Nishikori Kei
![]() Nishikori Kei tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2018 | |
Tên đầy đủ | Nishikori Kei |
---|---|
Quốc tịch | ![]() |
Nơi cư trú | Bradenton, Florida, Hoa Kỳ |
Sinh | 29 tháng 12, 1989 Matsue, Shimane, Nhật Bản |
Chiều cao | 1,78m |
Lên chuyên nghiệp | 2007 |
Tay thuận | tay phải (trái tay bằng hai tay) |
Huấn luyện viên | Dante Bottini (2010–) Michael Chang (2014–) |
Tiền thưởng | 5.441.044 $ |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 189–105 |
Số danh hiệu | 7 |
Thứ hạng cao nhất | 4 (2.3.2015) |
Thứ hạng hiện tại | 6 (25.4.2016) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | Tứ kết (2012) |
Pháp mở rộng | Vòng 4 (2013) |
Wimbledon | Vòng 4 (2014) |
Mỹ Mở rộng | Chung kết (2014) |
Các giải khác | |
Thế vận hội | Tứ kết (2012) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 17–22 |
Số danh hiệu | 0 |
Thứ hạng cao nhất | 167 (19 tháng 3 năm 2012) |
Thứ hạng hiện tại | 547 (5 tháng 1 năm 2015) |
Thành tích đánh đôi Gland Slam | |
Pháp Mở rộng | Vòng 2 (2011) |
Wimbledon | Vòng 2 (2011) |
Cập nhật lần cuối: 9 tháng 1 năm 2015. |
Nishikori Kei (錦織 圭 (Cẩm Chức Khuê)), sinh ngày 29 tháng 12 năm 1989 tại Matsue, Shimane, Nhật Bản, là 1 vận động viên quần vợt, đang xếp hạng 6 trên bảng xếp hạng ATP thế giới, tính đến ngày 23 tháng 5 năm 2016. Anh là vận động viên quần vợt người Nhật đầu tiên đạt tới vị trí này. Anh tập chơi quần vợt từ khi mới chỉ 5 tuổi và tham dự giải ATP đầu tiên là giải Countrywide Classic ở Los Angeles khi 17 tuổi.[1] Năm 2008, anh đã được bầu trở thành vận động viên quần vợt trẻ của năm.[2] Anh đã giành chức vô địch đơn nam tại 7 giải thuộc hệ thống các giải ATP World Tour, và đã vào được vòng tứ kết đơn nam giải quần vợt Úc Mở rộng 2012, chung kết đơn nam tại Mỹ Mở rộng 2014 và trở thành người châu Á đầu tiên, người Nhật Bản đầu tiên lọt vào chung kết đơn nam tại 1 giải Grand Slam.
Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]
Nishikori sinh ra ở Matsue thuộc tỉnh Shimane, Nhật Bản. Cha của anh là một kỹ sư, còn mẹ là một giáo viên piano. Anh có một người chị gái đã tốt nghiệp đại học và đang làm việc tại Tokyo.[2] Nishikori bắt đầu chơi quần vợt khi mới 5 tuổi. Năm 2001, anh đã giành chức vô địch tại tất cả các giải quần vợt dành cho trẻ em tại Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Aomori Yamada, Nishikori chuyển đến Florida để gia nhập Học viện IMG. Tại đây, ngoài thời gian chính dành cho quần vợt, anh còn tham gia các hoạt động bóng đá, golf, đọc sách và nghe nhạc.[1]
Trong tháng 12 năm 2010, có thông tin rằng Nishikori sẽ được dẫn dắt bởi huấn luyện viên Brad Gilbert trong mùa giải 2011 và Dante Bottini từ Học viện IMG.[3] Gilbert cũng đã từng là huấn luyện viên cho Andy Murray và hai tay vợt cựu số một thế giới Andre Agassi và Andy Roddick.
Kể từ tháng 1 năm 2014, Nishikori được dẫn dắt bởi tay vợt nổi tiếng khác đã từng là cựu số 2 thế giới, Michael Chang.
Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Giải trẻ[sửa | sửa mã nguồn]
Nishikori giành chức vô địch năm 2004 tại giải đấu Riad 21 tổ chức ở Rabat. Anh cũng vào đến vòng tứ kết tại Giải Pháp mở rộng 2006 dành cho tay vợt trẻ. Sau đó, anh đã tham gia đánh đôi với Emiliano Massa để giành chức vô địch ở nôi dung đôi nam tại giải đấu đó. Nishikori cũng đã giành Luxion Cup 2007 tổ chức tại Giải quần vợt Sony Ericsson Mở rộng sau khi đánh bại Michael McClune.
Ở giải trẻ, anh có thành tích 73 trận thắng - 37 trận thua ở nội dung đơn nam và 53 trận thắng - 31 trận thua ở nội dung đôi nam, từng giữ vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng thế giới ở nội dung đôi nam vào tháng 7 năm 2006.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a ă ITF Profile
- ^ a ă ATP Profile
- ^ “Kei Nishikori and world renowned tennis coach Brad Gilbert form team”. IMG Sports Academy. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2013.[liên kết hỏng]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nishikori Kei. |
- Nishikori Kei trên trang chủ ATP (tiếng Anh)
- Trang chính thức của Nishikori Kei
- Nishikori Kei trên Facebook
Giải thưởng | ||
---|---|---|
Tiền nhiệm: Jo-Wilfried Tsonga |
ATP Newcomer of the Year 2008 |
Kế nhiệm: Horacio Zeballos |