Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Urani”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Urani và con người: từ y học nhiều quá
Dòng 170: Dòng 170:


Urani không liên kết ở dạng các ion [[uranyl]], các ion này tích tụ trong xương, gan, thận, và các tế bào sinh sản. Urani có thể được làm sạch từ các bề mặt thép<ref name=Francis>{{cite journal|pmid=16053105|year=2005|last1=Francis|first1=AJ|last2=Dodge|first2=CJ|last3=McDonald|first3=JA|last4=Halada|first4=GP|title=Decontamination of uranium-contaminated steel surfaces by hydroxycarboxylic acid with uranium recovery.|volume=39|issue=13|pages=5015–21|journal=Environmental science & technology|doi=10.1021/es048887c}}</ref> và các [[tầng chứa nước]].<ref name=Wu>{{cite journal|pmid=16830572|year=2006|last1=Wu|first1=WM|last2=Carley|first2=J|last3=Gentry|first3=T|last4=Ginder-Vogel|first4=MA|last5=Fienen|first5=M|last6=Mehlhorn|first6=T|last7=Yan|first7=H|last8=Caroll|first8=S|last9=Pace|first9=MN|title=Pilot-scale in situ bioremedation of uranium in a highly contaminated aquifer. 2. Reduction of u(VI) and geochemical control of u(VI) bioavailability.|volume=40|issue=12|pages=3986–95|journal=Environmental science & technology|doi=10.1021/es051960u}}</ref>
Urani không liên kết ở dạng các ion [[uranyl]], các ion này tích tụ trong xương, gan, thận, và các tế bào sinh sản. Urani có thể được làm sạch từ các bề mặt thép<ref name=Francis>{{cite journal|pmid=16053105|year=2005|last1=Francis|first1=AJ|last2=Dodge|first2=CJ|last3=McDonald|first3=JA|last4=Halada|first4=GP|title=Decontamination of uranium-contaminated steel surfaces by hydroxycarboxylic acid with uranium recovery.|volume=39|issue=13|pages=5015–21|journal=Environmental science & technology|doi=10.1021/es048887c}}</ref> và các [[tầng chứa nước]].<ref name=Wu>{{cite journal|pmid=16830572|year=2006|last1=Wu|first1=WM|last2=Carley|first2=J|last3=Gentry|first3=T|last4=Ginder-Vogel|first4=MA|last5=Fienen|first5=M|last6=Mehlhorn|first6=T|last7=Yan|first7=H|last8=Caroll|first8=S|last9=Pace|first9=MN|title=Pilot-scale in situ bioremedation of uranium in a highly contaminated aquifer. 2. Reduction of u(VI) and geochemical control of u(VI) bioavailability.|volume=40|issue=12|pages=3986–95|journal=Environmental science & technology|doi=10.1021/es051960u}}</ref>

===Ảnh hưởng===
Chức năng thông thường của [[thận]], [[não]], [[gan]], [[tim]], và các hệ cơ quan khác trong cơ thể có thể bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với urani, bởi vì ngoài các phóng xạ rất yếu, urani còn là [[kim loại độc]].<ref name="BuildingBlocks477"/><ref name=Craft04>{{cite journal
| title = Depleted and natural uranium: chemistry and toxicological effects
| author = E. S. Craft, A. W. Abu-Qare, M. M. Flaherty, M. C. Garofolo, H. L. Rincavage, M. B. Abou-Donia
| journal = Journal of Toxicology and Environmental Health Part B: Critical Reviews
| year = 2004
| volume = 7
| issue = 4
| pmid = 15205046
| pages = 297–317
| doi = 10.1080/10937400490452714}}</ref><ref name="ATSDR">{{cite web|title=Toxicological Profile for Uranium|url=http://www.atsdr.cdc.gov/toxprofiles/tp150-c2.pdf|publisher=Agency for Toxic Substances and Disease Registry (ATSDR)|location=Atlanta, GA| id=CAS# 7440-61-1 month=September|year=1999|format=PDF}}</ref> Urani cũng là chất độc có khả năng tái sản xuất?.<ref name="Hindin2005">{{cite journal|doi = 10.1186/1476-069X-4-17|last1 = Hindin|first1 = ''et al.''|last2 = Brugge|year = 2005|first2 = D|last3 = Panikkar|first3 = B|title = Teratogenicity of depleted uranium aerosols: A review from an epidemiological perspective|url = http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.fcgi?artid=1242351|journal = Environ Health|volume = 4|issue =|page = 17|pmid = 16124873|pmc = 1242351}}</ref><ref>{{cite journal
| author = Arfsten, D.P.; K.R. Still; G.D. Ritchie
| year = 2001
| title = A review of the effects of uranium and depleted uranium exposure on reproduction and fetal development
| journal = Toxicology and Industrial Health
| volume = 17
| pages = 180–91
| doi = 10.1191/0748233701th111
| issue = 5–10
| pmid = 12539863}}</ref> Các ảnh hưởng phóng xạ phổ biến ở mức độ địa phương là phóng xạ anpha, một kiểu phân rả ban đầu của U-238, có thời gian tồn tại rất ngắn, và sẽ không xuyên qua da. <!-- NEEDS CITE Uranium compounds in general are poorly absorbed by the lining in the lungs and may remain a radiological hazard indefinitely. /NEEDS CITE --> Các ion [[uranyl]] ({{chem|UO|2|{{su|p=+}}}}), như ở dạng [[uranium trioxit]] hay uranyl nitrate và các hợp chất hóa trị sáu khác, có thể gây ra những dị tật bẩm sinh và phá hủy hệ miễn dịch của các con thú trong phòng thí nghiệm.<ref>{{cite journal|last1 = Domingo|first1 = JL|last2 = Paternain|first2 = JL|last3 = Llobet|first3 = JM|last4 = Corbella|first4 = J|title = The developmental toxicity of uranium in mice.|journal = Toxicology|volume = 55|issue = 1–2|pages = 143–52|year = 1989|pmid = 2711400 |doi = :10.1016/0300-483X(89)90181-9}}</ref> Khi CDC xuất bản một nghiên cứu cho thất không có [[ung thư]] ở người được ghi nhận khi tiếp xúc với urani tự nhiên hoặc urani đã bị làm nghèo,<ref name="ATSDR-PHS">{{cite web|url=http://www.atsdr.cdc.gov/toxprofiles/phs150.html|title=Public Health Statement for Uranium|publisher=CDC|accessdate=2007-02-15}}</ref> tiếp xúc với urani và các sản phẩm phân rã của nó đặc biệt là [[radon]], được biết là gây ra những mối đe dọa đáng kể về sức khỏe.<ref name="BuildingBlocks480"/>

Mặc dù phơi nhiễm urani tình cờ qua đường hô hấp với [[urani hexafluorua]] nồng độ cao sẽ gây tử vong ở người, nguyên nhân chính gây tử vong liên quan đến việc tạo ra axit hdrofuolric có độc tính cao và các muối [[uranyl fluorua]] hơn là bản thân urani.<ref>{{cite book|url=http://books.google.com/?id=qDf3AO8nILoC&pg=PA1468|page=1468|title=Medical Toxicology|author=Richard C. Dart|publisher=Lippincott Williams & Wilkins|year=2004|isbn=0-7817-2845-2}}</ref> Urani là một chất [[tự bốc cháy]] nên khi ở dạng hạt mịn nó có nguy cơ cháy trong không khí ở nhiệt độ phòng.<ref name="LANL"/>

{|class=wikitable
|-
!colspan=4|Tài liệu về độc học urani 2004<ref name=Craft04/>
|-
!Hệ cơ quan
!Nghiên cứu trên người
!Nghiên cứu trên động vật
!Trong phòng thí nghiệm
|-
|Thận
|Tăng mức bài tiết protein, urinary catalase and diuresis
|Phá hủy các ống to proximal convoluted tubules, necrotic cells cast from tubular epithelium, glomerular changes ([[hư thận]])
|Không nghiên cứu
|-
|Não/CNS
|Decreased performance on neurocognitive tests
|Acute cholinergic toxicity; Dose-dependent accumulation in cortex, midbrain, and vermis; Electrophysiological changes in hippocampus
|Không nghiên cứu
|-
|DNA
|Tăng khả năng ung thư<ref name="ajph.org"/><ref>{{cite web|url=http://www.ehponline.org/members/2001/109p305-309mulloy/mulloy-full.html |title=Lung Cancer in a Nonsmoking Underground Uranium Miner |publisher=Ehponline.org |accessdate=2010-05-24}}</ref><ref>{{cite web|url=http://content.nejm.org/cgi/content/abstract/310/23/1481 |title=Uranium mining and lung cancer in Navajo men |publisher=Content.nejm.org |date=1984-06-07 |accessdate=2010-05-24}}</ref><ref>[http://sfaa.metapress.com/app/home/contribution.asp?referrer=parent&backto=issue,8,11;journal,65,231;linkingpublicationresults,1:113218,1 Navajo Uranium Workers and the Effects of Occupational Illnesses: A Case Study]</ref><ref>{{cite web|url=http://www.joem.org/pt/re/joem/abstract.00043764-200003000-00008.htm |title=Uranium Mining and Lung Cancer Among Navajo Men in New Mexico and Arizona, 1969 to 1993 |publisher=Joem.org |accessdate=2010-05-24}}</ref><ref>{{cite web|author=L S Gottlieb and L A Husen |url=http://www.chestjournal.org/content/81/4/449.abstract |title=Lung cancer among Navajo uranium miners |publisher=Chestjournal.org |date=1982-04-01 |accessdate=2010-05-24}}</ref>
|Tăng biến dị (ở chuột) và phát triển các khối u
|Binucleated cells with micronuclei, Inhibition of cell cycle kinetics and proliferation; Sister chromatid induction, tumorigenic phenotype
|-
|Xương/cơ
|Không nghiên cứu
|Inhibition of periodontal bone formation; and alveolar wound healing
|Không nghiên cứu
|-
|Hệ sinh dục
|Uranium miners have more first born female children
|Moderate to severe focal tubular atrophy; vacuolization of Leydig cells
|Không nghiên cứu
|-
|Phổi/hệ hô hấp
|No adverse health effects reported
|Severe nasal congestion and hemorrage, lung lesions and fibrosis, edema and swelling, ung thư phổi
|Không nghiên cứu
|-
|Hệ tiêu hóa
|Nôn mữa, tiêu chảy, bệnh bạch niệu
|không có dữ liệu
|không có dữ liệu
|-
|Gan
|Không có những phản ứng được quan sát khi tiếp xúc với liều thử nghiệm
|Gan nhiễm mở, hoại tử
|Không nghiên cứu
|-
|Da
|Không xử lý phơi nhiễm
|Swollen vacuolated epidermal cells, damage to hair follicles and sebaceous glands
|Không nghiên cứu
|-
|Tissues surrounding embedded DU fragments
|Elevated uranium urine concentrations
|Elevated uranium urine concentrations, perturbations in biochemical and neuropsychological testing
|Không nghiên cứu
|-
|Hệ miễn dịch
|Chronic fatigue, rash, ear and eye infections, hair and weight loss, cough. May be due to combined chemical exposure rather than DU alone
|Không nghiên cứu
|Không nghiên cứu
|-
|Mắt
|Không nghiên cứu
|Conjunctivitis, irritation inflammation, edema, ulceration of conjunctival sacs
|Không nghiên cứu
|-
|Máu
|Không nghiên cứu
|Decrease in RBC count and hemoglobin concentration
|Không nghiên cứu
|-
|Tim mạch
|Myocarditis resulting from the uranium ingestion, which ended 6 months after ingestion
|Không ảnh hưởng
|Không nghiên cứu
|}


== Thực trạng ô nhiễm phóng xạ Urani ==
== Thực trạng ô nhiễm phóng xạ Urani ==

Phiên bản lúc 14:19, ngày 17 tháng 3 năm 2011

Urani,  92U
Two hands in brown gloves holding a blotched gray disk with a number 2068 hand-written on it
Tính chất chung
Tên, ký hiệuUrani, U
Phiên âm/jʊˈrniəm/
ew-RAY-nee-əm
Hình dạngKim loại màu xám bạc, ăn mòn trong không khí tạo lớp vỏ oxit màu đen.
Urani trong bảng tuần hoàn
Hydro (diatomic nonmetal)
Heli (noble gas)
Lithi (alkali metal)
Beryli (alkaline earth metal)
Bor (metalloid)
Carbon (polyatomic nonmetal)
Nitơ (diatomic nonmetal)
Oxy (diatomic nonmetal)
Fluor (diatomic nonmetal)
Neon (noble gas)
Natri (alkali metal)
Magnesi (alkaline earth metal)
Nhôm (post-transition metal)
Silic (metalloid)
Phosphor (polyatomic nonmetal)
Lưu huỳnh (polyatomic nonmetal)
Chlor (diatomic nonmetal)
Argon (noble gas)
Kali (alkali metal)
Calci (alkaline earth metal)
Scandi (transition metal)
Titani (transition metal)
Vanadi (transition metal)
Chrom (transition metal)
Mangan (transition metal)
Sắt (transition metal)
Cobalt (transition metal)
Nickel (transition metal)
Đồng (transition metal)
Kẽm (transition metal)
Gali (post-transition metal)
Germani (metalloid)
Arsenic (metalloid)
Seleni (polyatomic nonmetal)
Brom (diatomic nonmetal)
Krypton (noble gas)
Rubidi (alkali metal)
Stronti (alkaline earth metal)
Yttri (transition metal)
Zirconi (transition metal)
Niobi (transition metal)
Molypden (transition metal)
Techneti (transition metal)
Rutheni (transition metal)
Rhodi (transition metal)
Paladi (transition metal)
Bạc (transition metal)
Cadmi (transition metal)
Indi (post-transition metal)
Thiếc (post-transition metal)
Antimon (metalloid)
Teluri (metalloid)
Iod (diatomic nonmetal)
Xenon (noble gas)
Caesi (alkali metal)
Bari (alkaline earth metal)
Lantan (lanthanide)
Ceri (lanthanide)
Praseodymi (lanthanide)
Neodymi (lanthanide)
Promethi (lanthanide)
Samari (lanthanide)
Europi (lanthanide)
Gadolini (lanthanide)
Terbi (lanthanide)
Dysprosi (lanthanide)
Holmi (lanthanide)
Erbi (lanthanide)
Thulium (lanthanide)
Ytterbi (lanthanide)
Luteti (lanthanide)
Hafni (transition metal)
Tantal (transition metal)
Wolfram (transition metal)
Rheni (transition metal)
Osmi (transition metal)
Iridi (transition metal)
Platin (transition metal)
Vàng (transition metal)
Thuỷ ngân (transition metal)
Thali (post-transition metal)
Chì (post-transition metal)
Bismuth (post-transition metal)
Poloni (metalloid)
Astatin (diatomic nonmetal)
Radon (noble gas)
Franci (alkali metal)
Radi (alkaline earth metal)
Actini (actinide)
Thori (actinide)
Protactini (actinide)
Urani (actinide)
Neptuni (actinide)
Plutoni (actinide)
Americi (actinide)
Curium (actinide)
Berkeli (actinide)
Californi (actinide)
Einsteini (actinide)
Fermi (actinide)
Mendelevi (actinide)
Nobeli (actinide)
Lawrenci (actinide)
Rutherfordi (transition metal)
Dubni (transition metal)
Seaborgi (transition metal)
Bohri (transition metal)
Hassi (transition metal)
Meitneri (unknown chemical properties)
Darmstadti (unknown chemical properties)
Roentgeni (unknown chemical properties)
Copernici (transition metal)
Nihoni (unknown chemical properties)
Flerovi (post-transition metal)
Moscovi (unknown chemical properties)
Livermori (unknown chemical properties)
Tennessine (unknown chemical properties)
Oganesson (unknown chemical properties)
Nd

U

(Uqq)
ProtactiniUraniNp
Số nguyên tử (Z)92
Khối lượng nguyên tử chuẩn (±) (Ar)238.02891(3)
Phân loại  họ actini
Nhóm, phân lớpn/af
Chu kỳChu kỳ 7
Cấu hình electron[Rn] 5f3 6d1 7s2
mỗi lớp
2, 8, 18, 32, 21, 9, 2
Tính chất vật lý
Trạng thái vật chấtRắn
Nhiệt độ nóng chảy1405.3 K ​(1132.2 °C, ​2070 °F)
Nhiệt độ sôi4404 K ​(4131 °C, ​7468 °F)
Mật độ19.1 g·cm−3 (ở 0 °C, 101.325 kPa)
Mật độ ở thể lỏngở nhiệt độ nóng chảy: 17.3 g·cm−3
Nhiệt lượng nóng chảy9.14 kJ·mol−1
Nhiệt bay hơi417.1 kJ·mol−1
Nhiệt dung27.665 J·mol−1·K−1
Áp suất hơi
P (Pa) 1 10 100 1 k 10 k 100 k
ở T (K) 2325 2564 2859 3234 3727 4402
Tính chất nguyên tử
Trạng thái oxy hóa6, 5, 4, 3,[1] 2, 1 ​(ôxit cơ bản yếu)
Độ âm điện1.38 (Thang Pauling)
Bán kính cộng hoá trịthực nghiệm: 156 pm
Bán kính liên kết cộng hóa trị196±7 pm
Bán kính van der Waals186 pm
Thông tin khác
Cấu trúc tinh thểTrực thoi
Cấu trúc tinh thể Trực thoi của Urani
Vận tốc âm thanhque mỏng: 3155 m·s−1 (ở 20 °C)
Độ giãn nở nhiệt13.9 µm·m−1·K−1 (ở 25 °C)
Độ dẫn nhiệt27.5 W·m−1·K−1
Điện trở suấtở 0 °C: 0.280 µΩ·m
Tính chất từThuận từ
Mô đun Young208 GPa
Mô đun cắt111 GPa
Mô đun khối100 GPa
Hệ số Poisson0.23
Số đăng ký CAS7440-61-1
Lịch sử
Đặt tênTheo tên Sao Thiên Vương
Phát hiệnMartin Heinrich Klaproth (1789)
Tách ra lần đầuEugène-Melchior Péligot (1841)
Đồng vị ổn định nhất
Bài chính: Đồng vị của Urani
Iso NA Chu kỳ bán rã DM DE (MeV) DP
232U Tổng hợp 68,9 năm α 5.414 228Th
SF (nhiều)
233U Vết 1.592×105 năm α 4.909 229Th
SF 197.93[2] (nhiều)
234U 0.005% 2.455×105 năm α 4.859 230Th
SF 197.78 (nhiều)
235U 0.720% 7.04×108 năm α 4.679 231Th
SF 202.48 (nhiều)
236U Vết 2.342×107 năm α 4.572 232Th
SF 201.82 (nhiều)
238U 99,2742% 4,468×109 năm α 4,270 234Th
SF 205.87 (nhiều)
ββ 238Pu
240U Vết 14,1 giờ β- 240Np
α 236Th

Uraninguyên tố hóa học kim loại màu trắng bạc thuộc nhóm Actini, có số nguyên tử là 92 trong bảng tuần hoàn của các nguyên tố hóa học, được đặt tên theo tên của sao Thiên Vương (Uranus). Trong một thời gian dài, urani là nguyên tố cuối cùng của bảng tuần hoàn. Các đồng vị phóng xạ của urani có số nơtron từ 144 đến 146 nhưng phổ biến nhất là các đồng vị urani 238, urani 235urani 239. Tất cả đồng vị của urani đều không bền và có tính phóng xạ yếu. Urani có khối lượng nguyên tử nặng thứ 2 trong các nguyên tố tự nhiên, xếp sau plutoni-244.[3] Mật độ của nó lớn hơn mật độ của chì khoảng 70%, nhưng không đặc bằng vàng hay wolfram. Urani có mặt trong tự nhiên với nồng độ thấp khoảng vài ppm trong đất, đá và nước, và được sản xuất thương mại từ các khoáng sản chứa urani như uraninit.

Trong tự nhiên, urani được tìm thấy ở dạng urani 238 (99,284%), urani 235 (0,711%),[4] và một lượng rất nhỏ urani 234 (0,0058%). Urani phân rã rất chậm phát ra hạt anpha. Chu kỳ bán rã của urani 238 là khoảng 4,47 tỉ năm và của urani 235 là 704 tỉ năm,[5] do đó nó được sử dụng để xác định tuổi của Trái Đất.

Một số ứng dụng hiện tại của urani chỉ dựa trên các đặc điểm hạt nhân của nó. Urani 235 có điểm khác biệt là đồng vị chỉ phân hạch một cách tự nhiên. Urani 238 có thể phân hạch bằng neotron nhanh, và là fertile, có nghĩa là nó có thể được chuyển đổi thành plutoni 239 có thể phân hạch được trong lò phản ứng hạt nhân. Một đồng vị có thể phân hạch khác, urani 233, có thể được tạo ra từ thori tự nhiên và cũng là vật liệu quan trong trong công nghệ hạt nhân. Trong khi urani 238 có khả năng phân hạch tự phát thấp hoặc thậm chí bao gồm cả sự phân hạch bằng neutron nhanh, thì urani 235 và mức độ thấp hơn là urani 233 có mặt cắt phân hạch cao hơn nhiều đối với các neutron chậm. Khi nồng độ đủ, các đồng vị này duy trì một chuỗi phản ứng hạt nhân ổn định. Quá trình này tạo ra nhiệt trong các lò phản ứng hạt nhân và tạo ra vật liệu phân hạch dùng làm các vũ khí hạt nhâ. Urani nghèo (U-238) được dùng trong các kích động năngvỏ xe bọc thép.[6]

Urani được dùng làm chất nhuộm màu có sắc đỏ-cam đến vàng chanh cho thủy tinh urani. Nó cũng được dùng làm thuốc nhuộm màu và sắc bóng trong phim ảnh. Năm 1789, người ta công nhận việc phát hiện ra urani trong khoáng vật pitchblendMartin Heinrich Klaproth, ông đã đặt tên nguyên tố mới theo tên hành tinh Uranus. Trong khi đó, Eugène-Melchior Péligot là người đầu tiên tách kim loại này và các tính chất phóng xạ của nó đã được Antoine Becquerel phát hiện năm 1896. Nghiên cứu của Enrico Fermi và các tác giả khác đã bắt đầu thực hiện năm 1934 đã đưa nó vào ứng dụng trong công nghiệp năng lượng hạt nhân và trong quả bom nguyên tử mang tên Little Boy, quả bom này là vũ khí hạt nhân đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh. Từ cuộc chạy đua vũ trang trong thời chiến tranh lạnh giữa Hoa KỳLiên Xô đã cho ra hàng chục ngàn vũ khí hạt nhân sử dụng urani được làm giàu và plutoni có nguồn gốc từ urani. Việc an toàn của các vũ khí này và các vật liệu phân hạch của chúng sau sự tan rã của Liên Xô năm 1991 là một mối quan tâm đối với sức khỏe và an toàn của cộng đồng.[7]

Lịch sử

Phân hạch tự nhiên thời tiền sử

Năm 1972, nhà vật lý người Pháp, Francis Perrin, phát hiện ra 15 lò phản ứng phân hạch hạt nhân tự nhiên cổ không còn hoạt động trong 3 mỏ quặng riêng biệt ở mỏ Oklo, Gabon, tây Phi, hay còn gọi là các lò phản ứng hạt nhân hóa thạch Oklo. Mỏ có tuổi 1,7 tỉ năm; lúc đó, urani-235 chiếm khoảng 3% tổng lượng urani trên Trái Đất.[8] Hàm lượng này lớn đủ để cho phép tạo ra một chuỗi phản ứng phân hạch hạt nhân diễn ra liên tục, là yếu tố chứng minh cho các điều kiện tồn tại của chúng. Khả năng các trầm tích xung quanh chứa các chất thải hạt nhân đã được chính quyền liên bang Hoa Kỳ trích dẫn để chứng minh cho các điều kiện bảo quản của kho chứa chất thải hạt nhân núi Yucca.[8]

Sử dụng trước khi được phát hiện

Việc sử dụng urani ở dạng ôxit tự nhiên được xác định vào khoảng năm 79 TCN, khi đó nó được dùng để tạo màu vàng cho men gốm.[9] Thủy tinh màu vàng có hàm lượng 1% urani ôxit được R. T. Gunther, Đại học Oxford tìm thấy năm 1912 trong một biệt thự La Mã thuộc mũi Posillipo, iịnh Napoli, Ý bởi by .[10] Từ cuối thời Trung cổ, pitchblend được tách từ các mỏ bạc HabsburgJoachimsthal, Bohemia (nay là Jáchymov thuộc cộng hòa Czech) và được dùng làm chất tạo màu trong công nghiệp chế tạo thủy tinh ở địa phương.[11] Vào đầu thế kỷ 19, nguồn quặng urani duy nhất trên thế giới là các mỏ này.

Phát hiện

Two fuzzy black features on a fuzzy white paper-like background. There is a handwriting at the top of the picture.
Antoine Henri Becquerel discovered the phenomenon of radioactivity by exposing a photographic plate to uranium (1896).

Việc phát hiện ra nguyên tố này được ghi công cho nhà hóa học Đức Martin Heinrich Klaproth. Trong khi đang làm các thí nghiệm trong phòng ở Berlin năm 1789, Klaproth đã tạo ra hợp chất kết tủa màu vàng (giống natri diuranat) bằng cách hòa tan pitchblend trong axit nitric và sau đó trung hòa dung dịch bằng natri hydroxit.[11] Klaproth cho rằng chất màu vàng đó là ôxit của một nguyên tố chưa được phát hiện và nung nó với than gỗ để thu một loại bột màu đen mà ông nghĩ rằng nó là một kim loại mới được phát hiện (nhưng thực chất là bột của một ôxit urani).[11][12] Ông đặt tên nguyên tố mới theo tên hành tinh Uranus, một hành tinh vừa được William Herschel phát hiện trước đó 8 năm.[13]

Năm 1841, Eugène-Melchior Péligot, Giáo sư hóa phân tích thuộc Conservatoire National des Arts et MétiersParis đã tách ra được mẫu urani kim loại đầu tiên bằng cách nung urani tetraclorua với kali.[11][14]

Antoine Henri Becquerel phát hiện ra tính phóng xạ khi sử dụng urani vào năm 1896.[15] Becquerel phát hiện ra tính chất này tại Paris bằng cách cho một mẫu muối urani K2UO2(SO4)2 trên một tấm phim để trong ngăn kéo và sau đó ông thấy tấm phim bị mờ giống như 'bị phủ sương mù'.[16] Ông cho rằng có một dạng ánh sáng không nhìn thấy được hoặc các tia phát ra từ urani tiếp xúc với tấm phim.

Nghiên cứu phân hạch

A group photo of 14 men in suits and 1 woman in three rows facing the vewier.
Enrico Fermi (bottom left) and the rest of the team that initiated the first artificial self-sustaining nuclear chain reaction (1942).
Cubes of uranium produced during the Manhattan project

Năm 1934, Enrico Fermi dẫn đầu nhóm nghiên cứu bắn phá urani bằng dòng neutron tạo ra các tia beta (electron hoặc positron sinh ra từ các nguyên tố; xem hạt beta).[17] Các sản phẩm phân hạch đầu tiên bị nhầm lẫn là các nguyên tố mới có số nguyên tử là 93 và 94, theo đó Trưởng khoa của Rome, Orso Mario Corbino, tin rằng đó là ausonihesperi.[18][19][20][21] Các thí nghiệm của Otto HahnFritz Strassmann đã đưa đến việc phát hiện ra khả năng mà urani phân hạch thành các các nguyên tố nhẹ hơn và giải phóng năng lượng liên kết,[17] trong phòng thí nghiệm của Hahn ở Berlin. Lise Meitner và cháu bà ta, nhà vật lý Otto Robert Frisch, đã công bố các giải thích về mặt vật lý vào tháng 2 năm 1939 và đặt tên quá trình này là 'phản ứng phân hạch hạt nhân'.[22] Không lâu sau đó, Fermi giả thuyết rằng sự phân hạch của urani có thể giải phóng đủ số neutron để duy trì một phản ứng phân hạch. Năm 1939, giả thuyết này được xác nhận, và công trình sau đó phát hiện rằng trung bình có khoảng 2,5 neutron được giải phóng từ mỗi lần phân hạch của đồng vị urani hiếm 235.[17] Công trình tiếp theo phát hiện rằng đồng vị phổ biến hơn là urani-238 có thể bị chuyển đổi thành plutoni, và đồng vị này, giống như urani235, cũng có khả năng phân hạch bằng các neutron nhiệt. Các phát hiện này đã thúc đểy việc chế tạo các vũ khí hạt nhânđiện hạt nhân ở một số quốc gia.

Ngày 2 tháng 12 năm 1942, trong một phần của dự án Manhattan, một nhóm nghiên cứu khác do Enrico Fermi dẫn đầu đã có thể bắt đầu thực hiện phản ứng hạt nhân dây chuyền nhân tạo đầu tiên, Chicago Pile-1. Công việc trong phòng thí nghiệm dưới sự phụ trách của Stagg FieldĐại học Chicago, nhóm này đã tao ra các điều kiện cần thế để một phản ứng xảy ra bằng cách lấp 360 tấn than thỏi, 53 tấn urani ôxit, và 5,5 tấn urani kim loại.[17]

Chế tạo bom

White fragmentred mushrom-like smoke cloud evolving from the ground.
Đám mây nấm trên bầu trời Hiroshima sau vụ nổ quả bom nguyên tử nguồn gốc urani mang tên 'Little Boy' (1945)

Hai loại bom nguyên tử chính được Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 là: loại dựa trên nguyên liệu urani (tên "Little Boy") mà vật liệu phân hạch của nó là urani làm giàu rất cao, và loại dựa trên nguyên liệu plutoni (xem thử nghiệm Trinity và "Fat Man") theo đó plutoni được sản xuất từ urani-238. Loại dùng urani là vũ khí hạt nhân đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh khi nó được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản ngày 6 tháng 8 năm 1945. Vụ nổ tương đươong với 12.500 tấn TNT, sức công phá và làn sóng nhiệt của quả bom phá hủy gần 50.000 tòa nhà và gây thiệt mạng gần 75.000 người (xem Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki).[16] Ban đầu người ta tin rằng urani khá hiếm, và sự phổ biến vũ khí hạt nhân có thể tránh được bằng cách đơn giản là mua tất cả urani trên thị trường, nhưng trong vòng một thập kỷ qua có nhiều mỏ urani được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới.[23]

Dùng trong lò phản ứng hạt nhân

An industrial room with four large illuminated light bulbs hanging down from a bar.
Four light bulbs lit with electricity generated from the first artificial electricity-producing nuclear reactor, EBR-I (1951)

Lò phản ứng hạt nhân than chì X-10Phòng thí nghiệm Oak Ridge (ORNL) ở Oak Ridge, Tennessee, trước đây còn gọi là Clinton Pile và X-10 Pile, là lò phản ứng hạt nhân thứ 2 trên thế giới (sau lò phản ứng Chicago Pile của Enrico Fermi) và là lò phản ứng hạt nhân đầu tiên được thiết kế và xây dựng để vận hành liên tục. Experimental Breeder Reactor IPhòng thí nghiệm quốc gia Hoa Kỳ Idaho gần Arco, Idaho là lò phản ứng hạt nhân đầu tiên sản xuất điện vào ngày 20 tháng 12 năm 1951. Ban đầu, bốn bóng đến 150W được thấp sáng từ lò phản ứng, đến cuối cùng những cải tiến đã nâng sản lượng điện lên hết công suất thiết kế (sau đó, thị trấn Arco trở thành thị trấn đầu tiên trên thế giới sử dụng toàn bộ điện phát ra từ năng lượng hạt nhân).[24] Nhà máy điện hạt nhân thương mại đầu tiên trên thế giới, ObninskLiên Xô bắt đầu phát điện bằng lò phản ứng AM-1 vào ngày 27 tháng 6 năm 1954. Các nhà máy điện hạt nhân khác vào thời đó gồm: Calder HallAnh phát điện ngày 17 tháng 10 năm 1956[25]nhà máy điễn hạt nhân ShippingportPennsylvania phát điện ngày 26 tháng 5 năm 1958. Năng lượng hạt nhân được dùng đầu tiên cho tàu ngầm năm 1954, thuộc USS Nautilus.[17][26]

Ô nhiễm và di sản từ thời chiến tranh lạnh

A graph showing evolution of number of nuclear weapons in the US and USSR and in the period 1945-2005. US dominates early and USSR later years with and crossover around 1978.
U.S. and USSR/Russian nuclear weapons stockpiles, 1945–2005

Các vụ thử hạt nhân trên mặt đất do Liên Xô và Hoa Kỳ thực hiện vào thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, và Pháp thực hiện vào thập niên 1979 và 1980[27] đã làm gia tăng đáng kể lượng bụi hạt nhân, gồm các đồng vị con của urani, trên thế giới.[28] Thêm vào đó là bụi và ô nhiễm gây ra từ các vụ tai nạn hạt nhân.[29][30]

Những người khai thác mỏ urani có khả năng bị ung thư cao hơn. Ví dụ, nguy cơ ung thư phổ vượt trội ở những thợ mỏ urani người Navajo đã được ghi nhận và liên hệ với nghề nghiệp của họ.[31] Đạo luật bồi thường khi tiếp xúc với phóng xạ của Hoa Kỳ (Radiation Exposure Compensation Act) năm 1990, yêu cầu trả tiền bồi thường 100.000 USD cho các thợ mỏ urani được chuẩn đón bị ung thư hoặc các bệnh đường hô hấp khác.[32]

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Lên Xô, những kho dự trữ urani khổng lồ chứa hàng chục ngàn vũ khí hạt nhân dùng urani làm giàu và plutoni sản xuất từ urani. Từ khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, ước tính 540 tấn vũ khí dùng urani được làm giàu cao (đủ để sản xuất khoảng 40.000 đầu đạn hạt nhân) được cất giữ trong các cơ sở thiếu an toàn ở Nga và một số nước thuộc Liên Xô trước kia.[33] Từ năm 1993 đến 2005, cảnh sát ở châu Á, châu Âu, và Nam Mỹ đã có ít nhất 16 lần ngăn chặn các chuyến hàng cung cấp urani hay plutoni nhập lậu, đa số trong đó có nguồn gốc từ các nước thuộc Liên Xô cũ.[33] Từ năm 1993 đến 2005, chương trình kiểm toán, kiểm soát và bảo vệ vật liệu (Material Protection, Control, and Accounting Program) do chính phủ liêng bang Hòa Kỳ điều phối đã tiêu tốn khoảng 550 triệu USD để giúp an toàn cho các kho vũ khí urani và plutoni ở Nga.[33]

Tính chất

Sơ đồ thể hiện chuỗi biến đổi urani-235 thành urani-236 tiếp theo là bari-141 và krypton-92
Phân hạch hạt nhân của urani-235

Khi được tách ra, urani là kim loại có màu trắng bạc, phóng xạ yếu, mềm hơn thép một chút,[9] độ dương điện mạnh và độ dẫn diện kém.[34] Nó dẻo, dễ uốn và có tính thuận từ.[9] Kim loại urani có mật độ rất lớn, đặc hơn chì khoảng 70%, nhưng nhẹ hơn vàng.

Urani kim loại phản ứng với hầu hết các nguyên tố phi kim loại và các hợp chất của chúng, với độ hoạt động tăng theo nhiệt độ.[15] Axit clohidricaxit nitric hòa tan urani, nhưng các axit không có khả năng ôxy hóa phản ứng với nguyên tố này rất chậm.[34] Khi chia nhỏ, nó có thể phản ứng với nước lạnh; khi tiếp xúc với không khí, kim loại urani bị phủ một lớp ôxit urani màu đen.[9] Urani trong quặng được tách bằng phương pháp hóa học và chuyển đổi thành urani ôxit hoặc các dạng khác có thể dùng trong công nghiệp.

Urani-235 là đồng vị đầu tiên được tìm thấy có thể tự phân hạch. Các đồng vị khác có mặt trong tự nhiên có thể phân hạch nhưng không thể tự phân hạch. Tùy thuộc vào việc bắn phá bằng các neutron chậm, đồng vị urani-235 sẽ luôn phân chia thành 2 hạt nhân nhỏ hơn, giả phóng năng lượng liên kết hạt nhân và sinh nhiều neutron hơn. Nếu các neutron này được hấp thụ bởi các hạt nhân urani-235 khác, thì chuỗi phân hạch hạt nhân sẽ diễn ra và có thể gây nổ trừ khi phản ứng được làm chậm lại bởi việc điều hòa neutron, bằng cách hấp thụ chúng.[33]

Kim loại urani có 3 dạng thù hình:[35]

  • α (trực thoi) bền với nhiệt độ lên đến 660 °C
  • β (bốn phương) bền ở nhiệt độ từ 660 °C đến 760 °C
  • γ (lập phương tâm khối) bền từ 760 °C đến điểm nóng chảy đây là trạng thái dẻo và dễ uốn nhất.

Các hợp chất

Trạng thái ôxi hóa và ôxit

Ôxit

Ball and stick model of cubic-like crystal structure containing two type of atoms.
Triuranium octaoxide (diagram pictured) and uranium dioxide are the two most common uranium oxides.

Bánh urani vàng Calcined là sản phẩm được sản xuất công nghiệp chứa các nhóm urani có trạng thái ôxi hóa khác nhau từ thấp nhất đến cao nhất. Các hạt có thời gian lưu giữ ngắn trong lò nung sẽ ít bị ôxi hóa hơn những hạt có thời gian lưu giữ dài hơn. Hàm lượng urani thường được tính theo U
3
O
8
, kể từ những ngày thực hiện dự án Manhattan, khi đó U
3
O
8
đã được sử dụng làm tiêu chuẩn báo cáo trong hóa phân tích.

Các mối quan hệ pha trong tổ hợp urani-ôxi là phức tạp. Các trạng thái ôxi hóa quan trọng nhất của urani là urani(IV) và urani(VI), và hai ôxi tương ứng của chúng là urani điôxit (UO
2
) và urani triôxit (UO
3
).[36] Các urani ôxit khác gồm urani monoxit (UO), diurani pentoxit (U
2
O
5
), và urani peroxit (UO
4
·2H
2
O
)cũng tồn tại.

Các dạng urani ôxit phổ biến nhất là triurani octaoxit (U
3
O
8
) và UO
2
.[37] Cả hai ôxit nay đều ở dạng rắn, ít hoàn tan trong nước, và tương đối bền trong nhiều kiểu môi trường. Triurani octaoxit là hợp chất (tùy thuộc vào các điều kiện) uranii ổn định nhất và là dạng thường gặp trong tự nhiên. Urani điôxit là dạng được dùng làm nhiên liệu hạt nhân phổ biến.[37] Ở nhiệt độ thường, UO
2
sẽ chuyển một cách từ từ thành U
3
O
8
. Do tính ổn định của chúng, các urani ôxit thường được xem là dạng hợp chất dùng để lưu trữ hoặc thải.[37]

Dịch hóa học

Uranium in its oxidation states III, IV, V, VI

Các muối của tất cả bốn trạng thái ôxi hóa là dung dịch hòa tan trong nước và có thể được nghiên cứu ở dạng dung dịch nước. Các trạng thái ôxi hóa U3+ (đỏ), U4+ (lục), UO+
2
(không bền), và UO
2
2+ (vàng).[38] Một vài hợp chất bán kim loại và rắn như UO và US, urani ở trạng thái ôxi hóa (II), nhưng không có các ion đơn giản được biết là tồn tại trong dung dịch ở trạng thái đó. Các ion U3+ giải phóng hydro từ nước và được xem là trạng thái không bền. Ion UO2+
2
đặc trưng cho trạng thái ôxi hóa (VI) và tạo thành các hợp chất như uranyl cacbonat, uranyl cloruauranyl sulfat. UO2+
2
cũng tạo phức với các chất tạo phức hữu cơ, chất thường gặp nhất là uranyl axetat.[38]

Cacbonat

A graph of potential vs. pH showing stability regions of various uranium compounds
The Pourbaix diagram for uranium in a non-complexing aqueous medium (e.g. perchloric acid / sodium hydroxide).[39]
A graph of potential vs. pH showing stability regions of various uranium compounds
The Pourbaix diagram for uranium in carbonate solution[39]

Các tương tác của các ion cacbonat với urani(VI) làm cho biểu đồ Pourbaix thay đổi mạnh khi giá trị trung bình bị thay đổi từ nước sang dung dịch chứa cacbonat. Trong khi một lượng lớn cacbonat không hòa tan trong nước, urani cacbonat thỉnh thoảng hòa tan trong nước. Điều này xả ra là so cation U(VI) có thể liên kết hai ôxit và 3 hoặc nhiều hơn cacbonat tạo thành các phức anion.

Ảnh hưởng của pH

A graph of potential vs. pH showing stability regions of various uranium compounds
A diagram showing the relative concentrations of the different chemical forms of uranium in a non-complexing aqueous medium (e.g. perchloric acid / sodium hydroxide).[39]
A graph of potential vs. pH showing stability regions of various uranium compounds
A diagram showing the relative concentrations of the different chemical forms of uranium in an aqueous carbonate solution.[39]

Các biểu đồ thành phần của urani minh họa cho đặc điểm này: khi pH của dung dịch urani(VI)tăng thì urnai bị chuyển thành urani ôxit ngậm nước và với giá trị pH cao nó chuyển thành phức hydroxit anion.

Khi cho thêm cacbonat vao, urani bị chuyển thành một dãi các phức cacbonat nếu pH tăng. Một hảnh hưởng của các phản ứng này là tăng độ hòa tan của urani khi giá trị pH nằm trong khoảng 6 đến 8, một thực tế là có sự ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định lâu dài của các nhiên liệu hạt nhân urani ôxit đã qua sử dụng.

Hydrua, cacbic và nitrit

Kim loại urani nung ở nhiệt độ 250 đến 300 °C (482 đến 572 °F) phản ứng với hydro tạo thành urani hydrua. Thậm chí ở nhiệt độ cao hơn có thể loại bỏ hydro. Tính chất này làm cho urani hydrua là vật liệu tiện lợi để tạo ra các bột urani hoạt động cùng với các hợp chất khác như cacbic, nitrit, và halua.[40] Hai dạng tinh thể của urani hydrua tồn tại là: dạng α tồn tại ở nhiệt độ thấp còn dạng β được tạo ra ở nhiệt độ trên 250 °C.[40]

Urani cacbicurani nitrit là các hợp chất bán kim loại tương đối trơ, tan rất ít trong các axit, phản ứng với nước, và có thể đốt cháy trong không khí tạo thành U
3
O
8
.[40] Các cabic của urani gồm urani monocacbic (UC), urani đicacbic (UC
2
), và điurani tricacbic (U
2
C
3
). Cả hai hợp chất UC và UC
2
được tạo thành bằng cách thêm cacbon vào urani nóng chảy hoặc urani kim loại tiếp xúc với cacbon monoxit ở nhiệt độ cao. Tính ổn định dưới 1800 °C, U
2
C
3
được điều chế bằng cách pha trộn hỗp hợp nóng của UC và UC
2
dưới áp lực cơ học.[41] Urani nitrit được điều chế bằng cách cho kim loại tác dụng với nitơ bao gồm urani mononitrit (UN), urani đinitrit (UN
2
), và điurani trinitrit (U
2
N
3
).[41]

Halua

Skeletal diagram of a chemical compound having a uraniul atom in its center bonded to 6 fluorine atoms.
Uranium hexafluoride is the feedstock used to separate uranium-235 from natural uranium.

Tất cả urani florua được tạo ra từ urani tetraflorua (UF
4
); bản thân UF
4
được điều chế bằng cách hydroclorua hóa urani điôxit.[40] UF
4
được khử bằng hydro ở 1000 °C tạo ra urani triflorua (UF
3
). Trong các điều kiện nhiệt độ và sáp suất thích hợp, phản ứng của UF
4
rắn với urani hexaflorua (UF
6
) khí có thể tạo thành các florua trung gian nhử U
2
F
9
, U
4
F
17
, và UF
5
.[40]

Ở nhiệt độ phòng, UF
6
áp suất hơi cao, nên nó được dùng vào quá trình khuếch tán khí để tách urani-235 từ đồng vị urani-238. Hợp chất này có thể được điều chế từ urani đoxit và urani hydrua theo phản ứng:[40]

UO
2
+ 4 HF → UF
4
+ 2 H
2
O
(500 °C, thu nhiệt)
UF
4
+ F
2
UF
6
(350 °C, thu nhiệt)

Kết quả tạo ra UF
6
, là chất rắn màu trắng, có tính hoạt động cao (bởi quá trình florua hóa), dễ thăng hoa (gần như ở dạng hơi lý tưởng), và là hợp chất dễ bay hơi nhất của urani.[40]

Một phương pháp điều chế urani tetraclorua (UCl
4
) là kết hợp trực tiếp clo với hoặc là kim loại urani hoặc urani hydrua. Sự khử UCl
4
bởi hydro tạo ra urani triclorua (UCl
3
) trong khi các urani chứa số clo cao hơn được điều chế bởi phản ứng với clo bổ sung.[40] Tất cả urani clorua phản ứng với nước và không khí.

Các muối urani bromuaiôtua đươc tạo ra từ phản ứng trực tiếp của bromiot với urani hoặc bằng cách thêm UH
3
vào các axit của nguyên tố này.[40] Ví dụ như: UBr
3
, UBr
4
, UI
3
, và UI
4
. Urani oxyhalua có thể hòa tan trong nước, gồm UO
2
F
2
, UOCl
2
, UO
2
Cl
2
, và UO
2
Br
2
. Sự ổn định của các oxyhalua này giảm khi khối lượng nguyên tử của thành phần halua tăng.[40]

Đồng vị

Nồng độ trong tự nhiên

Urani tự nhiên bao gồm ba đồng vị chính: urani-238 (99,28%), urani-235 (0,71%), và urani 234 (0,0054%). Tất cả 3 đồng vị này đều phóng xạ, phát ra các hạt anpha với ngoại lệ là tất cả chúng đều có ít sác xuất nhỏ phân hạch tự nhiên hơn là phát xạ anpha.

Urani-238 là đồng vị ổn định nhất của urani, có chu kỳ bán rã khoảng 4,468 tỉ năm, gần bằng tuổi của Trái Đất. Urani-235 có chu kỳ bán rã khoảng 7,13 triệu năm, và urani-234 có chu kỳ bán rã khoảng 2,48×105 năm.[42] Đối với urani tự nhiên, khoảng 49% tia anpha được phát ra từ mỗi U-238, và cũng như 49% bởi U-234U (do sản phẩm sau được tạo thành từ sản phẩm trước) và khoảng 2,0% trong số đó từ U-235. Khi Trái Đất còn trẻ, có thể 1/5 urani của nó là urani 235, nhưng tỷ lệ U-234 có thể thấp hơn nhiều so với hiện nay.

Urani-238 thường phát hạt α - trừ khi nó trải qua phân hạch tự nhiên - phân rã theo phân rã hạt nhân urani có 18 nguyên tố, tất cả chúng cuối cùng đều phân rã thành chì-206, theo nhiều cách phân rã khác nhau.[15]

Chuỗi phân rã phóng xạ của U-235 có 15 thành viên, tất cả chúng phân rã đến cuối cùng đều tạo ra chì-207.[15] Các hằng số phân rã trong các chuỗi này có ích khi so sánh về các tỉ số của hạt nhân mẹ và hạt nhân con trong việc định tuổi bằng đồng vị phóng xạ.

Urani-234 là thành viên trong chuỗi phóng xạ Urani, và nó phân rã thành chì-206 thông qua một chuỗi phân rã của các đồng vị có thời gian sống tương đối ngắn.

Urani-233 được tạo ra từ thori-232 khi bị bắn phá bằng neutron, thường trong các lò phản ứng hạt nhâ, và U-233 cũng có thể phân hạch.[9] Chuỗi phân rã của nó kết thúc bằng tali-205.

Urani-235 là một đồng vị quan trọng được dùng trong các lò phản ứng hạt nhân và trong vũ khí hạt nhân, do nó là đồng vị urani duy nhất tồn tại ở dạng tự nhiên trên Trái Đất có khả năng tự phân hạch tạo ra các sản phẩm phân hạch bằng các neutron nhiệt.[15]

Urani-238 không có thể phân hạch nhưng nó là một fertile isotope, bởi vì sau khi kích hoạt neutron nó có thể tạo ra plutoni-239, là một đồng vị có thể phân hạch khác. Do đó, các hạt nhân U-238 có thể hấp thụ một neutron để tại ra đồng vị phóng xạ urani-239. U-239 phân rã beta tạo ra neptuni-239, đồng vị này cũng phân rã beta, sau đó nó phân rã thành plutoni-239 chỉ trong vài ngày. Pu-239 được dùng làm vật liệu phân hạch trong quả bom nguyên tử đầu tiên trong vụ thử Trinity ngày 15 tháng 7 năm 1945 ở New Mexico.[17]

Làm giàu

A photo of a large hall filled with arrays of long white standing cylinders.
Cascades of gas centrifuges are used to enrich uranium ore to concentrate its fissionable isotopes.

Tách đồng vị là cách thức làm giàu urani-235, loại được dùng trong các vũ khí hạt nhân và trong hầu hết các nhà máy điện hạt nhân, ngoại trừ các lò phản ứng hạt nhân được làm lạnh bằng khí và các lò phản ứng hạt nhân nước nặng được điều áp. Trong các ứng dụng nói trên, việc làm giàu là để cho hầu hết các neutron được giải phóng từ sự phân hạch nguyên tử urani-235 phải ảnh hưởng đến các nguyên tử urani-235 khác để duy trì chuỗi phản ứng hạt nhân. Nồng độ và số lượng urani-235 cần thiết để đạt được yêu cầu này được gọi là khối lượng tới hạn ('critical mass').

Khi đề cập đến urani được làm giàu, thì tỉ lệ urani-235 thường nằm trong khoảng 3% đến 5%.[43] Quá trình làm giàu tạo ra một lượng rất lớn urani nghèo (depleted urani) do đã tách hết urani-235, tức tỷ lệ urani-238 được gia tăng tương ứng. Khi đề cập đến việc làm nghèo urani, tức nồng độ đồng vị urani-235 không quá 0,3%.[44] Giá của urani đã tăng kể từ năm 2001, vì thế các sản phẩm đuôi (sản phẩm thải ra sau quá trình làm giàu) được giàm giàu chứa hơn 0,35% urani-235 cũng được chú ý đến cho quá trình tái làm giàu, đều này đã làm giá của urani hexaforit-nghèo trên ngưỡng 130 USD/kg vào thời điểm tháng 7 năm 2007 so với 5 USD vào năm 2001.[44]

Urani hexaflorua (UF
6
) khí được tách ra có khối lượng phân tử khác nhau giữa 235UF6238UF6 dùng máy ly tâm vận tốc lớn được gọi là quá trình xử lý ly tâm khí. Quá trình này là rẻ nhất và được sử dụng rộng rãi cho việc làm giàu.[16] Quá trình khuếch tán khí là phương pháp hàng đầu làm giàm urani và được sử dụng trong dự án Manhattan. Trong quá trình này, urnai hexaforua được khuếch tán một cách riêng biệt thông qua chất điệm là bạc-kẽm, và các đồng vị khác nhau của urani được tách ra theo tốc độ khuếch tán (vì urani-238 nặng hơn nên nó khuếch tán chậm hơn urani-235).[16] Phương pháp tách đồng vị laser phân tử ứng dụng tia laser có năng lượng nhất định để cắt liên kết giữa urani-235 và flo. Quá trinh này làm cho urani-238 liên kết với flo và cho phép kim loại urani-235 kết tủa từ dung dịch.[6] Một phương pháp làm giàu bằng laser khác là tách đồng vị hơi nguyên tử bằng laser (atomic vapor laser isotope separation) và ứng dụng các tia laser điều hưởng được như laser màu nhuộm.[45] Một phương pháp khác được sử dụng là khuếch tán nhiệt chất lỏng.[34]

Urani và con người

Một người có thể tiếp xúc với urani (hoặc các hạt nhân con của nó như radon) qua việc hít bụi trong không khí hoặc qua các thực phẩm hoặc nước bị nhiễm chúng. Hàm lượng urani trong không khí thường rất nhỏ; tuy nhiên, đối với những người làm việc trong các nhà máy sản xuất phân phốt phát, hoặc sống gần các nhà máy sản xuất hặc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, hoặc sống hay làm việc gần những nơi từng có các trận đánh sử dụng vũ khí hạt nhân, hay gần nhà máy nhiệt điện dùng than, các cơ sở khai thác hoặc xử lý quặng urani, hoặc làm giàu uran, có thể tăng nguy cơ phơi nhiễm urani.[46][47] Các nhà hoặc các cấu trúc trên các mỏ urani (hoặc tự nhiên hoặc nhân tạo) có thể tăng ảnh hưởng đối với khí radon.

Hầu hết urani đi vào cơ thể qua đường thực phẩm được bài tiết qua đường tiêu hóa. Chỉ có 0,5% được hấp thụ khi ở các dạng không hòa tan, như các ôxit của nó, ngược lại việc hấp thụ các ion uranyl có thể nhiều hơn lên đến 5%.[11] Tuy nhiên, các hợp chất urani hòa tan có khuynh hướng đi qua cơ thể một cách nhanh chóng trong khi các hợp chất không hòa tan đặt biệt khi đi vào cơ thể ở dạng bụi trong phổi sẽ gây những biến chứng nghiêm trọng. Sau khi vào máu, urani đã được hấp thụ có khuynh hướng tích tụ sinh học và tồn tại nhiều năm trong các tế bài xương do ái lực của urani với phốt phát.[11]

Urani không liên kết ở dạng các ion uranyl, các ion này tích tụ trong xương, gan, thận, và các tế bào sinh sản. Urani có thể được làm sạch từ các bề mặt thép[48] và các tầng chứa nước.[49]

Ảnh hưởng

Chức năng thông thường của thận, não, gan, tim, và các hệ cơ quan khác trong cơ thể có thể bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với urani, bởi vì ngoài các phóng xạ rất yếu, urani còn là kim loại độc.[11][50][51] Urani cũng là chất độc có khả năng tái sản xuất?.[52][53] Các ảnh hưởng phóng xạ phổ biến ở mức độ địa phương là phóng xạ anpha, một kiểu phân rả ban đầu của U-238, có thời gian tồn tại rất ngắn, và sẽ không xuyên qua da. Các ion uranyl (UO+

2
), như ở dạng uranium trioxit hay uranyl nitrate và các hợp chất hóa trị sáu khác, có thể gây ra những dị tật bẩm sinh và phá hủy hệ miễn dịch của các con thú trong phòng thí nghiệm.[54] Khi CDC xuất bản một nghiên cứu cho thất không có ung thư ở người được ghi nhận khi tiếp xúc với urani tự nhiên hoặc urani đã bị làm nghèo,[55] tiếp xúc với urani và các sản phẩm phân rã của nó đặc biệt là radon, được biết là gây ra những mối đe dọa đáng kể về sức khỏe.[27]

Mặc dù phơi nhiễm urani tình cờ qua đường hô hấp với urani hexafluorua nồng độ cao sẽ gây tử vong ở người, nguyên nhân chính gây tử vong liên quan đến việc tạo ra axit hdrofuolric có độc tính cao và các muối uranyl fluorua hơn là bản thân urani.[56] Urani là một chất tự bốc cháy nên khi ở dạng hạt mịn nó có nguy cơ cháy trong không khí ở nhiệt độ phòng.[9]

Tài liệu về độc học urani 2004[50]
Hệ cơ quan Nghiên cứu trên người Nghiên cứu trên động vật Trong phòng thí nghiệm
Thận Tăng mức bài tiết protein, urinary catalase and diuresis Phá hủy các ống to proximal convoluted tubules, necrotic cells cast from tubular epithelium, glomerular changes (hư thận) Không nghiên cứu
Não/CNS Decreased performance on neurocognitive tests Acute cholinergic toxicity; Dose-dependent accumulation in cortex, midbrain, and vermis; Electrophysiological changes in hippocampus Không nghiên cứu
DNA Tăng khả năng ung thư[32][57][58][59][60][61] Tăng biến dị (ở chuột) và phát triển các khối u Binucleated cells with micronuclei, Inhibition of cell cycle kinetics and proliferation; Sister chromatid induction, tumorigenic phenotype
Xương/cơ Không nghiên cứu Inhibition of periodontal bone formation; and alveolar wound healing Không nghiên cứu
Hệ sinh dục Uranium miners have more first born female children Moderate to severe focal tubular atrophy; vacuolization of Leydig cells Không nghiên cứu
Phổi/hệ hô hấp No adverse health effects reported Severe nasal congestion and hemorrage, lung lesions and fibrosis, edema and swelling, ung thư phổi Không nghiên cứu
Hệ tiêu hóa Nôn mữa, tiêu chảy, bệnh bạch niệu không có dữ liệu không có dữ liệu
Gan Không có những phản ứng được quan sát khi tiếp xúc với liều thử nghiệm Gan nhiễm mở, hoại tử Không nghiên cứu
Da Không xử lý phơi nhiễm Swollen vacuolated epidermal cells, damage to hair follicles and sebaceous glands Không nghiên cứu
Tissues surrounding embedded DU fragments Elevated uranium urine concentrations Elevated uranium urine concentrations, perturbations in biochemical and neuropsychological testing Không nghiên cứu
Hệ miễn dịch Chronic fatigue, rash, ear and eye infections, hair and weight loss, cough. May be due to combined chemical exposure rather than DU alone Không nghiên cứu Không nghiên cứu
Mắt Không nghiên cứu Conjunctivitis, irritation inflammation, edema, ulceration of conjunctival sacs Không nghiên cứu
Máu Không nghiên cứu Decrease in RBC count and hemoglobin concentration Không nghiên cứu
Tim mạch Myocarditis resulting from the uranium ingestion, which ended 6 months after ingestion Không ảnh hưởng Không nghiên cứu

Thực trạng ô nhiễm phóng xạ Urani

Theo uỷ ban năng lượng Hoa Kỳ, phóng xạ urani ở các nhà máy điện hạt nhân, kho vũ khí, trung tâm nghiên cứu và các khu vực trước kia có xảy ra nổ hạt nhân như Hiroshima, Nagasaki, Chernobyl v.v hằng năm làm nhiễm độc 2.500 tỉ lít nước ngầm của thế giới. Nguồn nước nhiễm phóng xạ này sau đó sẽ ngấm vào cây cối, động vật uống phải, hoặc hoà tan vào nguồn nước sinh hoạt của con người và cuối cùng tích luỹ vào cơ thể.

Đây chính là nguyên nhân gây nên những đột biến dị dạng, bệnh tật,… cho các cơ thể sống tự nhiên. Cũng theo điều tra của uỷ ban này, thực chất, lượng phóng xạ rò rỉ trong không khí, không gây nguy hiểm nhiều cho con người bằng lượng phóng xạ vào nguồn nước. Bởi vì, trong không khí – các tia phóng xạ chỉ có một không gian tác động rất hạn chế và giảm dần theo thời gian; còn trong nước, nó có thể đi xa hơn và gây độc cho những vùng lân cận. Không những thế ảnh hưởng của chúng ngày càng tăng theo thời gian do sự tích tụ phóng xạ trong nước ngày càng lớn hơn. Vì vậy, khi HiroshimaChernobyl bị ảnh hưởng trực tiếp của phóng xạ hạt nhân nhưng những vùng rất xa ở xung quanh cũng bị tác động theo, do nguồn nước ngầm liên thông giữa các vùng. Người ta đã phát hiện những triệu chứng nhiễm độc phóng xạ trên cơ thể con người sống ở những vùng rất xa hai trung tâm phóng xạ này, dù theo lý thuyết thì những vùng đó không thể bị ảnh hưởng vì nằm quá tầm hoạt động của các tia phóng xạ sau các vụ nổ. Tuy nhiên, kết quả thực tế cho thấy chúng vẫn bị ảnh hưởng….

Xử lý ô nhiễm phóng xạ urani bằng vi khuẩn

Trong hơn một thập niên qua, các nhà khoa học thuộc trường Đại học Columbia (Hoa Kỳ) nghiên cứu đã tìm ra loại siêu vi khuẩn có khả năng giúp con người xử lý được các phân tử urani phóng xạ. Tên khoa học của loài vi khuẩn đó là Tshewanella oneidensis thuộc chi Tshewanella. Trong đời sống tự nhiên, chúng liên kết thành các tập đoàn không bền vững có cấu trúc giống như những chuỗi hạt ngọc trai mà mỗi hạt ngọc trai là một vi khuẩn. Mỗi chuỗi như vậy dài 5 mm, các chuỗi được liên kết lại với nhau tạo nên một mạng lưới chằng chịt.

Đây là một chủng kị khí không bắt buộc khi không có ôxy, chúng sẽ sử dụng nguồn năng lượng cung cấp từ các phân tử phóng xạ. Theo đó chúng sẽ tiến hành tách lấy các điện tử của phân tử urani có khả năng gây độc cực mạnh cho nguồn nước vì chúng tan vô hạn trong nước thì uranit trở thành phân tử lành tính. Chúng còn được gọi là điôxít urani (UO2), không tan trong nước và khá trơ về mặt hoá học. Vì vậy, người ta có thể thu hồi chúng bằng các phương pháp lọc truyền thống hay bằng các cột trao đổi iôn. Khi hoạt động Tshewanella oneidensis sẽ tiết ra một loại chất nhờn khô đi, nó sẽ tạo thành một lớp vỏ cứng ngăn cản sự rò rỉ của urani hoà tan ở bên trong ra bên ngoài, điều này cũng giống như Tshewanella oneidensis cũng tạo ra một nhà tù để nhốt urani lại vậy.

Tham khảo

  1. ^ Morss, L.R.; Edelstein, N.M. and Fuger, J. biên tập (2006). The Chemistry of the Actinide and Transactinide Elements (ấn bản 3). Netherlands: Springer. ISBN 9048131464.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  2. ^ Magurno, B.A.; Pearlstein, S biên tập (1981). Proceedings of the conference on nuclear data evaluation methods and procedures. BNL-NCS 51363, vol. II (PDF). Upton, NY (USA): Brookhaven National Lab. tr. 835 ff. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2014.
  3. ^ Hoffman, D. C.; Lawrence, F. O.; Mewherter, J. L.; Rourke, F. M. (1971). “Detection of Plutonium-244 in Nature”. Nature. 234: 132–134. doi:10.1038/234132a0.
  4. ^ “Health Concerns about Military Use of Depleted Uranium” (PDF).
  5. ^ “WWW Table of Radioactive Isotopes”.
  6. ^ a b Emsley 2001, tr. 479.
  7. ^ "U.S. to pump money into nuke stockpile, increase security," RIA Novosti February 18, 2010
  8. ^ a b “Oklo: Natural Nuclear Reactors”. Office of Civilian Radioactive Waste Management. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2006.
  9. ^ a b c d e f C. R. Hammond (2000). The Elements, in Handbook of Chemistry and Physics 81st edition (PDF). CRC press. ISBN 0849304814.
  10. ^ Emsley 2001, tr. 482.
  11. ^ a b c d e f g Emsley 2001, tr. 477.
  12. ^ M. H. Klaproth (1789). “Chemische Untersuchung des Uranits, einer neuentdeckten metallischen Substanz”. Chemische Annalen. 2: 387–403.
  13. ^ “Uranium”. The American Heritage Dictionary of the English Language (ấn bản 4). Houghton Mifflin Company. |ấn bản= có văn bản dư (trợ giúp)
  14. ^ E.-M. Péligot (1842). “Recherches Sur L'Uranium”. Annales de chimie et de physique. 5 (5): 5–47.
  15. ^ a b c d e “uranium”. Columbia Electronic Encyclopedia (ấn bản 6). Columbia University Press. |ấn bản= có văn bản dư (trợ giúp)
  16. ^ a b c d Emsley 2001, tr. 478.
  17. ^ a b c d e f Seaborg 1968, tr. 773
  18. ^ Fermi, Enrico (12 tháng 12 năm 1938). “Artificial radioactivity produced by neutron bombardment: Nobel Lecture” (PDF). Royal Swedish Academy of Sciences.
  19. ^ De Gregorio, A. (2003). "A Historical Note About How the Property was Discovered that Hydrogenated Substances Increase the Radioactivity Induced by Neutrons". arΧiv:physics/0309046 [physics.hist-ph]. 
  20. ^ Nigro, M, (2004). “Hahn, Meitner e la teoria della fissione” (PDF). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.Quản lý CS1: dấu chấm câu dư (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  21. ^ Peter van der Krogt. “Elementymology & Elements Multidict”. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.
  22. ^ L. Meitner, O. Frisch (1939). “Disintegration of Uranium by Neutrons: a New Type of Nuclear Reaction”. Nature. 143: 239–240. doi:10.1038/224466a0.
  23. ^ J.E. Helmreich, Gathering Rare Ores: The Diplomacy of Uranium Acquisition, 1943-1954, Princeton UP, 1986: ch. 10
  24. ^ “History and Success of Argonne National Laboratory: Part 1”. U.S. Department of Energy, Argonne National Laboratory. 1998. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  25. ^ “1956:Queen switches on nuclear power”. BBC news. 17 tháng 10 năm 1956. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2006.
  26. ^ USS Nautilus - the First Atomic Submarine
  27. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BuildingBlocks480
  28. ^ T. Warneke, I. W. Croudace, P. E. Warwick, R. N. Taylor (2002). “A new ground-level fallout record of uranium and plutonium isotopes for northern temperate latitudes”. Earth and Planetary Science Letters. 203 (3–4): 1047–1057. doi:10.1016/S0012-821X(02)00930-5.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  29. ^ Newtan, Samuel Upton (2007). Nuclear War 1 and Other Major Nuclear Disasters of the 20th Century, AuthorHouse.
  30. ^ “The Worst Nuclear Disasters”. Time.com. 25 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  31. ^ Gilliland, Frank D. MD; Hunt, William C. MS; Pardilla, Marla MSW, MPH; Key, Charles R. MD, PhD (tháng 3 năm 2000). “Uranium Mining and Lung Cancer Among Navajo Men in New Mexico and Arizona, 1969 to 1993”. New England Journal of Medicine. 42 (3): 278–283.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  32. ^ a b “The History of Uranium Mining and the Navajo People”. Ajph.org. doi:10.2105/AJPH.92.9.1410. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  33. ^ a b c d “uranium”. Encyclopedia of Espionage, Intelligence, and Security. The Gale Group, Inc.
  34. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SciTechEncy
  35. ^ A. D. Rollett (2008). Applications of Texture Analysis. John Wiley and Sons. tr. 108. ISBN 0470408359.
  36. ^ Seaborg 1968, tr. 779.
  37. ^ a b c “Chemical Forms of Uranium”. Argonne National Laboratory. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2007.
  38. ^ a b Seaborg 1968, tr. 778.
  39. ^ a b c d Ignasi Puigdomenech, Hydra/Medusa Chemical Equilibrium Database and Plotting Software (2004) KTH Royal Institute of Technology, freely downloadable software at [1]
  40. ^ a b c d e f g h i j Seaborg 1968, tr. 782.
  41. ^ a b Seaborg 1968, tr. 780.
  42. ^ Seaborg 1968, tr. 777.
  43. ^ “Uranium Enrichment”. Argonne National Laboratory. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2007.
  44. ^ a b Peter Diehl. “Depleted Uranium: a by-product of the Nuclear Chain”. Laka Foundation. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009.
  45. ^ F. J. Duarte and L. W. Hillman (Eds.) (1990). Dye Laser Principles. Academic. tr. 413. ISBN 012222700X.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  46. ^ “Radiation Information for Uranium”. U.S. Environmental Protection Agency. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009.
  47. ^ “ToxFAQ for Uranium”. Agency for Toxic Substances and Disease Registry. 1999. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)
  48. ^ Francis, AJ; Dodge, CJ; McDonald, JA; Halada, GP (2005). “Decontamination of uranium-contaminated steel surfaces by hydroxycarboxylic acid with uranium recovery”. Environmental science & technology. 39 (13): 5015–21. doi:10.1021/es048887c. PMID 16053105.
  49. ^ Wu, WM; Carley, J; Gentry, T; Ginder-Vogel, MA; Fienen, M; Mehlhorn, T; Yan, H; Caroll, S; Pace, MN (2006). “Pilot-scale in situ bioremedation of uranium in a highly contaminated aquifer. 2. Reduction of u(VI) and geochemical control of u(VI) bioavailability”. Environmental science & technology. 40 (12): 3986–95. doi:10.1021/es051960u. PMID 16830572.
  50. ^ a b E. S. Craft, A. W. Abu-Qare, M. M. Flaherty, M. C. Garofolo, H. L. Rincavage, M. B. Abou-Donia (2004). “Depleted and natural uranium: chemistry and toxicological effects”. Journal of Toxicology and Environmental Health Part B: Critical Reviews. 7 (4): 297–317. doi:10.1080/10937400490452714. PMID 15205046.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  51. ^ “Toxicological Profile for Uranium” (PDF). Atlanta, GA: Agency for Toxic Substances and Disease Registry (ATSDR). 1999. CAS# 7440-61-1 month=September.
  52. ^ Hindin; Brugge, D; Panikkar, B; và đồng nghiệp (2005). “Teratogenicity of depleted uranium aerosols: A review from an epidemiological perspective”. Environ Health. 4: 17. doi:10.1186/1476-069X-4-17. PMC 1242351. PMID 16124873. “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |first1= (trợ giúp)
  53. ^ Arfsten, D.P.; K.R. Still; G.D. Ritchie (2001). “A review of the effects of uranium and depleted uranium exposure on reproduction and fetal development”. Toxicology and Industrial Health. 17 (5–10): 180–91. doi:10.1191/0748233701th111. PMID 12539863.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  54. ^ Domingo, JL; Paternain, JL; Llobet, JM; Corbella, J (1989). “The developmental toxicity of uranium in mice”. Toxicology. 55 (1–2): 143–52. doi::10.1016/0300-483X(89)90181-9 Kiểm tra giá trị |doi= (trợ giúp). PMID 2711400.
  55. ^ “Public Health Statement for Uranium”. CDC. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2007.
  56. ^ Richard C. Dart (2004). Medical Toxicology. Lippincott Williams & Wilkins. tr. 1468. ISBN 0-7817-2845-2.
  57. ^ “Lung Cancer in a Nonsmoking Underground Uranium Miner”. Ehponline.org. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  58. ^ “Uranium mining and lung cancer in Navajo men”. Content.nejm.org. 7 tháng 6 năm 1984. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  59. ^ Navajo Uranium Workers and the Effects of Occupational Illnesses: A Case Study
  60. ^ “Uranium Mining and Lung Cancer Among Navajo Men in New Mexico and Arizona, 1969 to 1993”. Joem.org. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  61. ^ L S Gottlieb and L A Husen (1 tháng 4 năm 1982). “Lung cancer among Navajo uranium miners”. Chestjournal.org. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.

Tài liệu

Liên kết ngoài


Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt