Khác biệt giữa bản sửa đổi của “BTR-152”
←Trang mới: “{{Infobox Weapon |name= BTR-152 |image= 300px|BTR-152 tại [[Israel]] |caption= BTR-152 tại Israel |origin= {{Flag|Liên…” |
|||
Dòng 283: | Dòng 283: | ||
{{commons|BTR-152}} |
{{commons|BTR-152}} |
||
{{PostWWIISovietAFVS}} |
|||
[[Thể loại:Xe tăng Liên Xô và Nga]] |
Phiên bản lúc 08:41, ngày 9 tháng 5 năm 2012
BTR-152 | |
---|---|
BTR-152 tại Israel | |
Loại | Xe bọc thép chở quân |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 24 tháng 3 năm 1950 – nay |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | BM Fitterman |
Năm thiết kế | 1946 - 1949 |
Nhà sản xuất | Nhà máy số 2 Zavod Imeni Stalina (1950 - 1956) Nhà máy số 2 Zavod Imeni Likhacheva (1956 - 1962) |
Giai đoạn sản xuất | 1950 - 1962 |
Số lượng chế tạo | Khoảng 15.000 |
Thông số | |
Khối lượng | 9,91 tấn |
Chiều dài | 6,55 m ; 6,83 m cho BTR-152V |
Chiều rộng | 2,32 m |
Chiều cao | 2,04 m ; 2,36 m ; 2,41 m |
Kíp chiến đấu | 2 lái xe + 18 lính |
Phương tiện bọc thép | 15 mm phía trước
9 mm hai bên và phía sau 10 mm mái 4 mm bao quanh gầm và phần đáy ở đuôi xe |
Vũ khí chính | Súng máy SGMB 7,62mm (1.250 viên đạn) hoặc DShK 12,7 mm (500 viên) |
Động cơ | ZIS-123 6 xi-lanh làm mát bằng nước (đối với các biến thể dựa trên ZIS-151) , ZIL-137K 6 xi-lanh (đối với các biến thể dựa trên ZIL-157) |
Công suất/trọng lượng | 11,1 mã lực / tấn (8,3 kW / tấn) 10,8 mã lực / tấn (8,1 kW / tấn) đối với BTR-152V |
Sức chứa nhiên liệu | 300 lít |
Tầm hoạt động | 650 km |
Tốc độ | 65 - 75 km/h |
BTR-152 còn được gọi là BTR-140 là loại xe bọc thép chở quân ( không có khả năng đổ bộ và lội nước ) do Liên Xô chế tạo từ năm 1950 (BTR là viết tắt của Bronetransporter (БТР, Бронетранспортер, nghĩa là "bọc thép vận chuyển") , BTR-152 được phát triển và sử dụng song song với loại xe BTR-40 của nhà thiết kế VA Dedkov dựa trên mẫu BTR-141 từ thế chiến thứ hai . Được đưa vào biên chế quân đội Xô Viết năm 1950 - 1991 , nó được dùng nhằm bổ sung cũng như thay thế cho những chiếc BTR-40 . Sau năm 70 , các xe BTR-152 và BTR-40 dần được thay thế bằng các xe BTR-60 , BTR-70 và BTR-80 . Nó còn nằm trong biên quân đội Liên Xô - Nga đến năm 1993 . Các nước khu vực Châu Phi và các nước ở Châu Á thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũng được Liên Xô cung cấp cho loại xe này và vẫn còn được quân đội nhiều nước trên thế giới sử dụng .
Lịch sử
Xe tăng là phương tiện cần thiết trong chiến tranh cơ động vũ trang . Tuy nhiên , ngay khi đã có vũ khí mạnh , vỏ thép dày nhưng xe tăng cũng chịu nhiều thiệt hại từ các chiến thuật chống tăng của đối phương , đặc biệt là ở khu vực đô thị . Điều này đã làm cho mỗi trận chiến có tăng thì yêu cầu cần phải có bộ binh đi cùng nhằm vừa bảo vệ các chiến xa và phối hợp tấn công xe tăng của địch , chiến thuật hợp đồng tác chiến sẽ làm tăng hiệu quả chiến đấu hơn bao giờ hết .
Trong chiến tranh thế giới thứ hai , do tình hình chiến tranh ác liệt , các nước đã nghĩ tới một loại xe tương tư như xe tăng như nhỏ và nhẹ hơn dùng để chở quân vào các vùng chiến sự , bắt đầu từ đây khái niện Xe bọc thép chở quân (APC hay BTR) được phổ biến rộng rãi tuy sau chiến tranh thế giới thứ nhất , một ví dụ về xe chở quân là Mark V* (loại xe tăng của Anh có phòng nhỏ để chở quân) cũng đã hình thành . Xe nửa xích như M3 của Mỹ và SdKfz 251 của Đức đóng vai trò tương tự như các xe bọc thép chở quân được phát triển sau đó trở đi. Xe bọc thép chở quân hàng đầu trong thời gian này là Universal Carrier của Anh, cũng còn được biết với tên là Bren Carrier vì loại vũ khí mà nó được thiết kế để mang theo . Sau này một khái niệm nữa mang tên Xe chiến đấu bộ binh (infantry fighting vehicle IFV , véhicule de combat d'infanterie , Боевая машина пехоты ) cũng hình thành , nó như là sự kết hợp giữa xe thiết giáp và một phần của xe tăng . Xem thêm Xe bọc thép chở quân , Xe chiến đấu bộ binh .
Trong thế chiến thứ hai , loại xe bọc thép mà Liên Xô sử dụng là mẫu BTR-141 và BT-7 , sau này được làm mẫu cho loại BTR-40 .
BTR-152 là một trong những xe thiết giáp bộ binh của Liên Xô đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc . Nó được phát triển từ tháng 11 năm 1946 tại nhà máy ZIS được thiết kế bởi BM Fitterman . Hai nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành tháng 5 năm 1947 . Chiếc xe đã được quân đội Liên Xô thông qua vào ngày 24 tháng 3 năm 1950 . Một số phiên bản nâng cấp được thiết kế bởi WF Rodionow và NI Orłow sau đó đưa vào sản xuất . Những nguyên mẫu BTR-152 gặp nhiều vấn đề khi bảo trì , sửa chữa như mái và các vấn đề về di chuyển .
Việc sản xuất BTR-152 ngừng lại vào năm 1962 . tổng cộng đã có 15000 chiếc được sản xuất .
Miêu tả
Xe BTR-152 được chế tạo dựa trên khung xe tải , có động cơ ở phía trước , khoang chở lính ở phía sau . Cấu trúc của xe là cấu trúc hàn thép . Kính chắn gió được bảo vệ bằng 2 tấm sắt , chúng có thanh đóng mở riêng . Khoang lái xe có 2 cửa mỗi bên cho lái xe . Trên nóc xe có 1 khoang nhỏ dành cho xạ thủ súng máy . Xe có các cửa quan sát phía trước , sau và hai bên giúp cho binh lính và lái xe có thể quan sát từ trong xe ra trận địa . Vỏ giáp xe có độ dày khoảng từ 15 - 9 mm , phần mỏng nhất là bao quanh gầm xe và đáy đuôi 4mm . Điều này làm xe dễ bị súng máy hạng nặng tấn công , có khi còn từ vũ khí bộ binh cá nhân .
Xe chạy bằng 6 lốp , có bộ phận giảm xóc để giúp lái xe không bị mệt khi đi qua địa hình gồ ghề . Lốp xe dễ bị thủng do đạn bắn , do là loại xe bánh lốp nên BTR-152 hơi khó khăn khi đi qua các khu vực lầy lội . Mẫu BTR-152 V3 có cả thiết bị nhìn đêm .
Xe có thể chở 1,9 tấn hàng hóa hoặc nửa trung đội . Lính trong xe có thể chiến đấu bằng súng cá nhân ra ngoài do họ có thể bắn qua các cửa quan sát . Binh sĩ có thể ra vào xe bằng cách leo qua nóc xe do xe không có mái . Những chiếc dùng để chở hàng hóa thì có một tấm bạt phủ lên trên thay cho nóc khi đi qua nơi có mưa hay tuyết , bão . Các mẫu BTR-152 thì thường không có mái , việc này rất nguy hiểm khi đi qua các vùng đô thị có nhiều nhà cao tầng , quân địch ở phía trên dễ dàng nã xuống hoặc xe có khả năng bị ném lựu đạn vào khoang chở quân . Chỉ có lái xe và xạ thủ súng máy là những người duy nhất được bảo vệ ở phía trên . Sau này , mẫu BTR-152K là mẫu duy nhất thuộc dòng BTR-152 là có mái trên bảo vệ lính trong khoang .
BTR-152 được trang bị 1 súng máy 7,62mm SGMB , súng DShK 12,7mm hoặc súng phòng không 14,5mm hay 23mm .
Trước động cơ xe có các cửa mảnh nhằm bảo vệ động cơ trong quá trình di chuyển khỏi bị trúng đạn . Nhưng việc đóng cửa mảnh quá lâu dễ gay nóng động cơ làm lái xe phải chạy chậm lại . Đây là 1 điểm yếu của xe do bộ phận làm mát khó có thể đáp ứng nổi công việc .
Ngoài ra , BTR-152 còn gặp phải nhiều vấn đề khác như vấn đề về bảo trì , hoạt động qua nước , hoàn toàn không có khả năng đổ bộ hay lội nước , đội tin cậy thấp . Những nguyên nhân trên là do xe được phát triển từ 2 mẫu xe tải của Liên Xô là ZIS-151 và ZIL-157 . Sau này các mẫu BTR-60 , BTR-70 và BTR-80 đã thay thế dần dần cho BTR-152 .
Lịch sử hoạt động
BTR-152 bắt đầu hoạt động trong quân đội Liên Xô từ ngày 24 tháng 3 năm 1950 và công khai xuất hiện trong 1 cuộc diễu hành tại Moskva năm 1951 . Nó được loại bỏ dần bằng những chiếc BTR-60 bắt đầu từ năm 1970 . Nó còn hoạt động trong quân đội Xô Viết và sau đó là quân đội Nga đến năm 1993 trong cả các mục đích dân sự lẫn quân sự . BTR-152 được xuất khẩu đến những nước châu Phi và các đồng minh xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cũ và hiện nay vẫn còn hoạt động tại nhiều nước .
BTR-152 được sử dụng trong cuộc Cách mạng Hungary 1956 . Sau đó là ở Cuộc chiến 6 ngày . Tại đây , Israel đã thu giữ hàng chục chiếc BTR-152 của Ai Cập và Syria . Nó cũng xuất hiện trong Cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968 và Chiến tranh Việt Nam . Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng BTR-152 là chiếc xe bọc thép chở quân chính trong thời kỳ chiến tranh .
Biến thể
Liên Xô cũ
BTR-152 (năm 1950) - APC cơ bản dựa trên xe tải ZIL-151 , nhiều trong số đó sau này sẽ được chuyển đổi cho các mục đích sử dụng khác, chẳng hạn như xe cứu thương , trạm phát thanh , và các phương tiện kỹ thuật khác . Loại BTR-152 cơ bản không có mái .
BTR-152A (1951) - BTR-152 được chuyển đổi thành một SPAAG (xe phòng không) trang bị một đôi ZPU-2 hoặc loại 4 nòng ZPU-4 , KPVT 14,5 mm súng máy phòng không hạng nặng (2400 viên) , điều khiển súng chỉ bởi một người lính duy nhất . Toàn bộ phi hành đoàn của chiếc xe bao gồm 10 binh sĩ , 5 được trang bị với ZPTU-2 và 5 binh sĩ được trang bị với ZPTU-4. Tháp pháo được đặt bên trong ngăn quân và có thể được vận hành bằng tay chỉ bởi một người . Nó có thể nâng từ -5 và 80 độ .
BTR-152 chuyển đổi thành một xe thả mìn chống tăng .
BTR-152B (1952) Xe chỉ huy pháo đoàn .
BTR-152C Xe thông tin .
BTR-152V (1955) - Biến thể dựa trên xe tải ZIL-157 với lốp xe bên ngoài hệ thống điều chỉnh áp lực , gắn các thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe .
BTR-152D (1955) - Vũ khí như BTR-152A , nhưng dựa trên BTR-152V .
BTR-152I phiên bản BTR-152V cho chiếc xe chỉ huy pháo binh .
BTR-152S Xe thông tin kết hợp xe chỉ huy có lắp đặt mái dày và cao .
BTR-152V1 (1957) Trang bị thiết bị nhìn đêm và tời ( thiết bị kéo ) , dùng như xe sửa chữa chiến trường .
BTR-152K (1959) - Lắp thêm mái thép ở ngăn quân , thêm cửa di chuyển ở bên phải . Hệ thống thông gió . Trọng lượng của chiếc xe đã tăng lên, phi hành đoàn đã đi xuống từ 2 + 18 xuống 2 + 13 .
BTR-152K chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép .
BTR-152E - Vũ khí BTR-152A , nhưng dựa trên BTR-152V1 .
BTR-152U - Xe chỉ huy dựa trên BTR-152V1 được trang bị với hệ thống lốp xe bên ngoài quy định áp lực . Chiếc xe chỉ huy có một mái nhà che phủ cao hơn đáng kể , radio và ăng-ten bổ sung .
BTR-152V2 - BTR-152V phiên bản mà không có tời .
BTR-152D dựa trên BTR-152V2 .
BTR-152B1 (1958) - Xe chỉ huy pháo phiên bản với phía trước gắn trên tời , hộp chứa lốp xe và thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe.
BTR-152V3 - BTR-152V với tời trên mặt trước , lái xe có đèn hồng ngoại và hộp lốp .
BTR-E152V (1957) - Phiên bản thử nghiệm .
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Type 56 (loại 56) Phiên bản sao chép của Trung Quốc .
Ai Cập
BTR-152 được chuyển đổi thành SPAAG với 4 súng phòng không DShK 12,7mm đặt tại ngăn quân , Ai Cập gọi nó là xe M58 . Ngừng hoạt động vào năm 1980 .
Đông Đức cũ
SPW-152 - Phiên bản BTR-152 của Đông Đức
SPW-152 chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép .
SPW-152U - Phiên bản xe chỉ huy BTR-152 của Đông Đức .
Israel
BTR-152 Bắt được từ Syria , Ai Cập và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu cho quân đội Israel .
BTR-152 TCM-20 Xe phòng không của Israel , được trang bị 1 pháo đôi TCM - 20 20mm .
Liban
BTR-152 Dành cho Dân quân Liban . Nó được trang bị với súng ZSU-23-2 chống máy bay được đặt bên trong ngăn quân . Nó được sử dụng trong vai trò hỗ trợ hoả lực và chống máy bay .
BTR-152 Israel thu được từ Hezbollah . Nó được trang bị một cần trục bên trong . Một số bị Israel thu giữ trong cuộc Chiến tranh Liban 2006 đang được trưng bày tại Bảo tàng Yad la-Shiryon , Israel .
Ba Lan
BTR-152 chuyển đổi để phục vụ như là một xe chỉ huy di động. Nó có thêm radio .
BTR-152 chuyển đổi thành một phương tiện kỹ thuật .
BTR-152 chuyển đổi thành một máy kéo pháo binh bọc thép .
Các quốc gia sử dụng
Các quốc gia vẫn còn sử dụng
Ai Cập - Hiện còn 300 BTR-152 đang hoạt động . 675 BTR-152 mua từ Liên Xô và Tiệp Khắc . Ngoài ra , Ai Cập còn 120 BTR-152 chuyển đổi thành SPAAG nhưng ngừng phục vụ giữa những năm 1980.
Estonia - 5
Indonesia - Đã cho nghỉ hưu
Israel Thu được trong thời gian Chiến tranh Sáu ngày từ Ai Cập và Syria. Nó được sử dụng bởi quân đội Israel chủ yếu là trong vai trò vận chuyển vũ khí như TCM BTR-152-20 . Một số lượng nhỏ , phục vụ trong cảnh sát Israel .
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Loại 56
Ba Lan - Được sử dụng bởi quân đội , nhưng thay thế bằng SKOT APC. Năm 1982 , Obywatelska Milicja (tổ chức dân quân tự vệ của Ba Lan đã nhận được 6 BTR-152V1 APC với các thiết bị đặc biệt từ Volkspolizei của Đông Đức . Một trong những chiếc xe vẫn được giữ trong lưu trữ trong lực lượng công an .
Yemen - 250
Các nhà sử dụng cũ
Bulgaria - Ngừng hoạt động trong những năm 1990 .
Đông Đức - Chuyển giao lại cho nhà nước Đức thống nhất.
Iraq - Tất cả bị phá hủy hoặc loại bỏ.
Bắc Việt Nam Tiếp tục sử dụng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam tại nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thống nhất
Romania - Loại bỏ trong những năm 1990.
Nga - Loại bỏ trong năm 1991 - 1993
Liên Xô - Thông qua tiểu bang kế thừa .
Đức - Lấy từ quân đội Cộng hòa Dân chủ Đức , tất cả được loại bỏ hoặc bán cho các quốc gia khác .
Nam Tư - 40 , ngừng hoạt động trong năm 1970.
Các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị
Palestine Tổ chức Giải phóng Palestine PLO
Lực lượng dân quân tự vệ Liban
Obywatelska Milicja Tổ chức dân quân tự vệ của Ba Lan .
Các hình ảnh của BTR-152 tại bảo tàng Yad la-Shiryon , Israel
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về BTR-152. |