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  50. ^ Roland, Tom (ngày 10 tháng 12 năm 2011). “How Sparks Fly” [Cách tia sáng vút bay] (PDF). Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 123 (45): 23–24, 26. ISSN 0006-2510. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  51. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 9 năm 2009). “Taylor Swift Climbs Hot 100, Black Eyed Peas Still No. 1” [Taylor Swift leo lên Hot 100, Black Eyed Peas vẫn giữ số 1]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  52. ^ a b c d "Taylor Swift Chart History (Hot Country Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  53. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  54. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  55. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  56. ^ “The Top 10s of 2009” [Những top 10 của năm 2009]. Chicago Tribune (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 12 năm 2009. tr. 5. ProQuest 420844880.
  57. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Taylor Swift – You Belong With Me” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  58. ^ Trust, Gary (ngày 14 tháng 7 năm 2019). “Ask Billboard: Taylor Swift's Career Sales & Streaming Totals, From 'Tim McGraw' to 'You Need to Calm Down' [Hỏi Billboard: Tổng doanh số phát trực tuyến và tiêu thụ trong sự nghiệp của Taylor Swift, từ 'Tim McGraw' đến 'You Need to Calm Down']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  59. ^ “Key Releases: 25.07.09” [Chủ điểm phát hành: 25/7/2009]. Music Week (bằng tiếng Anh). Luân Đôn. ngày 25 tháng 7 năm 2009. tr. 28. ProQuest 232134068.
  60. ^ a b "Taylor Swift: Artist Chart History" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  61. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – You Belong with Me” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  62. ^ a b c d "Taylor Swift Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  63. ^ a b "Australian-charts.com – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  64. ^ a b "Charts.nz – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  65. ^ a b 2010/02/15 付け [Xếp hạng ngày 2010/02/15]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  66. ^ a b "The Irish Charts – Search Results – You Belong with Me" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  67. ^ a b "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 41. týden 2009. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  68. ^ a b "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Rádiós Top 40 játszási lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  69. ^ a b "Danishcharts.com – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  70. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Canada Country)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  71. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  72. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  73. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn kỹ thuật số Nhật Bản – Taylor Swift – You Belong With Me” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024. Chọn 2020年3月 ở menu thả xuống
  74. ^ a b “New Zealand Gold/Platinum Singles” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  75. ^ a b c d “ARIA Charts – Accreditations – 2024 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  76. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Taylor Swift – You Belong With Me” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  77. ^ Sheffield, Rob (ngày 11 tháng 11 năm 2008). Fearless [Fearless]. Blender (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
  78. ^ Ollison, Rashod D. (ngày 11 tháng 11 năm 2008). “Fearless” [Fearless]. The Baltimore Sun (bằng tiếng Anh). tr. C3. ProQuest 406214077.
  79. ^ “CDs” [Đánh giá những đĩa CD]. Folha de S. Paulo (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 6 tháng 4 năm 2009. ProQuest 336231059.
  80. ^ Sterdan, Darryl (ngày 23 tháng 11 năm 2008). “CD Reviews” [Đánh giá CD]. Ottawa Sun (bằng tiếng Anh). tr. E7. ProQuest 2198675002.
  81. ^ a b “Taylor Swift: Fearless” [Taylor Swift: Fearless]. The Belfast Telegraph (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 3 năm 2009. tr. 5. ProQuest 337644374.
  82. ^ Semon, Craig S. (ngày 30 tháng 11 năm 2008). “Teen Phenom Swift Sings with Fearless Sincerity” [Hiện tượng teen Swift hát album Fearless bằng sự chân thành]. Telegram & Gazette (bằng tiếng Anh). tr. G4. ProQuest 269016248.
  83. ^ Mathieson, Craig (ngày 21 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift: Music” [Taylor Swift: Âm nhạc]. The Age (bằng tiếng Anh). tr. 14. ProQuest 364119271.
  84. ^ DeLuca, Dan (ngày 11 tháng 11 năm 2008). “Focused On 'Great Songs', Taylor Swift Isn't Thinking About 'the Next Level' or Joe Jonas Gossip” [Tập trung vào 'bài hát tuyệt vời', Taylor Swift không nghĩ về 'cấp bậc kế tiếp' hoặc tin đàm tiếu về Joe Jonas]. The Philadelphia Inquirer (bằng tiếng Anh). tr. 1. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
  85. ^ Love, Josh (ngày 19 tháng 11 năm 2008). “Taylor Swift's Teenage Country-Star Tales, Spiked With Actual Wisdom” [Câu chuyện ngôi sao đồng quê tuổi teen Taylor Swift, đóng đinh vào thông thái chân thực]. The Village Voice (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
  86. ^ McLaughlin, John P.; Derdeyn, Stuart; Harrison, Tom (ngày 11 tháng 11 năm 2008). “Ultra Sound” [Siêu âm]. The Province (bằng tiếng Anh). tr. B5. ProQuest 269544111.
  87. ^ Davis, Johnny (ngày 15 tháng 2 năm 2009). “Pop Review: Taylor Swift, Fearless [Đánh giá nhạc pop: Taylor Swift, Fearless]. The Observer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
  88. ^ Daly, Sean (ngày 27 tháng 7 năm 2009). “Taylor Swift: New Song 'You Belong With Me' [Taylor Swift: Bài hát mới 'You Belong With Me']. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
  89. ^ Cinquemani, Sal; Henderson, Eric; Keefe, Jonathan (ngày 21 tháng 1 năm 2010). “2010 Grammy Awards: Winner Predictions” [Giải Grammy năm 2010: Dự đoán người đoạt giải]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2024.
  90. ^ “Pazz & Jop: 2009 Singles” [Pazz & Jop: Đĩa đơn năm 2009]. The Village Voice (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  91. ^ “Grammy 2010 Winners List” [Danh sách người thắng giải Grammy năm 2010]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  92. ^ Vena, Jocelyn (ngày 27 tháng 3 năm 2010). “Miley Cyrus, Taylor Lautner Win Big At Kids' Choice Awards” [Miley Cyrus, Taylor Lautner thắng lớn tại giải Sự lựa chọn của trẻ em] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  93. ^ Ward, Kate (ngày 18 tháng 4 năm 2010). “Academy of Country Music: And the Winners Are...” [Giải thưởng Hàn lâm nhạc đồng quê: Những người chiến thắng là...]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  94. ^ “Record-Breaker: Taylor Swift” [Người phá kỷ lục: Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Broadcast Music, Inc. ngày 10 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  95. ^ “Backbeat: BMI Country Awards” [Backbeat: Giải BMI đồng quê] (PDF). Billboard (bản in) (bằng tiếng Anh). 122 (47): 48. ngày 27 tháng 11 năm 2010. ISSN 0006-2510. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  96. ^ Willman, Chris (ngày 28 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift's 'Miss Americana' May Be the Great Protest Song of Our Time (Column)” ['Miss Americana' của Taylor Swift có thể là bài hát biểu tình vĩ đại của thời đại chúng ta (chuyên mục)]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  97. ^ Denis, Kyle (ngày 3 tháng 7 năm 2023). “From Taylor Swift to Olivia Rodrigo: 21 of the Most Anticipated Sophomore Albums by 21st Century Pop Stars” [Từ Taylor Swift đến Olivia Rodrigo: 21 album được mong đợi nhất của các ngôi sao nhạc pop thế kỷ 21 qua từng năm]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  98. ^ a b Song, Jane (ngày 11 tháng 2 năm 2020). “All 158 Taylor Swift Songs, Ranked” [Toàn bộ 158 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng]. Paste (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  99. ^ Armstrong, Jennifer Keishin (ngày 7 tháng 11 năm 2017). “Why Taylor Swift's Fearless Is Her Best Album” [Tại sao Fearless của Taylor Swift là album xuất sắc nhất của cô ấy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  100. ^ Jones, Nate (ngày 20 tháng 5 năm 2024). “All 245 Taylor Swift Songs, Ranked” [Toàn bộ 245 bài hát của Taylor Swift được xếp hạng]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  101. ^ Willman, Chris (ngày 29 tháng 4 năm 2024). “Taylor Swift's 75 Best Songs, Ranked” [75 bài hát xuất sắc nhất của Taylor Swift, được xếp hạng]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  102. ^ Mylrea, Hannah (ngày 8 tháng 9 năm 2020). “Every Taylor Swift Song Ranked In Order of Greatness” [Mọi bài hát của Taylor Swift đều được xếp hạng theo mức độ hay]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  103. ^ Sheffield, Rob (ngày 25 tháng 4 năm 2024). “All 274 of Taylor Swift's Songs, Ranked” [Toàn bộ 274 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  104. ^ Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's Singles – Ranked!” [Đĩa đơn của Taylor Swift – Được xếp hạng!]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  105. ^ “Alan Jackson Tops CMT's 40 Greatest Songs of the Decade [Alan Jackson đứng đầu 40 bài hát hay nhất thập kỷ của CMT] (bằng tiếng Anh). CMT News. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  106. ^ “The 100 Greatest Songs of '00s” [100 bài hát xuất sắc nhất thập niên 2000] (bằng tiếng Anh). VH1. ngày 29 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  107. ^ “The 100 Greatest Choruses of the 21st Century” [100 điệp khúc hay nhất thế kỷ 21]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  108. ^ “The 500 Best Pop Songs: Staff List” [500 bài hát pop xuất sắc nhất: Danh sách của nhân viên]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 10 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  109. ^ Kellogg, Kristi (ngày 19 tháng 3 năm 2020). “91 Best Songs About Unrequited Love” [91 bài hát chủ đề tình đơn phương xuất sắc nhất]. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  110. ^ Jones, Davies & Shlaim 2017, tr. 212.
  111. ^ Goldstein, Jessica (ngày 16 tháng 6 năm 2013). “Taylor Swift's Feminist Doppelganger Takes Off on Twitter” [Doppelgänger nữ quyền của Taylor Swift xuất hiện trên Twitter]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  112. ^ Eakin, Marah (ngày 12 tháng 11 năm 2015). “Emily Heller On Taylor Swift's Slut-Shaming 'You Belong With Me' [Emily Heller nói về bài hát slut-shaming 'You Belong With Me' của Taylor Swift]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  113. ^ Anitai, Tamar (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Here's Why The Mature New 1989-Era Taylor Swift Is A Feminist Superhero” [Đây là lý do tại sao Taylor Swift trưởng thành hồi kỷ nguyên 1989 mới là siêu anh hùng ủng hộ nữ quyền] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  114. ^ a b Jones, Nate (ngày 21 tháng 7 năm 2016). “When Did the Media Turn Against Taylor Swift?” [Tại sao truyền thông lại chống đối Taylor Swift?]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  115. ^ Jackson, Lauren Michele (ngày 12 tháng 11 năm 2018). “10 Years Later, Taylor Swift's Fearless Still Slaps” [10 năm sau, Fearless của Taylor Swift vẫn gây tiếng vang]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  116. ^ a b St. James, Emily (ngày 21 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift's Songs Haven't Changed. But She Has” [Bài hát của Taylor Swift không thay đổi. Nhưng cô ấy thì có]. Vox (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  117. ^ Jepson 2013, tr. 122–123.
  118. ^ Vena, Jocelyn (ngày 5 tháng 5 năm 2009). “Taylor Swift Hooks Up With Lucas Till In 'You Belong With Me' Video” [Taylor Swift hẹn hò với Lucas Till trong video 'You Belong With Me'] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2024.
  119. ^ a b c d “On the Set Behind the Scenes 'You Belong with Me'”. Taylor Swift: On the Set (bằng tiếng Anh). Big Machine Records. 2009. Great American Country.
  120. ^ Schutte, Lauren (ngày 25 tháng 5 năm 2009). “Taylor Swift's Video Looks” [Xem video của Taylor Swift]. Us Weekly (bằng tiếng Anh) (745): 67. ProQuest 501794353.
  121. ^ Spencer 2010, tr. 83.
  122. ^ Cantrell, L. B. (ngày 4 tháng 5 năm 2009). “Taylor Swift's Mother's Day Two-Fer” [Taylor Swift ra mắt hai sản phẩm ca nhạc trong ngày của mẹ]. MusicRow (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  123. ^ Anitai, Tamar (ngày 1 tháng 7 năm 2009). “Six Teen Movies Alluded To In Taylor Swift's 'You Belong With Me' Video” [Sáu bộ phim teen được gợi nhớ trong video 'You Belong With Me' của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  124. ^ Ryan, Chris (ngày 31 tháng 12 năm 2009). “Chris Counts Down Buzzworthy's Top 5 Videos Of The Year – Number 1: Taylor Swift, 'You Belong With Me' [Chris đếm ngược top 5 video âm nhạc trong năm trên Buzzworthy – Số 1: Taylor Swift, 'You Belong With Me'] (bằng tiếng Anh). MTV Buzzworthy Blog. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  125. ^ “45th Academy of Country Music Awards Nominees” [Ứng cử viên đề cử giải thưởng Hàn lâm nhạc đồng quê lần thứ 45] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm nhạc đồng quê. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  126. ^ “2010 CMT Music Awards” [Giải thưởng Âm nhạc CMT năm 2010] (bằng tiếng Anh). Giải thưởng Âm nhạc CMT. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  127. ^ “2010 MuchMusic Video Awards” [Giải Video của MuchMusic năm 2010] (bằng tiếng Anh). MuchMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  128. ^ Rodriguez, Jayson (ngày 13 tháng 9 năm 2009). “Kanye West Crashes VMA Stage During Taylor Swift's Award Speech” [Kanye West xông lên sân khấu VMA trong lúc Taylor Swift đang phát biểu nhận giải] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  129. ^ Krepps, Daniel (ngày 15 tháng 9 năm 2009). “MTV's 2009 VMAs Pull Nine Million Viewers, Best Ratings Since '04” [Giải VMA của MTV năm 2009 thu hút 9 triệu lượt xem, đạt tỷ lệ bình chọn cao nhất kể từ 2004]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  130. ^ Aminosharei, Nojan (ngày 13 tháng 9 năm 2010). “Kanye And Taylor Swift Turn The VMAs Into Their Personal Peace Summit” [Kanye và Taylor Swift hô biến VMA thành hội nghị thượng đỉnh hòa bình riêng tư giữa họ]. Elle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  131. ^ Cullen 2016, tr. 33.
  132. ^ Vena, Jocelyn (ngày 14 tháng 10 năm 2009). “Taylor Swift Tells Oprah Winfrey She's Accepted Kanye West's Apology” [Taylor Swift bảo Oprah Winfrey rằng cô ấy nhận lời xin lỗi của Kanye West] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  133. ^ Cullen 2016, tr. 35.
  134. ^ Deacon, Michael (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “Kanye West is an idiot. But he's got a point” [Kanye West là một thằng ngu. Nhưng anh ta nói cũng có lý]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  135. ^ Cullen 2016, tr. 34.
  136. ^ Grady, Constance (ngày 1 tháng 7 năm 2019). “The Taylor Swift/Scooter Braun Controversy, Explained” [Tranh cãi Taylor Swift/Scooter Braun, được giải thích]. Vox (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  137. ^ Voght, Kara (ngày 22 tháng 12 năm 2022). “The Year Everyone Realized They Were Wrong About Taylor Swift vs. Kanye West” [Năm mà mọi người nhận ra họ đã nghĩ sai về Taylor Swift với Kanye West]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  138. ^ Partridge, Kenneth (ngày 3 tháng 9 năm 2014). “20 Best High School Music Videos” [20 video âm nhạc chủ đề học đường cấp ba xuất sắc nhất]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  139. ^ Fogarty & Arnold 2021, tr. 2.
  140. ^ Rowley, Glenn (ngày 8 tháng 2 năm 2023). “Taylor Swift's Essential Music Videos, From 'You Belong With Me' To 'Anti-Hero' [Video âm nhạc quan trọng nhất của Taylor Swift, từ 'You Belong With Me' đến 'Anti-Hero'] (bằng tiếng Anh). Grammy.com. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  141. ^ “30 Taylor Swift Music Videos, Ranked” [30 video âm nhạc của Taylor Swift, được xếp hạng]. Spin (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  142. ^ “Did You See Taylor Swift on The Today Show This Morning?” [Bạn có thấy Taylor Swift trên The Today Show sáng nay không?]. Seventeen (bằng tiếng Anh). ngày 29 tháng 5 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  143. ^ Tena, Lee (ngày 10 tháng 11 năm 2009). “Hendersonville High School Students to Share CMA Spotlight with Taylor Swift” [Học sinh trường trung học Hendersonville chia sẻ tiêu đimeer của CMA với Taylor Swift]. The Tennessean (bằng tiếng Anh). ProQuest 239911048.
  144. ^ du Lac, J Freedom (ngày 29 tháng 4 năm 2009). “OMG! As School's Prize, Swift Is Utterly Winning” [CHÚA ƠI! Là giải thưởng của trường, Swift hoàn toàn là chiến thắng đấy]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). tr. C1. ProQuest 410278419.
  145. ^ Wilkinson, Amy; Vena, Jocelyn (ngày 13 tháng 9 năm 2009). “Taylor Swift Puts NYC Front And Center With VMA Subway Performance” [Taylor Swift đưa cả NY lên màn trình diễn VMA trên tàu điện ngầm] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  146. ^ Pascual, Danielle (ngày 26 tháng 8 năm 2022). “The 22 Best VMAs Performances of All Time: Critics' Picks” [22 màn trình diễn VMAs hay nhất mọi thời đại: Lựa chọn của các nhà phê bình]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  147. ^ Vena, Jocelyn (ngày 15 tháng 9 năm 2009). “Taylor Swift Tells The View Kanye West Hasn't Contacted Her” [Taylor Swift kể với The View Kanye West chưa liên lạc với cô ấy] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  148. ^ Montgomery, James (ngày 8 tháng 11 năm 2009). “Taylor Swift's SNL Gig Includes Jokes About Taylor Lautner, Kanye West” [Buổi biểu diễn SNL của Taylor Swift gồm có những trò đùa về Taylor Lautner, Kanye West] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  149. ^ Hauk, Hunter (ngày 13 tháng 12 năm 2023). “13 Country Performances By Taylor Swift” [13 buổi biểu diễn nhạc đồng quê của Taylor Swift]. Cowboys & Indians (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  150. ^ Luiz (ngày 6 tháng 11 năm 2012). “Confira o showcase de Taylor Swift para o "Late Show with David Letterman" [Xem buổi biểu diễn của Taylor Swift trên "Late Show with David Letterman"]. Febre Teen (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  151. ^ Wynne, Sharon Kennedy (ngày 9 tháng 4 năm 2023). “On Her Way to the Top, Rising Teen Star Taylor Swift Made Her Mark at Local Venues Including the Old St. Pete Pier” [Trên đường đến đỉnh cao, ngôi sao tuổi teen đang lên Taylor Swift đã ghi dấu ấn tại các địa điểm địa phương bao gồm cả Bến tàu St. Pete cũ]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). tr. 1. ProQuest 2798704084.
  152. ^ Guerra, Joey (ngày 21 tháng 3 năm 2009). “Taylor Swift Brings Sweetness and Sass” [Taylor Swift mang đến sự ngọt ngào và ngổ ngáo]. Houston Chronicle (bằng tiếng Anh). tr. B2. ProQuest 396442636.
  153. ^ “Sunday Night's LP Field Show” [Chương trình biểu diễn LP tối chủ nhật]. The Tennessean (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 6 năm 2009. ProQuest 239936915.
  154. ^ “Taylor Swift, The Teen Queen of Country Music, Performs Her Latest Single and US No.1, 'You Belong With Me' [Taylor Swift, nữ hoàng nhạc đồng quê tuổi teen, biểu diễn đĩa đơn mới nhất và quán quân tại Mỹ, 'You Belong With Me'] (bằng tiếng Anh). GMTV. ngày 21 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  155. ^ Sennett, Sean (ngày 9 tháng 3 năm 2009). “Swift Mania Has Arrived” [Cơn sốt Swift đã đến]. The Australian (bằng tiếng Anh). tr. 30. ProQuest 356693717.
  156. ^ Johnson, Kevin C (ngày 27 tháng 4 năm 2009). “Headlining Suits Swift: Concert Review” [Bộ đồ của Swift gây chú ý: Đánh giá buổi hòa nhạc]. St. Louis Post-Dispatch (bằng tiếng Anh). tr. A2. ProQuest 403212894.
  157. ^ McDonnell, Brandy (ngày 1 tháng 4 năm 2010). “Concert review: Taylor Swift Brings Fearless Show to Ford Center” [Đánh giá buổi hòa nhạc: Taylor Swift mang buổi biểu diễn Fearless đến Ford Center]. The Oklahoman (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  158. ^ Malitz, David (ngày 13 tháng 6 năm 2009). “A Fearless Taylor Swift at Merriweather: Pop Without the Tart” [Taylor Swift Fearless tại Merriweather: Nhạc pop không có sex]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). tr. C2. ProQuest 410306732.
  159. ^ Mervis, Scott (ngày 2 tháng 10 năm 2009). “Taylor Swift Proves to Be the Real Thing” [Taylor Swift chứng tỏ mình là người có thật]. Pittsburgh Post-Gazette (bằng tiếng Anh). tr. C2. ProQuest 390413688.
  160. ^ Ditzian, Eric (ngày 31 tháng 1 năm 2010). “Taylor Swift Shares The Stage With Stevie Nicks At The Grammys” [Taylor Swift đứng chung sân khấu với Stevie Nicks tại lễ trao giải Grammy] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  161. ^ Montgomery, James (ngày 3 tháng 2 năm 2010). “Taylor Swift Backlash: Readers Weigh In” [Phản ứng dữ dội của Taylor Swift: Độc giả cân nhắc] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  162. ^ Daly, Sean (ngày 6 tháng 3 năm 2010). “Hold On, Taylor Haters” [Khoan đã, những kẻ ghét Taylor]. Sun Sentinel (bằng tiếng Anh). tr. A4. ProQuest 387412812.
  163. ^ Caramanica, Jon (ngày 1 tháng 2 năm 2010). “For Young Superstar Taylor Swift, Big Wins Mean Innocence Lost” [Đối với siêu sao trẻ Taylor Swift, thắng lớn có nghĩa là đánh mất sự ngây thơ]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  164. ^ Kreps, Daniel (ngày 4 tháng 2 năm 2010). “Taylor Swift's Label Lashes Out at Critics of Grammy Performance” [Hãng thu âm của Taylor Swift phản bác các nhà phê bình về màn trình diễn ở giải Grammy]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  165. ^ Coffey, Kevin (ngày 28 tháng 5 năm 2011). “Taylor Swift Shimmers in Omaha” [Taylor Swift lung linh ở Omaha]. Omaha World-Herald (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  166. ^ Jenkin, Lydia (ngày 17 tháng 3 năm 2012). “Concert Review: Taylor Swift at Vector Arena” [Đánh giá buổi hòa nhạc: Taylor Swift tại Vector Arena]. The New Zealand Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  167. ^ Ross, Dalton (ngày 28 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift Takes On Critics During Newark, NJ Concert” [Taylor Swift đối đầu với các nhà phê bình trong buổi hòa nhạc Newark, NJ]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  168. ^ Caramanica, Jon (ngày 28 tháng 3 năm 2013). “Losing Her Audio, but Never Her Nerve” [Mất đi âm thanh nhưng không bao giờ mất đi sự can đảm]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  169. ^ “Radio 1's Teen Awards 2012 - Taylor Swift” [Giải thưởng Teen của Radio 1 năm 2012 - Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). BBC. ngày 7 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  170. ^ Willman, Chris (ngày 17 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Tapes VH1 Storytellers, Lifts Curtain on New Songs from Red [Taylor Swift ghi hình VH1 Storytellers, hé lộ ca khúc mới của Red]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  171. ^ Leimkuehler, Matthew (ngày 8 tháng 10 năm 2015). “Swift: Nothin' But Love for Des Moines” [Swift: Không có gì ngoài tình yêu dành cho Des Moines]. The Des Moines Register (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  172. ^ Allen, Paige (ngày 25 tháng 7 năm 2015). “Review: Taylor Swift Delivers Another Stellar Show at Gillette” [Đánh giá: Taylor Swift mang đến một buổi trình diễn xuất sắc khác tại Gillette]. The Sun Chronicle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  173. ^ Hall, David Brendan (ngày 23 tháng 10 năm 2016). “Taylor Swift Delivers a Knockout Performance at Formula 1 Concert in Austin” [Taylor Swift mang đến màn trình diễn ấn tượng tại buổi hòa nhạc Formula 1 ở Austin]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  174. ^ Atkinson, Katie (ngày 5 tháng 2 năm 2017). “Taylor Swift Performs 'Better Man' & 'I Don't Wanna Live Forever' for First Time at Stunning Pre-Super Bowl Set” [Taylor Swift biểu diễn 'Better Man' & 'I Don't Wanna Live Forever' lần đầu tiên tại sân khấu trước Super Bowl tuyệt đẹp]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  175. ^ Sheffield, Rob (ngày 9 tháng 5 năm 2018). “Rob Sheffield Reviews Taylor Swift's 'Reputation' Tour Kickoff” [Rob Sheffield đánh giá buổi khởi động 'Reputation' Tour của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  176. ^ Aramesh, Waiss (ngày 18 tháng 3 năm 2023). “Taylor Swift's The Eras Tour Is a 3-Hour Career-Spanning Victory Lap” [The Eras Tour của Taylor Swift là chặng chiến thắng trải dài sự nghiệp kéo dài 3 giờ]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  177. ^ Anderson, Kyle (ngày 9 tháng 11 năm 2009). “Taylor Swift's 'You Belong With Me' Gets Covered By Pink, Katy Perry Producer Butch Walker” ["You Belong With Me" của Taylor Swift được nhà sản xuất của Pink và Katy Perry Butch Walker cover] (bằng tiếng Anh). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  178. ^ Wood, Mikael (ngày 26 tháng 2 năm 2010). “Butch Walker & The Black Widows, I Liked It Better When You Had No Heart [Butch Walker & The Black Widows, I Liked It Better When You Had No Heart]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  179. ^ Payne, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2016). “Pop Shop Podcast: Butch Walker Tells Tales From the Studio With Taylor Swift & Fall Out Boy” [Pop Shop Podcast: Butch Walker kể chuyện trong phòng thu với Taylor Swift & Fall Out Boy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  180. ^ Keefe, Jonathan (ngày 12 tháng 2 năm 2010). “Butch Walker and the Black Widows: I Liked It Better When You Had No Heart [Butch Walker và the Black Widows: I Liked It Better When You Had No Heart]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  181. ^ Graff, Gary (ngày 1 tháng 6 năm 2011). 'Weird Al' Yankovic: Lady Gaga Has 'Rocked the Zeitgeist' ['Weird Al' Yankovic: Lady Gaga đã 'làm rung chuyển hệ tư tưởng']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  182. ^ Hensel, Amanda (ngày 28 tháng 6 năm 2011). “Weird Al Takes on Taylor Swift's 'You Belong With Me' With 'TMZ' Parody” [Weird Al dùng 'You Belong With Me' của Taylor Swift để tạo parody 'TMZ']. Taste of Country (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  183. ^ Sawdey, Evan (ngày 20 tháng 6 năm 2011). “Everything You Know Is Wrong: An Interview with 'Weird Al' Yankovic, PopMatters” [Mọi điều bạn biết đều sai: Cuộc phỏng vấn với 'Weird Al' Yankovic, PopMatters]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  184. ^ “Idiots & Angels: COED's Interview With Oscar Nominated Animator Bill Plympton” [Idiots & Angels:Cuộc phỏng vấn của COED với phim hoạt hình được đề cử giải Oscar Bill Plympton]. Coed Magazine (bằng tiếng Anh). ngày 6 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  185. ^ Fernandez, Sofia M.; Graff, Gary (ngày 4 tháng 6 năm 2011). “Lady Gaga Okays Weird Al 'Poker Face' Parody (Video)” [Lady Gaga đồng ý Parody 'Poker Face' của Weird Al (Video)]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  186. ^ “College Students Do Gay Take on Taylor Swift You Belong to Me” [Học sinh đại học quay video You Belong to Me của Taylor Swift phiên bản đồng tính nam]. The Advocate (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  187. ^ Reilly, Dan (ngày 16 tháng 10 năm 2009). 'Band Hero' Tracklist Revealed -- Exclusive” [Danh sách bài hát của 'Band Hero' được tiết lộ -- Độc quyền]. Spinner (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  188. ^ “Selena Gomez Sings BFF Taylor Swift's YOU BELONG WITH ME!” [Selena Gomez hát YOU BELONG WITH ME của bạn thân nhất Taylor Swift kìa!]. Tiger Beat (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  189. ^ “Lady GaGa: "Quando ouço uma música da Taylor Swift começo a cantar bem alto" [Lady GaGa: "Khi tôi nghe một bài hát của Taylor Swift, tôi bắt đầu hát rất to"]. Portal Popline (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 30 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  190. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratip. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  191. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Pháp). Ultratip. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  192. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  193. ^ “Japan Adult Contemporary Airplay Chart”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  194. ^ “Mexico Ingles Airplay”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  195. ^ "Dutchcharts.nl – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  196. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  197. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  198. ^ a b c "Taylor Swift Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  199. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – You Belong with Me" (bằng tiếng Anh). AFP Top 100 Singles. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  200. ^ “RIAS Top Charts Week 10 (1 - 7 Mar 2024)” (bằng tiếng Anh). RIAS. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  201. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 2009” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  202. ^ “Best of 2009 – Canadian Hot 100 Songs”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  203. ^ “Annual Top 50 Singles Chart 2009” (bằng tiếng Anh). Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  204. ^ “UK Year-end Songs 2009” (PDF). UKChartsPlus (bằng tiếng Anh). tr. 4. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  205. ^ “Best of 2009 – Hot 100 Songs”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  206. ^ “Adult Contemporary Songs – Year-End 2009”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  207. ^ “Adult Pop Songs – Year-End 2009”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  208. ^ “Hot Country Songs – Year-End 2009”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  209. ^ “Pop Songs – Year-End 2009”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  210. ^ “Best of 2010 – Canadian Hot 100 Songs”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  211. ^ “Best of 2010 – Hot 100 Songs”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  212. ^ “Adult Contemporary Songs – Year-End 2010”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  213. ^ McCabe, Kathy (ngày 7 tháng 1 năm 2010). “Delta Goodrem's talents top the charts” [Tài năng của Delta Goodrem đứng đầu bảng xếp hạng]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  214. ^ “Billboard Hot 100 60th Anniversary Interactive Chart” [Bảng xếp hạng tương tác kỷ niệm 60 năm Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  215. ^ “Greatest of All Time Pop Songs” [100 bài hát pop xuất sắc nhất mọi thời đại]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  216. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Taylor Swift – You Belong with Me” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  217. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Tây Ban Nha – Taylor Swift – You Belong with Me”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  218. ^ Aswad, Jem; Willman, Chris (ngày 19 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift Signs New Deal With Universal Music Group” [Taylor Swift ký hợp đồng mới với Universal Music Group]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  219. ^ Melas, Chloe (ngày 16 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Speaks Out About Sale of Her Masters” [Taylor Swift lên tiếng về việc bán bản thu của mình] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  220. ^ “Taylor Swift Wants to Re-Record Her Old Hits” [Taylor Swift muốn thu âm lại những bản hit cũ của mình] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  221. ^ Finnis, Alex (ngày 17 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Masters: The Controversy around Scooter Braun Selling the Rights to Her Old Music Explained” [Bản thu tác phẩm Taylor Swift: Tranh cãi xung quanh việc Scooter Braun bán bản quyền âm nhạc cũ của cô ấy đã được giải thích]. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  222. ^ Shah, Neil (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Releases New Fearless Album, Reclaiming Her Back Catalog” [Taylor Swift phát hành album mới Fearless, đòi lại danh mục âm nhạc cũ của cô]. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  223. ^ Espada, Mariah (ngày 6 tháng 7 năm 2023). “Taylor Swift Is Halfway Through Her Rerecording Project. It's Paid Off Big Time” [Taylor Swift đã đi được nửa chặng đường trong dự án thu âm lại. Công việc đã được đền đáp xứng đáng]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  224. ^ Lipshutz, Jason (ngày 11 tháng 2 năm 2021). “Taylor Swift Announces Re-Recorded Fearless Album: Updated 'Love Story' Out Tonight” [Taylor Swift thông báo đã tái thu âm album Fearless: Cập nhật 'Love Story' sớm đêm nay]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  225. ^ Ginsberg, Gab (ngày 8 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Recruits Olivia Rodrigo & Conan Gray to Help Tease Re-Recorded Fearless Songs: Hear Multiple New Snippets” [Taylor Swift tuyển Olivia Rodrigo & Conan Gray để giúp nhá hàng các bài hát Fearless tái thu âm: Nghe nhiều đoạn trích mới]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  226. ^ a b "Australian-charts.com – Taylor Swift – You Belong with Me (Taylor's Version)" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  227. ^ a b "Official Irish Singles Chart Top 50" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  228. ^ a b “RIAS International Top Charts Week 15” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Singapore. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  229. ^ a b "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  230. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Taylor Swift – You Belong with Me” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  231. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – You Belong with Me (Taylor's Version)” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  232. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Global 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  233. ^ a b Taylor Swift (ngày 9 tháng 4 năm 2021). Fearless (Taylor's Version) (2×Ghi chú CD) (bằng tiếng Anh). Republic Records. B0033578-02.
  234. ^ a b Empire, Kitty (ngày 10 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift: Fearless (Taylor's Version) Review – A Labour of Revenge, But Also of Love” [Taylor Swift: Đánh giá Fearless (Taylor's Version) – Một công việc trả thù nhưng cũng đầy tình yêu]. The Observer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  235. ^ a b “Taylor Swift Remade Fearless as Taylor's Version. Let's Discuss” [Taylor Swift làm lại Fearless thành Taylor's Version. Hãy bàn luận.]. The New York Times (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  236. ^ Pollard, Alexandra (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Review, Fearless (Taylor's Version) – Wisely Not Trying to Rewrite History” [Đánh giá Taylor Swift, Fearless (Taylor's Version) – Khôn khéo không cố viết lại lịch sử]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  237. ^ Habron, Lucy (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift - Fearless (Taylor's Version) [Taylor Swift - Fearless (Taylor's Version)]. Clash (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  238. ^ Mylrea, Hannah (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift – Fearless (Taylor's Version) Review: A Celebration of the Star's Breakout Album” [Đánh giá Taylor Swift – Fearless (Taylor's Version): Một bữa tiệc ăn mừng cho album đột phá của ngôi sao]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  239. ^ Gajjar, Saloni (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Forged Ahead with a Dreamy Throwback in Fearless (Taylor's Version) [Taylor Swift đã tiến lên phía trước với sự trở lại đầy mơ mộng trong Fearless (Taylor's Version)]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  240. ^ Taylor-Singh, Heather (ngày 12 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Reclaims Her Past on Fearless (Taylor's Version) [Taylor Swift đòi lại quá khứ của mình trong Fearless (Taylor's Version)]. Exclaim! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  241. ^ Bernstein, Jonathan (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Carefully Reimagines Her Past on Fearless: Taylor's Version [Taylor Swift cẩn thận tưởng tượng lại quá khứ của cô ấy qua Fearless: Taylor's Version]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  242. ^ “The ARIA Report: Week Commencing 19 April 2021”. The ARIA Report (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (1624): 4. ngày 19 tháng 4 năm 2021.
  243. ^ “NZ Hot Singles Chart” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. ngày 19 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.