Vải (thực vật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Vải (cây))
Vải
Cành vải với quả chín
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
(không phân hạng)Rosids
Bộ (ordo)Sapindales
Họ (familia)Sapindaceae
Chi (genus)Litchi
Loài (species)L. chinensis
Danh pháp hai phần
Litchi chinensis
Sonn., 1782
Danh pháp đồng nghĩa[1]
  • Corvinia litschi Stadtm. ex Willemet
  • Euphoria litchi Juss. ex Desf.
  • Euphoria punicea Lam.
  • Euphoria sinensis J.F.Gmel.
  • Laetji chinensis Osbeck ex Steud.
  • Litchi chinensis var. euspontanea H.H.Hsue
  • Litchi sinensis J.F.Gmel.
  • Nephelium chinense (Sonn.) Druce
  • Nephelium lit-chi Cambess.
  • Nephelium litchi Steud.
  • Sapindus edulis Aiton
  • Scytalia chinensis (Sonn.) Gaertn.
  • Scytalia litschi Roxb.
  • Scytalia sinensis J.F.Gmel.
  • Scytalia squamosa Stokes
  • Euphoria didyma Blanco
  • Nephelium didymum Craib
  • Litchi philippinensis Radlk.
  • Nephelium dimocarpus Hiern
  • Nephelium duriocarpum T.Anderson ex Hiern
Vải quả (phần ăn được)
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)
Năng lượng276 kJ (66 kcal)
16.5 g
Chất xơ1.3 g
0.4 g
0.8 g
Vitamin
Vitamin C
(87%)
72 mg
Chất khoáng
Canxi
(1%)
5 mg
Magiê
(3%)
10 mg
Phốt pho
(4%)
31 mg

Phần ăn được chiếm 60% khối lượng quả
Tỷ lệ phần trăm xấp xỉ gần đúng sử dụng lượng hấp thụ thực phẩm tham chiếu (Khuyến cáo của Hoa Kỳ) cho người trưởng thành.
Nguồn: CSDL Dinh dưỡng của USDA

Vải[2] (danh pháp khoa học: Litchi chinensis; tiếng Trung: 荔枝; bính âm: lìzhī , Hán-Việt: Lệ chi) là một loài thực vật có hoa và là thành viên duy nhất trong chi Vải (Litchi), thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae). Loài này được Pierre Sonnerat miêu tả và đặt tên khoa học đầu tiên trong tác phẩm "Voyage aux Indes Orientales et à la Chine, fait depuis 1774 jusqu'à 1781" (dịch: "Hành trình đi đến Ấn Độ Đông Dương và Trung Quốc, từ năm 1774 đến 1781"), được xuất bản vào năm 1782.[1]

Vải là một loài cây ăn quả thân gỗ thuộc vùng nhiệt đới, có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc, chúng đã được du nhập sang Đông Nam ÁNam Á. Hiện tại, chúng phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Philippines, MadagascarNam Phi.

Hạt vải có chứa methylene cyclopropyl glycine (MCPG), một chất gây hạ đường huyết và là nguyên nhân gây ra viêm não ở trẻ em đói nghèo Ấn Độ.[3]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Vải là cây thường xanh với kích thước trung bình, có thể cao tới 15–20 m, có lá hình lông chim mọc so le, mỗi lá dài 15–25 cm, với 2-8 lá chét ở bên dài 5–10 cm và không có lá chét ở đỉnh. Các lá non mới mọc có màu đỏ đồng sáng, sau đó chuyển dần thành màu xanh lục khi đạt tới kích thước cực đại. Hoa nhỏ màu trắng ánh xanh lục hoặc trắng ánh vàng, mọc thành các chùy hoa dài tới 30 cm.

Quả là loại quả hạch, hình cầu hoặc hơi thuôn, dài 3–4 cm và đường kính 3 cm. Lớp vỏ ngoài màu đỏ, cấu trúc sần sùi, không ăn được nhưng dễ dàng bóc được. Bên trong là lớp cùi thịt màu trắng mờ, ngọt và giàu vitamin C, có kết cấu tương tự như của quả nho. Ở giữa quả là một hạt màu nâu, dài 2 cm và đường kính cỡ 1-1,5 cm. Hạt - tương tự như hạt của quả dẻ ngựa - có độc tính nhẹ và không nên ăn. Quả chín vào giai đoạn từ tháng 6 (ở các vùng gần xích đạo) đến tháng 10 (ở các vùng xa xích đạo), khoảng 100 ngày sau khi cây ra hoa.

Một số loài phụ:

  • Litchi chinensis subsp. chinensis: Là loài vải duy nhất được thương mại hóa, mọc dại ở miền nam Trung Quốc, bắc Việt nam và Campuchia. Chúng có cành mỏng, hoa thường có sau nhị, quả mịn hoặc nổi hạt nhỏ lên đến 2mm, lá có 4-8 lá chét (ít khi 2).
  • Litchi chinensis subsp. javanensis: Chỉ được biết đến nhờ trồng trọt tại Malaysia và Indonesia. Cành dày, hoa có từ bảy đến mười một nhị tạo thành cụm không có cuống, quả mịn có nổi hạt nhỏ lên đến 1mm.
  • Litchi chinensis subsp. philippinensis (Radlk.) Leenh (đồng nghĩa: Euphoria didyma Blanco, Litchi philippinensis Radlk., Nephelium didymum (Blanco) Crai): Phổ biến mọc dại ở Philipines và hiếm khi được trồng trọt. Cành mỏng, sáu đến bảy nhị hoa, quả dạng trái xoan dài và có nổi hạt lên đến 3mm. Lá với 2-4 lá chét (ít khi 6).

Trồng và sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Vải được trồng nhiều tại miền nam Trung Quốc cũng như ở khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, miền nam Nhật Bản và gần đây là tại FloridaHawaii (Hoa Kỳ) cũng như các khu vực ẩm ướt thuộc miền đông Australia. Vải cần có khí hậu nóng vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới không có sương giá hoặc chỉ có mùa đông rét nhẹ với nhiệt độ không xuống dưới -4 °C và với mùa hè nóng bức, nhiều mưa và độ ẩm cao. Nó phát triển tốt trên các loại đất thoát nước tốt, hơi chua và giàu chất hữu cơ (mùn). Có nhiều giống cây trồng, với các giống chín sớm thích hợp với khí hậu nóng hơn còn các giống chín muộn thích hợp với khí hậu mát hơn. Ở một vài nơi người ta còn trồng vải làm cây cảnh. Quả vải nói chung được bán để ăn tươi tại các chợ khu vực (trong những năm gần đây nó cũng được bán rộng rãi tại các siêu thị phương Tây). Vỏ màu đỏ chuyển thành nâu sẫm khi quả được vận chuyển bằng các phương tiện đông lạnh, nhưng mùi vị gần như không bị ảnh hưởng. Dưới dạng đóng hộp nó được bầy bán quanh năm.

Nguồn dẫn chiếu lịch sử chính thức đầu tiên của Trung Quốc về cây/quả vải có ở thời nhà Đường, khi nó là loại quả ưa thích của Dương Quý Phi, người thiếp yêu của hoàng đế Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng).

Người Quảng Đông cho rằng "ăn một quả vải bằng giữ ba ngọn đuốc trong người" (nguyên văn: 一啖荔枝三把火, nhất đạm lệ chi tam bả hỏa). Điều này muốn nói đến thuộc tính dương (nóng) của loại quả này. Ăn quá nhiều vải làm khô môi và có thể gây chảy máu cam ở một số người, cũng như có thể gây ra mụn nhọt hay loét miệng. Ngược lại, loại quả từ cây có quan hệ họ hàng là nhãn lại được coi là có các tính chất bổ dưỡng.

Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Giống vải được ưa chuộng nhất ở Việt Namvải thiều trồng tại khu vực huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên, vải được trồng nhiều nhất ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.[4] Quả vải tại vùng Thanh Hà (Hải Dương) thông thường có hương vị thơm và ngọt hơn vải được trồng ở các khu vực khác (mặc dù cũng lấy giống từ đây).[cần dẫn nguồn] Một giống vải khác chín sớm hơn, có tên gọi dân gian là "vải tu hú", có hạt to hơn và vị chua hơn so với vải thiều. Nguyên do có tên gọi như vậy có lẽ là vì gắn liền với sự trở lại của một loài chim di cư là chim tu hú.

Vải ra hoa vào tháng 3 dương lịch và chín vào tháng 6. Thời điểm vải chín rộ thường bắt đầu từ giữa tháng 6 tới giữa tháng 7.[5] Khoảng thời gian thu hoạch vải thiều thường ngắn, khoảng 2 tuần. Vì vậy nên với sản lượng lớn, người ta thường chế biến bằng cách sấy khô, sản phẩm sau đó gọi là vải khô.

Trong lịch sử Việt Nam, vải gắn liền với hai nhân vật lịch sử của Việt Nam là Mai Thúc Loan[cần dẫn nguồn] [6]Nguyễn Trãi. Mai Thúc Loan xuất thân là phu khuân vải cống nạp cho nhà Đường của Trung Quốc. Ông đã lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa và sau lên ngôi làm Mai Hắc Đế. Vải còn được biết đến ở Việt Nam qua vụ án Lệ Chi Viên (Vụ án vườn vải) liên quan đến Nguyễn Trãi.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b The Plant List (2013). Litchi sinensis. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2017.
  2. ^ Nguyễn Tiến Bân, Nguyễn Quốc Bình, Vũ Văn Cẩn, Lê Mộng Chân, Nguyễn Ngọc Chính, Vũ Văn Dũng, Nguyễn Văn Dư, Trần Đình Đại, Nguyễn Kim Đào, Nguyễn Thị Đỏ, Nguyễn Hữu Hiến, Nguyễn Đình Hưng, Dương Đức Huyến, Nguyễn Đăng Khôi, Nguyễn Khắc Khôi, Trần Kim Liên, Vũ Xuân Phương, Hoàng Thị Sản, Nguyễn Văn Tập, Nguyễn Nghĩa Thìn; Tên cây rừng Việt Nam; Nhà xuất bản Nông nghiệp - 2000; Trang 156.
  3. ^ Aakash Shrivastava; Anil Kumar; Jerry D Thomas; Kayla F Laserson; Gyan Bhushan; Melissa D Carter; Mala Chhabra; Veena Mittal; Shashi Khare; James J Sejvar; Mayank Dwivedi; Samantha L Isenberg; Rudolph Johnson; James L Pirkle; Jon D Sharer; Patricia L Hall; Rajesh Yadav; Anoop Velayudhan; Mohan Papanna; Pankaj Singh; D Somashekar; Arghya Pradhan; Kapil Goel; Rajesh Pandey; Mohan Kumar; Satish Kumar; Amit Chakrabarti; P Sivaperumal; A Ramesh Kumar; Joshua G Schier; Arthur Chang; Leigh Ann Graham; Thomas P Mathews; Darryl Johnson; Liza Valentin; Kathleen L Caldwell; Jeffery M Jarrett; Leslie A Harden; Gary R Takeoka; Suxiang Tong; Krista Queen; Clinton Paden; Anne Whitney; Dana L Haberling; Ram Singh; Ravi Shankar Singh; Kenneth C Earhart; A C Dhariwal; L S Chauhan; S Venkatesh; Padmini Srikantiah. (30 tháng 1 năm 2017). “Association of acute toxic encephalopathy with litchi consumption in an outbreak in Muzaffarpur, India, 2014: a case-control study”. The Lancet. doi:10.1016/S2214-109X(17)30035-9. PMID 28153514.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^ Vải chín đỏ đồi, người trồng đỏ mắt thắt ruột, Vietnamnet, 22/06/2014
  5. ^ 'Đã mắt' ngắm mùa vải chín rộ ở Bắc Giang, Vietnamnet, 22/06/2016
  6. ^ Có ý kiến cho rằng câu chuyện Mai Thúc Loan là thành viên của đoàn phu gánh vải cống cho triều đình nhà Đường, vì cơ cực mà nổi dậy là không có thực. [1]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]