Nhật Bản là một trong những đội tuyển bóng đá thành công nhất tại châu Á, khi đã có 6 lần liên tiếp gần đây tham dự Giải bóng đá vô địch thế giới trong đó có 3 lần lọt vào vòng 2 các năm 2002 và 2010 và 2018. Họ cũng đang giữ kỷ lục vô địch Cúp bóng đá châu Á với 4 lần vào trong các năm 1992, 2000, 2004 và 2011. Đội tuyển từng giành ngôi á quân tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2001. Đội có 4 lần lên ngôi vô địch khu vực Đông Á (1992, 1995, 1998, 2013),đặc biệt là giải đấu 2013 trên đất Hàn Quốc.
Đội tuyển Nhật Bản được các cổ động viên và truyền thông nhà của họ gọi là Sakkā Nippon Daihyō (サッカー日本代表 (Soccer Nhật Bản Đại biểu),Sakkā Nippon Daihyō? Đội tuyển Bóng đá Nhật Bản), Nippon Daihyō (日本代表 (Nhật Bản Đại biểu),Nippon Daihyō? Đội tuyển Nhật Bản), hay viết tắt là Daihyō (代表 (Đại biểu),Daihyō? Đội tuyển).Dù vậy đội không hề có biệt danh chính thức riêng mà thường được gọi với tên của huấn luyện viên + "Japan". Ví dụ,dưới thời Okada Takeshi, đội được gọi là Okada Japan (岡田ジャパン,Okada Japan?).[6] Gần đây đội được biết đến nhiều hơn với biệt danh Samurai Blue (サムライ・ブルー,Samurai Burū?), trong khi đó truyền thông Nhật Bản vẫn thường gọi theo họ của huấn luyện viên + "Japan", như là "Halilhodžić Japan" (ハリルホジッチジャパン,Hariruhojitchi Japan?), hay "Halil Japan" (ハリルジャパン,Hariru Japan?) khi viết tắt.[7][8]
Đội hình dưới đây được triệu tập tham dự 2 trận giao hữu gặp Panama và México vào tháng 11 năm 2020. Số liệu thống kê tính đến ngày 17 tháng 11 năm 2020, sau trận đấu với México.
*Gồm cả các trận hòa trong vòng loại trực tiếp quyết định bằng sút luân lưu. Viền đỏ chỉ giải đấu là chủ nhà. Vàng, Bạc, Đồng lần lượt chỉ kết thúc ở vị trí thứ 1, 2 và 3. Chữ đậm chỉ thành tích tốt nhất.
Đội tuyển Nhật Bản đã lọt tới vòng chung kết World Cup bắt đầu từ năm 1998 ở tại Pháp; trong đó có 3 lần vượt qua vòng bảng ở vào các năm là năm 2002, 2010 và 2018.
Từ năm 1992, đội tuyển Olympic bao gồm tối đa 3 cầu thủ trên 23 tuổi, và những thành tích của đội này thường không được coi là một phần trong kết quả của các đội tuyển quốc gia, cũng không phải là số liệu thống kê được ghi vào kết quả thi đấu quốc tế của các cầu thủ.
Từ năm 2002, đội tuyển Olympic bao gồm tối đa 3 cầu thủ trên 23 tuổi, và những thành tích của đội này thường không được coi là một phần trong kết quả của các đội tuyển quốc gia, cũng không phải là số liệu thống kê được ghi vào kết quả thi đấu quốc tế của các cầu thủ.
^Một phương pháp phổ biến của việc tạo ra biệt danh được thực hiện bằng cách lấy họ của huấn luyện viên trưởng đương nhiệm gắn với "Nhật Bản". Đội trước đây được gọi là, "Osim Nhật Bản" (オシムジャパン,Oshimu Japan?), "Zico Nhật Bản" (ジーコジャパン,Jīko Japan?), "Troussier Nhật Bản" (トルシエジャパン,Torushie Japan?)
^ハリルジャパン、白星発進!!岡崎&本田のゴールで初陣飾る. Gekisaka (bằng tiếng Nhật) (Kodansha). 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015.
^岡崎、本田がゴール! ハリルジャパン初陣を勝利で飾る. Football Channel (bằng tiếng Nhật) (Kanzen ltd.). 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015.
1 Thành viên dự khuyết của AFC - không phải là thành viên FIFA. 2FIFA và AFC sử dụng tên gọi Hồng Kông và Ma Cao còn EAFF dùng tên gọi Hồng Kông, Trung Quốc và Ma Cao, Trung Quốc.