Philippe Troussier

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Philippe Troussier
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Philippe Bernard Victor Troussier
Philippe Omar Troussier
Ngày sinh 21 tháng 3, 1955 (68 tuổi)
Nơi sinh Paris, Pháp
Chiều cao 1,83 m
Vị trí Hậu vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
Việt Nam
(huấn luyện viên)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1974–1975 AS Choisy-le-Roi
1975–1976 RC Joinville
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1976–1977 Angoulême 22 (0)
1977–1978 Red Star 93 3 (0)
1978–1981 Rouen 79 (8)
1981–1983 Reims 38 (0)
Tổng cộng 142 (8)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
1983–1984 INF Vichy
1984–1987 US Alençon
1987–1989 Red Star 93
1989 Créteil
1989–1992 ASEC Mimosas
1993 Bờ Biển Ngà
1994 Kaizer Chiefs
1995–1997 FUS Rabat
1997 Nigeria
1997–1998 Burkina Faso
1998 Nam Phi
1997–1998 U-20 Nhật Bản
1998–2002 Nhật Bản
2003–2004 Qatar
2004–2005 Marseille
2005 Maroc
2007 AS FAR Rabat
2008–2010 Ryūkyū (giám đốc bóng đá)
2011–2013 Thâm Quyến Hồng Ngọc
2014 Sfaxien
2014–2015 Chiết Giang Lục Thành
2017–2018 Lương Giang Trùng Khánh (giám đốc kỹ thuật)
2018–2021 PVF (giám đốc kỹ thuật)
2019–2021 U-19 Việt Nam
2023– U-22/U-23 Việt Nam
2023– Việt Nam
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Nhật Bản (tư cách huấn luyện viên)
Cúp bóng đá châu Á
Vô địch 2000
Cúp Liên đoàn các châu lục
Á quân 2001
Đại diện cho Việt Nam (huấn luyện viên)
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Campuchia 2023 Đội
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia
Philippe Troussier
Chữ ký

Philippe Omar Troussier[1] (phát âm tiếng Pháp: ​[filip tʁusje], tên khai sinh: Philippe Bernard Victor Troussier; sinh ngày 21 tháng 3 năm 1955) là một cựu cầu thủ bóng đá người Pháp và hiện là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển quốc gia Việt Nam.[2]

Sau sự nghiệp thi đấu ở các hạng đấu của Pháp, Troussier chuyển sang làm công tác quản lý và bắt đầu ở các cấp độ thấp hơn của bóng đá Pháp, và việc chuyển đến câu lạc bộ ASEC Mimosas của Bờ Biển Ngà đã giúp Troussier giành được 1 số chức vô địch.[3]

Cuộc đời và sự nghiệp huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]

Troussier chuyển sang HLV sau khi có được giấy phép huấn luyện và đạt được vị trí huấn luyện đầu tiên của mình với Liên đoàn bóng đá Pháp, nơi Troussier được phép quản lý 1 câu lạc bộ bóng đá có tên là Institut national du football de Vichy hay INF Vichy. Đội được phép tham gia Championnat National và được phép miễn thăng hạng hoặc xuống hạng để các cầu thủ trẻ có thể phát triển. Trong thời gian thi đấu cho đội bóng, Troussier đã dẫn dắt họ bước vào mùa giải 1983-84, nơi đội đứng thứ 2 trong mùa giải của mình.[4] Mùa giải 1984-85 Troussier huấn luyện CS AlençonChampionnat National 2 và dành 3 mùa giải để học cách quản lý 1 câu lạc bộ bóng đá nghiệp dư.[5]

Troussier trở lại câu lạc bộ Red Star 93 trong mùa giải 1987-88 với tư cách là huấn luyện viên. Trong thời gian làm việc cho câu lạc bộ, Troussier dẫn dắt đội đứng thăng hạng lên Championnat National vào cuối mùa giải 1988-89.[6] Troussier rời câu lạc bộ vào ngày 30 tháng 6 năm 1989 để gia nhập câu lạc bộ hạng 2 Créteil với tư cách là Huấn luyện viện tạm quyền cho đến ngày 1 tháng 10 năm 1989 khi Bernard Maligorne đảm nhận vị trí Huần luyện.[7]

Huấn luyện ở châu Phi[sửa | sửa mã nguồn]

Lần đầu tiên Troussier rời khỏi Pháp bắt đầu với câu lạc bộ bóng đá hạng nhất Bờ Biển Ngà ASEC Mimosas, trong mùa giải đầu tiên của mình, Troussier đã giành chức vô địch giải đấu.[8]

Sau 1 thời gian với Kaizer Chiefs Troussier chuyển đến câu lạc bộ bóng đá Ma-rốc Fath Union Sport và dẫn dắt họ đến Coupe du Trône 1995.[9] Thời gian của Troussier với Fath Union Sport chứng kiến Troussier trải qua quá trình xuống hạng 2 với họ, Troussier đã ở lại với câu lạc bộ trong vài mùa giải cho đến khi trở lại làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Nigeria để thay thế cho Shaibu Amodu khi họ cố gắng đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 1998. Bước vào công việc giữa vòng loại, Troussier đã dẫn dắt họ vào 4 trận đấu trong suốt vòng loại khi Nigeria vượt qua vòng loại giải đấu, Liên đoàn bóng đá Nigeria đã quyết định miễn nhiệm vụ của Troussier và cuối cùng để huấn luyện viên Bora Milutinović dẫn dắt họ tham gia giải đấu do kinh nghiệm của Milutinović đã quản lý 3 quốc gia trong 1 kỳ World Cup vào thời điểm đó.[10]

Troussier tìm được 1 công việc huấn luyện 1 quốc gia châu Phi Burkina Faso, nơi Troussier được giao nhiệm vụ huấn luyện họ tại Cúp bóng đá châu Phi 1998 mà họ đang tổ chức. Họ bị Ai Cập đánh bại 2-0 ở bán kết. Burkina Faso cuối cùng đã đứng thứ 4 sau khi để thua Cộng hoà dân chủ Congo trong trận tranh hạng 3.[11]

Huấn luyện ở châu Á[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1998, Troussier thay thế Okada Takeshi để huấn luyện đội tuyển Nhật Bản và được giao nhiệm vụ cải thiện kết quả trước đó của quốc gia tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 khi họ chuẩn bị đồng tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2002. Phải sử dụng 1 phiên dịch viên, Troussier đã phải vật lộn để có được những gì mình muốn từ các cầu thủ khi họ bị loại khỏi Copa América 1999 trong vòng bảng.[12] Màn trình diễn trong giải đấu đã gây ra phản ứng từ giới truyền thông Nhật Bản, với việc Troussier áp dụng 1 cách tiếp cận "trẻ trung hơn" và nắm quyền điều hành đội U20 khi họ tham dự Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 1999 .[13] Đội tuyển Nhật Bản đã là á quân trong giải đấu. Troussier tiếp tục nắm quyền kiểm soát các đội trẻ của Nhật Bản khi dẫn dắt đội U23 tại Thế vận hội Mùa hè 2000 và dẫn dắt họ vào tứ kết.[14] Phần lớn đội này sau đó được gọi tham dự Cúp bóng đá châu Á 2000 và vô địch giải đấu.[15][16]

Vào tháng 7 năm 2003, Troussier được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của Qatar và được giao mục tiêu giành quyền tham dự Cúp bóng đá châu Á 2004 với hy vọng lặp lại thành tích đã có trước đó với Nhật Bản.[17] Qatar xếp cuối bảng. Cùng với khởi đầu ở vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, Troussier bị sa thải khỏi vị trí này.[18]

Trở lại Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 27 tháng 11 năm 2004, Troussier trở về Pháp để dẫn dắt đội bóng Ligue 1 Olympique de Marseille. Trong thời gian ở câu lạc bộ, Troussier đã nảy sinh mối quan hệ "đầy sóng gió" với những cầu thủ, trong đó có tuyển thủ Pháp Vicente Lizaras.[19]

Trở lại châu Á[sửa | sửa mã nguồn]

Troussier trở lại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2008 để quản lý câu lạc bộ hạng 3 Nhật Bản Ryukyu FC trước khi bị thay thế bởi người đồng hương Jean-Paul Labier. Troussier bỏ bóng đá, theo đạo Hồi. Vào ngày 22 tháng 2 năm 2010, Troussier trở lại Câu lạc bộ Bóng đá Thâm Quyến của Chinese Super League theo hợp đồng 3 năm.[20]

Troussier được nhiều người tin là sự thay thế hàng đầu với tư cách là huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá quốc gia Malaysia sau khi Liên đoàn bóng đá Malaysia không gia hạn hợp đồng với cựu huấn luyện viên K. Rajagopal sau khi hết hạn vào 2013. Troussier được cho là mức phí 5 năm triệu MYR trong mỗi năm với Liên đoàn bóng đá Malaysia.[21] Thoả thuận thất bại khi đối mặt với 1 số bất đồng với liên đoàn bóng đá này.[22]

Vào ngày 30 tháng 6 năm 2014, Troussier tiếp quản vị trí huấn luyện viên CS Sfaxien.[23] Vào ngày 28 tháng 9 năm 2014, Troussier rời CS Sfaxien.[24]

Năm 2018, Troussier trở thành cố vấn chiến lược và giám đốc kỹ thuật chính thức của học viện bóng đá PVF tại Việt Nam. Năm 2019, PVF bổ nhiệm Troussier trở thành huấn luyện viên trưởng của đội tuyển U19 Việt Nam.[25]

Ngày 16 tháng 2 năm 2023, Liên đoàn bóng đá Việt Nam chính thức thông báo Troussier sẽ trở thành huấn luyện viên tiếp theo của đội tuyển Việt Nam. Troussier chính thức nhận chức vào tháng 2 năm 2023, kế nhiệm Park Hang-seo dẫn dắt các đội tuyển U22, U23, Olympicđội tuyển quốc gia Việt Nam.[26] Hợp đồng dự kiến chính thức bắt đầu từ đầu tháng 3 năm 2023 và sẽ kéo dài đến hết tháng 7 năm 2026, dài tổng cộng 3 năm 5 tháng.[27] Tại SEA Games 32, đội U-22 Việt Nam trở thành cựu vương khi để thua U22 Indonesia tại bán kết với tỷ số 3-2,[28] và đạt HCĐ khi thắng Myanmar 3-1 tại trận tranh HCĐ.[29] Tại AFC Asian Cup 2023, Việt Nam dừng bước ở vòng bảng lần đầu tiên trong lịch sử sau 3 trận toàn thua trước Nhật Bản (2-4), Indonesia (0-1) và Iraq với tỷ số 2-3.[30]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Ông có tên khai sinh là Philippe Bernard Victor Troussier. Sau đó ông và vợ cải sang đạo Hồi ở Maroc, ông lấy tên theo đạo là Philippe Omar Troussier.[31]

Troussier được biết đến không chỉ trong bóng đá mà còn là một doanh nhân trong ngành rượu vang Pháp. Ông đang làm chủ thương hiệu Sol Beni thành lập từ năm 1957, có thể cho xuất xưởng 8.500 chai rượu mỗi năm. Nhờ có kinh tế ổn định, ông từng thừa nhận vấn đề tài chính chưa bao giờ là vấn đề quan trọng nhất để ông nhận lời dẫn dắt một đội bóng.[2]

Thành tích[sửa | sửa mã nguồn]

ASEC Mimosas

  • Côte d'Ivoire Premier Division: 1990, 1991, 1992

FUS Rabat

  • Coupe du Trône: 1995

Nhật Bản

U-22 Việt Nam

  • Đại hội Thể thao Đông Nam Á: Đồng Huy chương đồng (2023)

Cá nhân

  • Huấn luyện viên AFC của năm: 2000[33]
  • Đại sảnh Danh vọng Bóng đá Nhật Bản: Ra mắt vào năm 2020[34]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ October's ten – Religious conversions The Guardian, Emma John; 1 October 2006
  2. ^ a b VnExpress. “Những điều ít biết về tân HLV Philippe Troussier”. vnexpress.net. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2024.
  3. ^ “Troussier: Africa is the heart of the game”. FIFA.com. 21 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.
  4. ^ “Division 3 Gr. Centre 1984” (bằng tiếng Pháp). footballenfrance.fr. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  5. ^ “Union Sportive Alençonnaise 61” (bằng tiếng Pháp). footballenfrance.fr. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  6. ^ “Red Star Football Club 93” (bằng tiếng Pháp). footballenfrance.fr. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  7. ^ “Red Star FC » Manager history”. worldfootball.net. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  8. ^ Eric Boesenberg (4 tháng 12 năm 2014). “Ivory Coast - List of Champions”. rsssf.com. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  9. ^ Shahbaz Sabeti and Nabil Benkirane (15 tháng 6 năm 2005). “Morocco 1994/95”. rsssf.com. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  10. ^ Mark Pierson (18 tháng 12 năm 1997). “Football: Milutinovic confirmed as Nigeria coach for France 98”. independent.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
  11. ^ Barrie Courtney (5 tháng 6 năm 2005). “African Nations Cup 1998 - Final Tournament Details”. rsssf.com. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.
  12. ^ “Copa America 1999”. footballzz.co.uk. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  13. ^ Ryan Steele (26 tháng 11 năm 2012). “Top 10 Japanese foreigners: No.6 Philippe Troussier”. asianfootballfeast.com. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  14. ^ Karel Stokkermans (22 tháng 8 năm 2008). “Games of the XXVII. Olympiad”. rsssf.com. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  15. ^ “Asian Nations Cup 2000”. footballzz.co.uk. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  16. ^ “World Cup 2002”. footballzz.co.uk. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  17. ^ Tim Maitland (18 tháng 7 năm 2004). “Young Qataris get used to Troussier doctrine”. scmp.com. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  18. ^ “Qatar coach Troussier sacked”. news24.com. 20 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  19. ^ “Lizarazu ne s'entendait pas avec Troussier”. nouvelobs.com. 7 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  20. ^ “Troussier to coach Chinese super league team Shenzhen Ruby”. english.people.com.cn. 23 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  21. ^ Ajitpal Singh (14 tháng 1 năm 2014). “Troussier wants Malaysia”. New Straits Times. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2014.
  22. ^ Zulhilmi Zainal (31 tháng 1 năm 2014). “Phillippe Troussier deal falls through”. goal.com. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2014.
  23. ^ “Troussier jumps in as CS Sfaxien and Esperance meet in Tunisian derby”. thenational.ae. 24 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  24. ^ “Troussier leaves Sfaxien after Champions League defeat”. bbc.co.uk. 28 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  25. ^ VNS (10 tháng 5 năm 2018). “French football manager to help Vietnamese football enter World Cup”. Viet Nam News. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2019.
  26. ^ VFF (16 tháng 2 năm 2023). “LĐBĐVN chuẩn bị công bố tân HLV trưởng Đội tuyển quốc gia và U23 quốc gia”. Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2023.
  27. ^ Nghĩa Hưng. “HLV Troussier ký hợp đồng dẫn dắt tuyển Việt Nam”. VnExpress. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2023.
  28. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 5 năm 2023). “Thua U22 Indonesia tại bán kết, U22 Việt Nam tranh huy chương Đồng”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  29. ^ VnExpress. “Việt Nam giành HC đồng bóng đá nam SEA Games - VnExpress”. vnexpress.net. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2023.
  30. ^ News, V. T. C. (25 tháng 1 năm 2024). “Bóng đá phải có thành tích, HLV Troussier hãy thay đổi”. Báo điện tử VTC News. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2024.
  31. ^ “French Coach Troussier Reverts to Islam”. www.worldbulletin.net/ (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2023.
  32. ^ “Remembering the 2001 FIFA Confederations Cup”. the-AFC (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  33. ^ a b “Troussier: 2000 triumph an amazing memory”. the-AFC (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.
  34. ^ “Commemorative Relief awarded to Mr. Philippe TROUSSIER, inductee of the 17th selection (2020) of the Japan Football Hall of Fame”. JFA|公益財団法人日本サッカー協会 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]