Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
![]() | |||
Biệt danh | The Three Lions (Tam sư) | ||
---|---|---|---|
Hiệp hội | Hiệp hội bóng đá Anh (The Football Association (FA)) | ||
Liên đoàn châu lục | UEFA | ||
Huấn luyện viên trưởng | Gareth Southgate | ||
Đội trưởng | Harry Kane | ||
Thi đấu nhiều nhất | Peter Shilton (125) | ||
Ghi bàn nhiều nhất | Harry Kane (54) | ||
Sân nhà | Sân vận động Wembley | ||
Mã FIFA | ENG | ||
| |||
Hạng FIFA | |||
Hiện tại | 5 ![]() | ||
Cao nhất | 3 (8.2012) | ||
Thấp nhất | 27 (2.1996) | ||
Hạng Elo | |||
Hiện tại | 8 ![]() | ||
Cao nhất | 1 (1872–1876 1892–1911 1966–1970 1987–1988) | ||
Thấp nhất | 17 (11.6.1995) | ||
Trận quốc tế đầu tiên | |||
![]() ![]() (Partick, Scotland; 30 tháng 11 năm 1872) | |||
Trận thắng đậm nhất | |||
![]() ![]() (Belfast, Bắc Ireland; 31 tháng 7 năm 1882) | |||
Trận thua đậm nhất | |||
![]() ![]() (Budapest, Hungary; 23 tháng 5 năm 1954) | |||
Giải thế giới | |||
Sồ lần tham dự | 16 (Lần đầu vào năm 1950) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch (1966) | ||
Giải vô địch bóng đá châu Âu | |||
Sồ lần tham dự | 10 (Lần đầu vào năm 1968) | ||
Kết quả tốt nhất | Á quân (2020) | ||
UEFA Nations League | |||
Sồ lần tham dự | 1 (Lần đầu vào năm 2018–19) | ||
Kết quả tốt nhất | Hạng ba (2018–19) |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh (tiếng Anh: England national football team) là đội tuyển của Hiệp hội bóng đá Anh và đại diện cho Anh trên bình diện quốc tế.[3] Sân nhà của đội tuyển Anh là sân vận động Wembley, London. Trung tâm huấn luyện quốc gia của đội tuyển là St George's Park tại Burton upon Trent. Huấn luyện viên hiện tại của đội là Gareth Southgate.
Trận đấu quốc tế đầu tiên mà môn bóng đá được tổ chức thi đấu, vào năm 1872, cũng là trận đấu ra mắt của đội tuyển Anh cùng với đội tuyển Scotland.[4] Ra đời gần như sớm nhất và nghiễm nhiên được đánh giá cao, tuy nhiên đội tuyển Anh lại có bảng thành tích khiêm tốn so với nhiều đại gia của bóng đá thế giới. Đội dự Cúp thế giới từ năm 1950 và lên ngôi 1 lần duy nhất năm 1966, ngoài ra thì đứng hạng tư 2 lần. Ở cấp độ châu lục, tuyển Anh có thành tích tốt nhất là ngôi á quân vào năm 2020.
Do là một trong bốn đội tuyển bóng đá quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, đội tuyển Anh có một thời gian dài không tham dự Olympic. Đến tận Thế vận hội Mùa hè 2012 diễn ra tại Luân Đôn thì lần đầu tiên mới có một đội tuyển đại diện cho Vương quốc Anh.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh là đội bóng lâu đời trên thế giới, được thành lập cùng một lúc với đội tuyển bóng đá Scotland. Trận đấu giữa đội tuyển Anh và đội tuyển Scotland đã diễn ra vào ngày 5 tháng 3 năm 1870 được tổ chức bởi Hiệp hội bóng đá Anh (FA). Một trận đấu giao hữu được tổ chức lại bởi Đội tuyển bóng đá Scotland vào ngày 30 tháng 11 năm 1872. Trận đấu này, diễn ra tại Crescent Hamilton ở Scotland, được xem như là trận đấu bóng đá quốc tế chính thức đầu tiên.[4]
Đội tuyển bóng đá Anh gia nhập Liên đoàn bóng đá thế giới vào năm 1906 và thi đấu giao hữu với các đội bóng khắp châu Âu ngoài Vương quốc Anh vào năm 1908. Sân vận động Wembley được khai trương vào năm 1923 và trở thành sân nhà của đội. Mối quan hệ giữa FA và FIFA trở nên căng thẳng và đội bóng rời khỏi FIFA vào năm 1928, trước khi gia nhập lại vào năm 1946. Kết quả là, Anh không tham dự World Cup cho đến năm 1950.[5][6]
Vô địch World Cup 1966 & sau đó[sửa | sửa mã nguồn]

World Cup năm 1966 được tổ chức tại Anh, Alf Ramsey dẫn dắt tuyển Anh giành chiến thắng với tỷ số 4-2 trước Tây Đức sau hiệp phụ trong trận chung kết, trong đó Geoff Hurst ghi một hat-trick[7]. Tại UEFA Euro 1968, đội lần đầu tiên lọt vào bán kết nhưng bị loại bởi Nam Tư[8]. Đội tuyển Anh đủ điều kiện tham dự World Cup năm 1970 được tổ chức tại México với tư cách là nhà đương kim vô địch. Đội vào đến vòng tứ kết nhưng đã bị loại bởi Tây Đức. Anh tuy dẫn trước 2-0 nhưng cuối cùng đã bị đánh bại 3-2 sau hiệp phụ.[9]
Sau đó là thập kỷ 70 đen tối khi bóng đá Anh không vượt qua được vòng loại 2 kỳ World Cup: 1974 và 1978, cũng như 2 kỳ Euro: 1972 và 1976.[10]
Bước vào thập niên 80, đội tuyển Anh có chút khởi sắc khi lọt vào vòng chung kết Euro 1980 nhưng bị loại từ vòng bảng[11]. Tại World Cup 1982, Anh dừng bước ở vòng bảng thứ 2.[12] Đội không vượt qua vòng loại Euro 1984 trước khi dự World Cup 1986, nơi mà đội Anh đã chơi xuất sắc trước khi bị loại ở tứ kết bởi Argentina bằng 2 bàn thắng nổi tiếng của Diego Maradona mà sau này được gọi là "Bàn tay của Chúa".[13] Đội tiếp tục vượt qua vòng loại của Euro 1988, nhưng bị loại ngay ở vòng bảng với thành tích ba trận toàn thua.[14]
1990-2000[sửa | sửa mã nguồn]
Sang thập niên 90, đội tuyển Anh gây ấn tượng ở vòng chung kết World Cup 1990 khi lọt vào đến bán kết và chỉ chịu thua Tây Đức trong loạt sút luân lưu[15]. Tại giải này, đội giành hạng tư chung cuộc[16]. Anh vượt qua vòng loại Euro 1992 với thành tích bất bại, tại Euro 1992, đội cùng bảng A với Thụy Điển, Đan Mạch và Pháp, Anh xếp cuối bảng và bị loại[17]. Sau đó, đội chơi không tốt và không vượt qua vòng loại World Cup 1994.[18]
Tuyển Anh là chủ nhà của Euro 1996, họ đứng nhất bảng A sau hai chiến thắng trước Scotland và Hà Lan, cùng một trận hòa trước Thụy Sĩ. Tại tứ kết, Anh vượt qua Tây Ban Nha sau loạt đá luân lưu, trước khi dừng bước tại bán kết trước đội vô địch Đức cũng trên chấm 11 mét.[19]
Anh vượt qua vòng loại World Cup 1998, và đứng nhì bảng G sau Romania. Tại vòng 1/16, Anh để thua Argentina trong loạt sút luân lưu ở trận đấu mà David Beckham phải nhận thẻ đỏ.[20] Đội dừng bước ngay ở vòng bảng Euro 2000 khi chỉ có được 3 điểm sau trận thắng Đức, và thua 2 trận trước Bồ Đào Nha và Romania.[21]
Sven-Göran Eriksson, Steve McClaren và Fabio Capello[sửa | sửa mã nguồn]
Anh tái ngộ Argentina tại bảng F World Cup 2002. Bàn thắng duy nhất trên chấm phạt đền của David Beckham trước Argentina đã giúp Anh trả món nợ 4 năm về trước, và giúp họ đoạt ngôi nhì bảng của chính đối thủ[22]. Anh lọt vào vòng 1/16 và thắng Đan Mạch 3-0[23]. Tại tứ kết, Anh để thua đội vô địch Brazil 1-2 và dừng bước.[24]
Ở vòng bảng Euro 2004, Anh thua Pháp 1-2 ngay trận đầu ra quân, nhưng đã thắng liền hai trận trước Thụy Sĩ và Croatia để đoạt ngôi nhì bảng B (sau Pháp). Bước vào tứ kết, Anh hòa chủ nhà Bồ Đào Nha 2-2 sau 120 phút thi đấu, và để thua 5-6 trong loạt sút luân lưu với một cú sút penalty thảm họa của David Beckham.[25]

Đội nằm ở bảng B World Cup 2006 cùng các đội Thụy Điển, Paraguay và Trinidad & Tobago. Anh thắng Paraguay 1-0, thắng Trinidad & Tobago 2-0 và hòa Thụy Điển 2-2, giành vị trí nhất bảng. Anh vượt qua Ecuador 1-0 ở vòng 1/16 trước khi gặp lại Bồ Đào Nha ở tứ kết. Trong một trận đấu mà Wayne Rooney phải nhận thẻ đỏ, Anh hòa Bồ Đào Nha 0-0 trong 120 phút và thua 1-3 trên chấm luân lưu.[26]
Đội đã thi đấu không tốt tại vòng loại Euro 2008 và chỉ xếp thứ 3 tại bảng đấu sau Croatia và Nga, qua đó mất quyền dự Euro 2008 tổ chức tại Áo và Thụy Sĩ. Steve McClaren bị sa thải sau khi Anh thua 2-3 trước Croatia ngay trên sân nhà.[27]
Tại World Cup 2010, Anh vượt qua vòng bảng khi có 5 điểm[28], nhưng để thua với tỷ số 4-1 trước Đức tại vòng 16 đội, thất bại nặng nề nhất của đội bóng trong một kỳ World Cup[29]. Trận đấu có nhiều tranh cãi khi bàn thắng hợp lệ của tiền vệ Frank Lampard đã không được công nhận do trọng tài chính đã không nhìn thấy bóng lăn qua vạch vôi của khung thành.[30]
Roy Hodgson, Sam Allardyce và Gareth Southgate[sửa | sửa mã nguồn]
Vào tháng 2 năm 2012, Fabio Capello từ chức huấn luyện viên trưởng sau bất đồng với FA trong vụ việc loại bỏ đội trưởng John Terry sau cáo buộc phân biệt chủng tộc nhắm lên cầu thủ này.[31] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2012, Roy Hodgson được công bố làm huấn luyện viên mới, chỉ 6 tuần trước khi Euro 2012 khởi tranh.[32] Đội tuyển Anh vượt qua vòng bảng nhưng để thua trong loạt sút luân lưu trước Ý.[33]

Tại World Cup 2014, Anh thất bại hai trận liên tiếp trước Ý và Uruguay cùng với tỷ số 2-1[34][35]. Đây là lần đầu tiên Anh thất bại hai trận đầu tiên kể từ World Cup 1950 (khi đó Anh thất bại khi đối đầu với Mỹ và Tây Ban Nha).[36] và lần đầu tiên Anh bị loại ở vòng bảng kể từ World Cup 1958.[37]
Tại Euro 2016, Anh cùng bảng với Nga, Wales và Slovakia, kết thúc vòng bảng Anh đứng nhì với 5 điểm, kém xứ Wales 1 điểm[38], lọt vào vòng 16 đội nhưng thất bại 2-1 chung cuộc trước Iceland[39]. Sau Euro 2016, huấn luyện viên Roy Hodgson quyết định từ chức.[40] Sam Allardyce được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng sau đó 1 tháng[41], nhưng từ chức sau 1 trận và 67 ngày do bê bối bị cánh báo chí quay được cảnh ông bí mật cung cấp lời khuyên lách luật chuyển nhượng cho các doanh nhân và nhận khoản tiền 400.000 bảng[42].Gareth Southgate, khi đó là huấn luyện viên U-21 Anh làm huấn luyện viên tạm quyền cho đến tháng 11[43], sau đó trở thành nhà cầm quân chính thức[44]. Ông giúp Anh dễ dàng vượt qua vòng loại World Cup 2018 với thành tích bất bại.[45]

Tại World Cup 2018, Anh đứng nhì bảng G khi xếp sau Bỉ[46]. Tại vòng 16 đội, Anh hòa Colombia 1-1 & thắng 4-3 ở loạt sút luân lưu 11m[47], Anh thắng Thụy Điển 2-0 tại tứ kết, qua đó lọt vào bán kết sau 28 năm[48], nơi họ để thua Croatia 1-2 trong hiệp phụ[49]. Sau đó trong trận tranh hạng 3, họ thua Bỉ 0-2 và giành hạng 4 chung cuộc.[50] Tiền đạo Harry Kane đạt giải vua phá lưới với 6 bàn thắng[51].
Tại UEFA Nations League 2018–19, Anh thi đấu thành công và lọt vào bán kết lần đầu tiên, sau đó giành vị trí thứ 3 chung cuộc sau chiến thắng 6-5 trước Thụy Sĩ ở loạt đá luân lưu 11m sau khi hai đội hòa không bàn thắng trong suốt 120 phút thi đấu chính thức.[52]
Vào ngày 14 tháng 11 năm 2019, Anh đã chơi trận đấu Quốc tế thứ 1000 khi đánh bại Montenegro 7–0 tại Wembley tại vòng loại UEFA Euro 2020.[53]
Tại Euro 2020, Anh nằm cùng bảng D cùng Croatia, Scotland và Cộng hòa Séc. Anh kết thúc vòng bảng với 7 điểm sau 3 trận vòng bảng, thắng 1–0 trước Croatia và Séc, hòa 0–0 với Scotland[54]. Tại vòng 16 đội Anh hạ Đức 2-0[55], thắng Ukraine 4-0 tại tứ kết[56] & Đan Mạch 2-1 để có lần đầu tiên lọt vào trận chung kết[57], và chỉ chịu thất thủ trước Ý ở loạt sút luân lưu 11m sau khi hai đội hòa nhau 1-1, trong đó Marcus Rashford, Jadon Sancho và Bukayo Saka đều đá hỏng quả 11m quyết định, qua đó giành vị trí á quân.[58]
Tại UEFA Nations League 2022–23, Anh đã để Hungary đánh bại 4–0 một cách thuyết phục, trận thua đậm nhất trên sân nhà kể từ năm 1928[59]. Vào ngày 23 tháng 9 năm 2022, Anh để thua Ý tỷ số 1–0 tại San Siro, qua đó khiến đội phải xuống hạng B trong mùa giải 2024–25[60].
Tại World Cup 2022, Anh cùng bảng B với Iran, Hoa Kỳ và Wales; Anh đánh bại Iran 6-2[61], hòa Mỹ 0-0[62] và thắng Wales 3-0 để đứng đầu bảng với 7 điểm sau 3 trận vòng bảng[63]. Sau đó, Anh đã đánh bại Sénégal ở vòng 16 đội với tỷ số 3-0[64], nhưng dừng bước tại tứ kết trước đương kim vô địch Pháp với tỷ số 1-2[65]. Trong bối cảnh đó, Gareth Southgate bất ngờ nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của FA khi để ông tiếp tục dẫn dắt tuyển Anh đến hết tháng 12/2024, hoặc ít nhất đến hết Euro 2024[66].
Logo và áo thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
Logo của Đội tuyển Anh cũng chính là logo của Hiệp hội Bóng đá Anh, với hình chiếc khiên trắng chứa ba con sư tử màu xanh đậm, được cách điệu từ huy hiệu Hoàng gia Vương quốc Anh (Kingdom of England) và sau này là một phần trong Quốc huy của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Từ logo đó, Đội tuyển cũng được gọi với biệt danh là "Tam Sư".[67][68]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh. |
Màu áo sân nhà truyền thống của Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh là áo sơ mi trắng, quần ngắn màu xanh dương, tất màu trắng hoặc màu đen. Nhà tài trợ áo đấu đầu tiên là Umbro vào năm 1954. Các trường hợp ngoại lệ là giai đoạn 1959-1965 được tài trợ áo đấu bởi Bukta và giai đoạn 1974-1984 được tài trợ áo đấu bởi Admiral. Từ năm 2013 đến nay, trang phục được tài trợ bởi hãng Nike.[69]
Nhà sản xuất áo đấu | Giai đoạn |
---|---|
![]() |
1949–1954 |
![]() |
1954–1961 |
![]() |
1959–1965 |
![]() |
1965-1974 |
![]() |
1974–1984 |
![]() |
1984–2013 |
![]() |
2013–nay |
Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
- Vô địch: 1966
- Á quân: 2020
- Hạng ba: UEFA Nations League 2018–19
Sân vận động[sửa | sửa mã nguồn]

Trong 50 năm đầu tiên tồn tại đội tuyển chơi các trận sân nhà của họ trên khắp nước Anh. Ban đầu đội sử dụng các sân cricket rồi mới sử dụng các sân của các câu lạc bộ bóng đá. Sân vận động Empire hay sau này là Sân vận động Wembley được xây tại Wembley, Luân Đôn để phục vụ cho Triển lãm Đế quốc Anh.
Anh thi đấu trận đấu đầu tiên tại sân vận động này vào năm 1924 với đội tuyển Scotland và trong khoảng 27 năm tiếp theo, sân Wembley được sử dụng chỉ để thi đấu giao hữu với Scotland. Sân vận động Wembley trở thành sân nhà của anh trong những năm 1950. Sân đóng cửa vào năm 2000 và bắt đầu xây dựng lại. Trong thời gian sau đó, đặc biệt là vòng loại World Cup 2006, đội tuyển Anh thi đấu tại các sân trung lập tại các địa điểm khác nhau trên khắp đất nước. Phần lớn các trận thi đấu diễn ra tại Old Trafford của Manchester Untied và một số trận tại St. James' Park của Newcastle United khi Old Trafford không thể đáp ứng. Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh trở lại thi đấu tại Sân vận động Wembley mới vào năm 2007.
Trận đấu đầu tiên của họ trên sân vận động Wembley mới là vào tháng 3 năm 2007 khi họ hòa với Brazil. Sân vận động hiện thuộc sở hữu của FA, thông qua công ty con Wembley National Stadium Limited.
Ban huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]
- Tính đến 25 tháng 5 2021
Chức vụ | Tên |
---|---|
Huấn luyện viên trưởng | ![]() |
Trợ lý huấn luyện viên | ![]() |
Huấn luyện viên thủ môn | ![]() |
Huấn luyện viên đội 1 | ![]() |
![]() | |
Bác sĩ Đội 1 | ![]() |
Huấn luyện viên thể lực | ![]() |
Bác sĩ vật lý trị liệu | ![]() |
Lịch thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
2023[sửa | sửa mã nguồn]
23 tháng 3 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Ý ![]() |
v | ![]() |
Napoli, Ý |
---|---|---|---|---|
20:45 CET (UTC+1) | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Diego Armando Maradona |
26 tháng 3 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Anh ![]() |
v | ![]() |
London, Anh |
---|---|---|---|---|
17:00 BST | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Wembley |
16 tháng 6 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Malta ![]() |
v | ![]() |
Ta' Qali, Malta |
---|---|---|---|---|
20:45 CEST (UTC+2) | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động quốc gia, Ta' Qali |
19 tháng 6 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Anh ![]() |
v | ![]() |
Manchester, Anh |
---|---|---|---|---|
19:45 BST | Chi tiết | Sân vận động: Old Trafford |
9 tháng 9 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Ukraina ![]() |
v | ![]() |
CXĐ |
---|---|---|---|---|
17:00 BST | Chi tiết | Sân vận động: CXĐ |
17 tháng 10 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Anh ![]() |
v | ![]() |
London, Anh |
---|---|---|---|---|
19:45 BST | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Wembley |
17 tháng 11 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Anh ![]() |
v | ![]() |
London, Anh |
---|---|---|---|---|
19:45 BST | Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Wembley |
20 tháng 11 năm 2023 Vòng loại Euro 2024 | Bắc Macedonia ![]() |
v | ![]() |
Skopje, Bắc Macedonia |
---|---|---|---|---|
20:45 CEST (UTC+2) | Chi tiết | Sân vận động: Toše Proeski Arena |
Cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]
Đội hình hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]
Đây là đội hình đã hoàn thành FIFA World Cup 2022.
Số liệu thống kê tính đến ngày 10 tháng 12 năm 2022 sau trận gặp Pháp.
Số | VT | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Trận | Bàn | Câu lạc bộ |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | TM | Jordan Pickford | 7 tháng 3, 1994 | 50 | 0 | ![]() |
13 | TM | Nick Pope | 19 tháng 4, 1992 | 10 | 0 | ![]() |
23 | TM | Aaron Ramsdale | 14 tháng 5, 1998 | 3 | 0 | ![]() |
2 | HV | Kyle Walker | 28 tháng 5, 1990 | 73 | 0 | ![]() |
3 | HV | Luke Shaw | 12 tháng 7, 1995 | 28 | 3 | ![]() |
5 | HV | John Stones | 28 tháng 5, 1994 | 64 | 3 | ![]() |
6 | HV | Harry Maguire | 5 tháng 3, 1993 | 53 | 7 | ![]() |
12 | HV | Kieran Trippier | 19 tháng 9, 1990 | 40 | 1 | ![]() |
15 | HV | Eric Dier | 15 tháng 1, 1994 | 49 | 3 | ![]() |
16 | HV | Conor Coady | 25 tháng 2, 1993 | 10 | 1 | ![]() |
18 | HV | Trent Alexander-Arnold | 7 tháng 10, 1998 | 18 | 1 | ![]() |
4 | TV | Declan Rice | 14 tháng 1, 1999 | 39 | 2 | ![]() |
8 | TV | Jordan Henderson (đội phó) | 17 tháng 6, 1990 | 74 | 3 | ![]() |
14 | TV | Kalvin Phillips | 2 tháng 12, 1995 | 25 | 0 | ![]() |
19 | TV | Mason Mount | 10 tháng 1, 1999 | 36 | 5 | ![]() |
22 | TV | Jude Bellingham | 29 tháng 6, 2003 | 22 | 1 | ![]() |
26 | TV | Conor Gallagher | 6 tháng 2, 2000 | 4 | 0 | ![]() |
7 | TĐ | Jack Grealish | 10 tháng 9, 1995 | 29 | 2 | ![]() |
9 | TĐ | Harry Kane (đội trưởng) | 28 tháng 7, 1993 | 80 | 53 | ![]() |
10 | TĐ | Raheem Sterling | 8 tháng 12, 1994 | 82 | 20 | ![]() |
11 | TĐ | Marcus Rashford | 31 tháng 10, 1997 | 51 | 15 | ![]() |
17 | TĐ | Bukayo Saka | 5 tháng 9, 2001 | 24 | 7 | ![]() |
20 | TĐ | Phil Foden | 28 tháng 5, 2000 | 22 | 3 | ![]() |
24 | TĐ | Callum Wilson | 27 tháng 2, 1992 | 6 | 1 | ![]() |
25 | TĐ | James Maddison | 23 tháng 11, 1996 | 1 | 0 | ![]() |
Triệu tập gần đây[sửa | sửa mã nguồn]
Vt | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Số trận | Bt | Câu lạc bộ | Lần cuối triệu tập |
---|---|---|---|---|---|---|
TM | Dean Henderson | 12 tháng 3, 1997 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TM | Fraser Forster | 17 tháng 3, 1988 | 6 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TM | Sam Johnstone | 25 tháng 3, 1993 | 3 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Ben Chilwell | 21 tháng 12, 1996 | 17 | 1 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Reece James | 8 tháng 12, 1999 | 15 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Fikayo Tomori | 19 tháng 12, 1997 | 3 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Marc Guéhi | 13 tháng 7, 2000 | 3 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | James Justin | 23 tháng 2, 1998 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Tyrone Mings | 13 tháng 3, 1993 | 17 | 2 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Tyrick Mitchell | 1 tháng 9, 1999 | 2 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Kyle Walker-Peters | 13 tháng 4, 1997 | 2 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | James Ward-Prowse | 1 tháng 11, 1994 | 11 | 2 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Emile Smith Rowe | 28 tháng 7, 2000 | 3 | 1 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Tammy Abraham | 2 tháng 10, 1997 | 11 | 3 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Jarrod Bowen | 20 tháng 12, 1996 | 4 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Ivan Toney | 16 tháng 3, 1996 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Ollie Watkins | 30 tháng 12, 1995 | 7 | 2 | ![]() |
v. ![]() |
Chú thích:
- RET = Cầu thủ đã giã từ đội tuyển quốc gia
- INJ = Cầu thủ rút lui vì chấn thương
Kỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]
Cập nhật ngày 23 tháng 3 năm 2023.
Các cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Những cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.

# | Tên | Sự nghiệp | Số trận | Số bàn thắng |
---|---|---|---|---|
1 | Peter Shilton | 1970–1990 | 125 | 0 |
2 | Wayne Rooney | 2003–2018 | 120 | 53 |
3 | David Beckham | 1996–2009 | 115 | 17 |
4 | Steven Gerrard | 2000–2014 | 114 | 21 |
5 | Bobby Moore | 1962–1973 | 108 | 2 |
6 | Ashley Cole | 2001–2014 | 107 | 0 |
7 | Bobby Charlton | 1958–1970 | 106 | 49 |
Frank Lampard | 1999–2014 | 106 | 29 | |
9 | Billy Wright | 1946–1959 | 105 | 3 |
10 | Bryan Robson | 1980–1991 | 90 | 26 |
Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

# | Tên | Sự nghiệp | Số bàn thắng | Số trận | Trung bình |
---|---|---|---|---|---|
1 | Harry Kane | 2015– | 54 | 81 | 0.67 |
2 | Wayne Rooney | 2003–2017 | 53 | 120 | 0.4417 |
3 | Bobby Charlton | 1958–1970 | 49 | 106 | 0.4623 |
4 | Gary Lineker | 1984–1992 | 48 | 80 | 0.6000 |
5 | Jimmy Greaves | 1959–1967 | 44 | 57 | 0.7719 |
6 | Michael Owen | 1998–2008 | 40 | 89 | 0.4494 |
7 | Nat Lofthouse | 1950–1958 | 30 | 33 | 0.9090 |
Alan Shearer | 1992–2000 | 30 | 63 | 0.4762 | |
Tom Finney | 1946–1958 | 30 | 76 | 0.3947 | |
10 | Vivian Woodward | 1903–1911 | 29 | 23 | 1.2609 |
Frank Lampard | 1999–2014 | 29 | 106 | 0.2735 |
Thành tích quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
Giải vô địch bóng đá thế giới (World Cup)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Kết quả | St | T | H [77] | B | Bt | Bb | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1930 | Không tham dự do Anh chưa phải thành viên của FIFA | |||||||
1934 | ||||||||
1938 | ||||||||
![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 0 | 2 | 2 | r2 | |
![]() |
Tứ kết | 3 | 1 | 1 | 1 | 8 | 8 | |
![]() |
Vòng 1 | 4 | 0 | 3 | 1 | 4 | 5 | |
![]() |
Tứ kết | 4 | 1 | 1 | 2 | 5 | 6 | |
![]() |
Vô địch | 6 | 5 | 1 | 0 | 11 | 3 | |
![]() |
Tứ kết | 4 | 2 | 0 | 2 | 4 | 4 | |
1974 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
1978 | ||||||||
![]() |
Vòng 2 | 5 | 3 | 2 | 0 | 6 | 1 | |
![]() |
Tứ kết | 5 | 2 | 1 | 2 | 7 | 3 | |
![]() |
Hạng tư | 7 | 3 | 3 | 1 | 8 | 6 | |
1994 | Không vượt qua vòng loại | |||||||
![]() |
Vòng 2 | 4 | 2 | 1 | 1 | 7 | 4 | |
![]() ![]() |
Tứ kết | 5 | 2 | 2 | 1 | 6 | 3 | |
![]() |
5 | 3 | 2 | 0 | 6 | 2 | ||
![]() |
Vòng 2 | 4 | 1 | 2 | 1 | 3 | 5 | |
![]() |
Vòng 1 | 3 | 0 | 1 | 2 | 2 | 4 | |
![]() |
Hạng tư | 7 | 3 | 1 | 3 | 12 | 8 | |
![]() |
Tứ kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 13 | 4 | |
![]() ![]() ![]() |
Chưa xác định | |||||||
Tổng cộng | 16/22 1 lần: Vô địch |
74 | 32 | 22 | 20 | 104 | 68 |
Giải vô địch châu Âu (Euro)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Kết quả | St | T | H [77] | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1960 | Không tham dự | ||||||
1964 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
![]() |
Hạng ba | 2 | 1 | 0 | 1 | 2 | 1 |
1972 đến 1976 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 1 | 1 | 3 | 3 |
1984 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
![]() |
Vòng 1 | 3 | 0 | 0 | 3 | 2 | 7 |
![]() |
3 | 0 | 2 | 1 | 1 | 2 | |
![]() |
Bán kết | 5 | 2 | 3 | 0 | 8 | 3 |
![]() ![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 0 | 2 | 5 | 6 |
![]() |
Tứ kết | 4 | 2 | 1 | 1 | 10 | 6 |
2008 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
![]() ![]() |
Tứ kết | 4 | 2 | 2 | 0 | 5 | 3 |
![]() |
Vòng 2 | 4 | 1 | 2 | 1 | 4 | 4 |
![]() |
Á quân | 7 | 5 | 2 | 0 | 11 | 2 |
![]() |
Chưa xác định | ||||||
Tổng cộng | 10/16 1 lần á quân |
38 | 15 | 13 | 10 | 51 | 37 |
Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu (UEFA Nations League)[sửa | sửa mã nguồn]
Thành tích tại UEFA Nations League | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Mùa giải | Hạng đấu | Bảng | Pld | W | D* | L | GF | GA | Thứ hạng | ||
![]() |
A | 4 | 4 | 2 | 1 | 1 | 6 | 5 | 3rd | ||
2020–21 | A | 2 | 6 | 3 | 1 | 2 | 7 | 4 | 9th | ||
2022–23 | A | 3 | 6 | 0 | 3 | 3 | 4 | 10 | 15th | ||
Tổng cộng | 16 | 5 | 5 | 6 | 17 | 19 | 3rd |
Huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]
- Số liệu tính đến ngày 27 tháng 9 năm 2016.
TT | Huấn luyện viên | Thời gian huấn luyện |
Số trận | Thắng | Hòa | Thua | Tỷ lệ thắng (%) |
Danh hiệu |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | ![]() |
1946–1962 | 139 | 78 | 33 | 28 | 56,12 | |
2 | ![]() |
1963–1974 | 113 | 69 | 27 | 17 | 61,06 | Vô địch World Cup 1966, hạng 3 Euro 1968 |
3 | ![]() |
1974 | 7 | 3 | 3 | 1 | 42,85 | |
4 | ![]() |
1974–1977 | 29 | 14 | 8 | 7 | 48,27 | |
5 | ![]() |
1977–1982 | 55 | 33 | 12 | 10 | 59,99 | |
6 | ![]() |
1982–1990 | 95 | 47 | 30 | 18 | 49,47 | |
7 | ![]() |
1990–1993 | 38 | 18 | 13 | 7 | 47,36 | |
8 | ![]() |
1994–1996 | 23 | 11 | 11 | 1 | 47,82 | |
9 | ![]() |
1996–1999 | 28 | 17 | 6 | 5 | 60,71 | |
10 | ![]() |
1999 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0,00 | |
11 | ![]() |
1999–2000 | 18 | 7 | 7 | 4 | 38,88 | |
12 | ![]() |
2000 | 1 | 0 | 1 | 0 | 0,00 | |
13 | ![]() |
2000 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0,00 | |
14 | ![]() |
2001–2006 | 67 | 40 | 17 | 10 | 59,71 | |
15 | ![]() |
2006–2007 | 18 | 9 | 4 | 5 | 50,0 | |
16 | ![]() |
2008–2012 | 42 | 28 | 8 | 6 | 66,67 | |
17 | ![]() |
2012–2016 | 56 | 33 | 15 | 8 | 58,93 | |
18 | ![]() |
2016 | 1 | 1 | 0 | 0 | 100,00 | |
19 | ![]() |
2016– | 4 | 2 | 2 | 0 | 50,00 | Hạng 3 UEFA Nations League 2018–19, á quân Euro 2020 |
1: Huấn luyện viên tạm quyền
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 22 tháng 12 năm 2022. Truy cập 22 tháng 12 năm 2022.
- ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập 30 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Written evidence submitted by Lord Triesman”. Parliament.uk. tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2014.
- ^ a b “England Match No. 1 – Scotland – ngày 30 tháng 11 năm 1872 – Match Summary and Report”. englandfootballonline.com. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
- ^ Hart, Tim (ngày 12 tháng 6 năm 2010). “England v USA: 1950 World Cup win over the Three Lions lives long in the memory”. The Daily Telegraph. London.
- ^ Goodbody, John (ngày 22 tháng 11 năm 2003). “Football's November revolution: Magnificent Magyars storm England's Wembley fortress”. The Times. London. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.
- ^ Trí, Dân. “Lịch sử World Cup 1966: "Bàn thắng ma" giúp Anh lên ngôi vô địch”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Remembering England's forgotten semi-final”. The Independent (bằng tiếng Anh). 7 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Burnton, Simon (25 tháng 5 năm 2018). “World Cup stunning moments: Gordon Banks is stricken”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Pye, Steven (9 tháng 10 năm 2020). “When England fans ruined their match against Belgium 40 years ago”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ published, Daniel Ruiz (14 tháng 6 năm 2016). “Squad rotation, tear gas and a bucketload of medals: How England flopped at Euro 80”. fourfourtwo.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Football: England at the World Cup: 1982 Spain - A flying start but a frustrating finish”. The Independent (bằng tiếng Anh). 4 tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VnExpress. “Maradona và kỳ quan 'Bàn tay của Chúa' - VnExpress Thể thao”. vnexpress.net. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Smyth, Rob (9 tháng 6 năm 2008). “On Second Thoughts: England at Euro 88”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Hattenstone, Simon (12 tháng 11 năm 2022). “Don't mention the penalties! England's 1990 team look back at the World Cup match that changed everything”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ VnExpress. “Vì sao Italia 90 sống mãi trong ký ức về World Cup”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ Aarons, Ed (6 tháng 7 năm 2018). “'Brolin-Dahlin-Brolin!' – when Sweden knocked England out of Euro 92”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ “5 great teams who failed to qualify for the World Cup”. Eurosport (bằng tiếng Anh). 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Trí, Dân. “Lịch sử Euro 1996: Bierhoff giúp Đức hoàn tất hattrick vô địch châu Âu”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ thanhnien.vn (7 tháng 6 năm 2018). “[KÝ ỨC WORLD CUP] Thẻ đỏ nghiệt ngã không khuất phục nổi Beckham”. thanhnien.vn. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Trí, Dân. “Lịch sử Euro 2000: Pháp lên ngôi sau trận chung kết kinh điển với Italia”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Murray, Scott (7 tháng 6 năm 2002). “England 1 - 0 Argentina”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “BBC SPORT | WORLD CUP | Denmark v England | England brush Danes aside”. news.bbc.co.uk. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Murray, Scott (21 tháng 6 năm 2002). “England 1 - 2 Brazil”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Ingle, Sean (24 tháng 6 năm 2004). “Portugal 2 - 2 England (Portugal win 6-5 on penalties)”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Staff, Guardian (1 tháng 7 năm 2006). “England pay penalty for Rooney's red”. the Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ NLD.COM.VN (22 tháng 11 năm 2007). “Anh bị loại khỏi EURO 2008, McClaren bị sa thải!”. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Owen Gibson (ngày 21 tháng 6 năm 2010). “Rifts appear as players grow tired of Capello regime”. The Guardian. London. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Đức - Anh 4-1: "Tam Sư" đại bại trước người Đức”. thethaovanhoa.vn. 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “England v Germany: Frank Lampard denied goal by Uruguayan linesman – in pictures”. The Daily Telegraph. London. ngày 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
- ^ “Fabio Capello quits as England manager after meeting with FA”. BBC. ngày 8 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
- ^ “BBC Sport – Roy Hodgson appointed England manager by FA”. BBC. ngày 1 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2012.
- ^ McNulty, Phil (ngày 24 tháng 6 năm 2012). “England 0-0 Italy (2-4 on pens)”. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (15 tháng 6 năm 2014). “Anh 1-2 Italy: Tam Sư vướng 'đá tảng', bảng 'tử thần' hứa hẹn hấp dẫn”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2022.
- ^ VnExpress. “Uruguay 2-1 Anh: Suarez dồn 'Tam Sư' vào cửa tử”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “World Cup 2014: England crash out after Costa Rica surprise Italy”. The Guardian. Guardian News and Media Limited. ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
- ^ “England 0 Costa Rica 0: Winless Three Lions bow out of Brazil 2014 with a whimper”. Daily Record. ngày 24 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Wales and England into knockout stages”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Thua ngược Iceland 1-2, Anh chia tay Euro 2016”. ZingNews.vn. 28 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Roy Hodgson quits as England manager after humiliating defeat by Iceland”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 28 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Sam Allardyce appointed England manager and says: 'It's time to deliver'”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 22 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Sam Allardyce từ chức HLV trưởng đội tuyển Anh sau một trận và 67 ngày”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Southgate wants job call within a month”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Association, The Football. “Former defender signs four-year deal to lead Three Lions”. www.thefa.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Flanagan, Aaron (5 tháng 10 năm 2017). “England qualify for World Cup 2018 finals in Russia”. mirror (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Murray, Scott (28 tháng 6 năm 2018). “World Cup 2018: England 0-1 Belgium – as it happened”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Anh - Colombia 1-1: Thắng 4-3 loạt penalty, Anh nghẹt thở vào tứ kết”. Tuổi Trẻ Online. 4 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Thắng nhàn Thụy Điển, ĐT Anh vào bán kết World Cup sau 28 năm”. VOV.VN. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Tỉ số trận Anh - Croatia 1-2: Thi đấu quật cường, Croatia hạ Anh ở bán kết World Cup 2018”. Tuổi Trẻ Online. 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Hạ đẹp Anh, Bỉ giành hạng ba World Cup 2018”. VOV.VN. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Sport, Telegraph (16 tháng 7 năm 2018). “World Cup 2018 golden boot final standings: Harry Kane wins after finishing as top scorer”. The Telegraph (bằng tiếng Anh). ISSN 0307-1235. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Thắng Thụy Sĩ bằng đá luân lưu, ĐT Anh xếp hạng ba Nations League”. VOV.VN. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “England celebrate 1,000th game with seven-goal charge into Euro 2020 finals”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ sport, Guardian (10 tháng 7 năm 2021). “90 minutes from glory: England's road to the final in pictures”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Anh tiễn Đức khỏi Euro 2021 - VnExpress”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Anh thắng Ukraine 4-0 ở tứ kết Euro”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Đánh bại Đan Mạch, Anh lần đầu vào chung kết Euro”. Tuổi Trẻ Online. 8 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Italy vô địch Euro 2021 - VnExpress”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Online, TTVH. “Anh thua sốc Hungary 0-4: Nỗi nhục thế kỷ của tuyển Anh”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Italy đẩy Anh xuống hạng tại Nations League”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Anh thắng Iran 6-2 ở trận ra quân World Cup - VnExpress”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Anh hụt vé sớm ở vòng bảng World Cup 2022 - VnExpress”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Rashford giúp Anh đè bẹp Xứ Wales - VnExpress”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Đánh bại Senegal, Anh vào tứ kết World Cup 2022 gặp Pháp”. Tuổi Trẻ Online. 5 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ Trí, Dân. “Đánh bại đội tuyển Anh, Pháp vào bán kết World Cup 2022 gặp Morocco”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Gareth Southgate chốt tương lai ở tuyển Anh”. Báo điện tử Tiền Phong. 18 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2023.
- ^ “England 1872–1960”. Historical Football Kits. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2016.
- ^ “How The FA found inspiration from the 1100s for its iconic Crest”. UTalk Marketing. 12 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2016.
- ^ “England's Uniforms and Playing Kits”. EnglandFootballOnline.com. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2014.
- ^ “England's Home Uniform 1949 to 1954”. England Football Online. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2020.
- ^ “England Player Kits”. England Football Online. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2020.
- ^ “Chris Powell joins England coaching team as part of BAME programme”. BBC Sport. 2 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
- ^ Nevin rejoins England staff England. Retrieved 6 September 2021
- ^ “Mark Williams”. Linkedin. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Bryce Cavanagh appointed”. The FA. 4 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Steve is England's World Cup physio”. Crewe Chronicle. 13 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
- ^ a b Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh. |