Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Brasil
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội
Biệt danhSeleção
Hiệp hộiLiên đoàn bóng đá Brasil
(Confederação Brasileira de Futebol)
Huấn luyện viên trưởngFernando Diniz (tạm quyền)
Đội trưởngCasemiro
Thi đấu nhiều nhấtCafu (142)
Ghi bàn nhiều nhấtNeymar (79)
Mã FIFABRA
Áo màu chính
Áo màu phụ
Hạng FIFA
Hiện tại 3 Giữ nguyên (20 tháng 7 năm 2023)[1]
Cao nhất1 (9.1993 31.3.2022-5.4.2023[2])
Thấp nhất22 (6.2013)
Hạng Elo
Hiện tại 1 Giữ nguyên (30 tháng 11 năm 2022)[3]
Cao nhất1 (15.6.1958)
Thấp nhất18 (11.2001)
Trận quốc tế đầu tiên
 Argentina 3–0 Brasil 
(Buenos Aires, Argentina; 20 tháng 9 năm 1914)[4]
Trận thắng đậm nhất
 Brasil 14–0 Nicaragua 
(México; 17 tháng 10 năm 1975)[5]
 Brasil 10–1 Bolivia 
(São Paulo, Brazil; 10 tháng 4 năm 1949)[6]
 Brasil 9–0 Colombia 
(Lima, Peru; 24 tháng 3 năm 1957)
Trận thua đậm nhất
 Uruguay 6–0 Brasil 
(Viña del Mar, Chile; 18 tháng 9 năm 1920)
 Brasil 1–7 Đức 
(Belo Horizonte, Brasil; 8 tháng 7 năm 2014)
Giải thế giới
Sồ lần tham dự22 (Lần đầu vào năm 1930)
Kết quả tốt nhấtVô địch: 1958, 1962, 1970,
1994, 2002
Copa América
Sồ lần tham dự36 (Lần đầu vào năm 1916)
Kết quả tốt nhấtVô địch: 1919, 1922, 1949,
1989, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019
Cúp Liên đoàn các châu lục
Sồ lần tham dự7 (Lần đầu vào năm 1997)
Kết quả tốt nhấtVô địch: 1997, 2005, 2009, 2013
Thành tích huy chương Thế vận hội
Bóng đá nam
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Los Angeles 1984 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Seoul 1988 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Atlanta 1996 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Bắc Kinh 2008 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Luân Đôn 2012 Đồng đội
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Brasil 2016 Đồng đội

Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Seleção Brasileira de Futebol, SBF) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil tham dự đấu trường quốc tế. Brazil là thành viên của FIFA từ năm 1923 và là thành viên của CONMEBOL từ năm 1916. Brazil là đội tuyển bóng đá thành công nhất trên thế giới với năm lần giành vị trí số một giải vô địch bóng đá thế giới của FIFA, với lần gần nhất là vào năm 2002. Có một câu nói vui phổ biến trong bóng đá là "Người Anh sáng tạo ra môn bóng đá, và người Brasil đã hoàn thiện nó".[7]

Trong hệ thống xếp hạng của FIFA, Brasil giữ kỷ lục về số trận thắng trong bảng xếp hạng của FIFA World Rankings với 12 trận thắng[8]

Biệt danh[sửa | sửa mã nguồn]

Do tầm ảnh hưởng cao của mình, đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil được biết đến với rất nhiều biệt danh. Một vài trong số đó là:

Tiếng Bồ Đào Nha Tiếng Việt
Seleção Đội tuyển
Seleção Brasileira Đội tuyển Brasil
Canarinho Tiểu kim tước
Verde-Amarela Vàng - Xanh
Esquadrão de Ouro Phi đội Vàng
Pentacampeões Nhà vô địch năm kỳ

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Brasil là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kì World Cup và là quốc gia đầu tiên vô địch 5 lần (1958, 1962, 1970, 1994 và 2002). Với kết quả đó, người Brasil thường gọi đội tuyển quốc gia của họ là "Pentacampeão", có nghĩa là "5 lần vô địch" trong tiếng Bồ Đào Nha. Khi tính thêm 2 lần hạng nhì (1950 và 1998) và 2 lần hạng ba (1938 và 1978) tại World Cup, cũng như nhiều thành công khác, Brasil được xem là đội tuyển thành công nhất thế giới bóng đá.

Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển quốc gia của Brasil được thành lập vào năm 1914 và đã đấu trận đầu tiên là trận giao hữu với Exeter City F.C. ngay trong năm đó, thắng 2–0. Không như những chiến thắng trong tương lai, các lần thi đấu ban đầu của đội tuyển không có gì ngoạn mục, một phần vì các hiềm khích bên trong về vấn đề dùng các cầu thủ nhà nghề làm cho Liên đoàn bóng đá Brasil không thể có một đội tuyển hoàn hảo.

Đặc biệt nhất là sự bất đồng ý kiến giữa hai hiệp hội bóng đá của bang São Paulobang Rio de Janeiro và hậu quả là đội tuyển bao gồm các cầu thủ của 2 hiệp hội cãi cọ đó. Tại cả hai World Cup 1930World Cup 1934, Brasil bị loại ngay tại Vòng 1. Nhưng tại World Cup 1938 thì đã có hiện tượng mới cho tương lai, Brasil đã chiếm hạng ba thế giới với Leônidas da Silva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn thắng trong một trận của giải.

Brasil đăng cai World Cup 1950, lần giải đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giải này đặc biệt vì không có trận chung kết, thay vào đó là 4 đội đứng đầu vòng bảng vào Vòng chung kết và thi đấu vòng tròn một lượt. Tuy nhiên trận giữa Brasil và Uruguay đã được xem như "trận chung kết" của giải. Brazil trước đó đã thể hiện phong độ hủy diệt, đè bẹp Thụy Điển 7-1 và Tây Ban Nha 6-1 và được nhiều người đánh giá là đã cầm chắc chức vô địch trong tay. Trận đấu giữa Brazil và Uruguay ra tại sân vận động Maracanã tại Rio de Janeiro trước 199.854 khán giả và Brasil chỉ cần hoà Uruguay để đoạt chức vô địch. Tuy vậy Brasil đã để thua 1-2 mặc dù đang hòa 1-1. Kết quả này được coi là một trong những bất ngờ lớn nhất trong lịch sử bóng đá. Trận này được dân Nam Mỹ đặt tên là trận "Maracanazo (Maracanãzo) (Thảm họa Maracanã)". Sau khi trận đấu kết thúc, một bầu không khí im lặng và đau buồn bao trùm lấy sân Maracanã [9][10]. Màu áo, quần và tất trắng nguyên vẹn từ đầu đến chân mà đội tuyển Brazil đã mặc trong ngày hôm đó đã bị bỏ vĩnh viễn và thay bằng trang phục thi đấu áo vàng quần xanh dương (thỉnh thoảng là quần trắng) và tất trắng như ngày nay.

Chuẩn bị cho World Cup 1954 tại Thụy Sĩ, đội tuyển của Brasil được "thay máu" hoàn toàn, để xóa nhòa trận thua nhục nhã "Maracanã" 4 năm về trước, nhưng vẫn còn các cầu thủ tốt như Nilton Santos, Djalma SantosDidi. Tại trận tứ kết, Brasil đã bị thua Hungary 2-4. Trận đấu đã bị chỉ trích là một trong những trận "bẩn thỉu" nhất trong lịch sử bóng đá và đã được đặt tên là "Chiến trận Berne" (theo như một số CĐV Brasil).

Kỉ nguyên Vàng với huyền thoại Pelé (1958–70)[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển Brazil tại World Cup 1970 được nhiều người đánh giá là đội bóng mạnh nhất mọi thời đại

Đến với World Cup 1958, Brazil đã nằm chung bảng với Anh, Liên XôÁo. Họ đã đánh bại Áo 3–0 trong trận đầu tiên, sau đó hòa 0-0 với đội tuyển Anh. Trước trận đấu với Liên Xô, HLV Vicente Feola đã thực hiện ba sự thay đổi rất quan trọng để Brazil đánh bại Liên Xô: Zito, GarrinchaPelé. Họ thắng trận 2–0. Pelé đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận tứ kết gặp xứ Wales, và họ đánh bại Pháp 5-2 trong trận bán kết với cú hat-trick của thiên tài 17 tuổi Pelé. Brazil sau đó đánh bại chủ nhà Thụy Điển 5–2 trong trận chung kết để giành chức vô địch World Cup đầu tiên của họ và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup bên ngoài lục địa của mình.

Tại World Cup 1962, Brazil đã giành được chức vô địch World Cup lần thứ hai với Garrincha là cầu thủ ngôi sao, trong khi Pelé, bị chấn thương trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Tiệp Khắc và không thể chơi phần còn lại của giải đấu.

Tại World Cup 1966, Brazil đã có màn trình diễn siêu tệ nhất của họ tại một kỳ World Cup, giải đấu năm 1966 được ghi nhớ vì lối chơi vô cùng bạo lực như kéo áo, đẩy người, xoạc sau, đánh cùi chỏ, dùng tay để chơi bóng, v..v., và Pelé là một trong những cầu thủ bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi ông bị chấn thương trong trận đấu với Bồ Đào Nha. Brazil bị loại ngay từ vòng bảng, trở thành nhà đương kim vô địch World Cup thứ hai bị loại khỏi vòng bảng World Cup. Sau khi giải đấu kết thúc, Pelé tuyên bố rằng ông không muốn thi đấu tại World Cup thêm một lần nữa, tuy nhiên, ông đã lại trở lại vào năm 1970.

Brazil đã giành cúp thế giới lần thứ ba tại World Cup 1970 tại Mexico. Đội tuyển Brazil năm đó được đánh giá là đội bóng xuất sắc nhất trong lịch sử với một dàn sao gồm Pelé, đội trưởng Carlos Alberto Torres, Jairzinho, Tostão, GérsonRivelino, mặc dù Garrincha đã giải nghệ trước đó, nhưng đội hình này vẫn được xem là mạnh nhất thế giới khi đó. Họ đã thắng cả sáu trận của họ tại giải đấu này: 4-1 trước Tiệp Khắc, 1-0 trước Anh và 3-2 trước Rumani ở vòng bảng. Họ sau đó hạ Peru 4-2 ở tứ kết, 3-1 trước Uruguay ở bán kết và hủy diệt Italia 4-1 ở trận chung kết. Pelé kết thúc giải đấu với 4 bàn. Brazil giành chiếc cúp Jules Rimet lần thứ ba (quốc gia đầu tiên làm được như vậy). Điều này có nghĩa là họ đã được phép giữ chiếc cúp Jules Rimet vĩnh viễn.

Suy yếu (1974-90)[sửa | sửa mã nguồn]

Với việc Pelé giải nghệ, Brazil đã không thể vượt qua Hà Lan tại World Cup 1974Tây Đức, và sau khi thua Ba Lan 1-0 ở trận tranh giải ba, họ kết thúc giải ở vị trí thứ tư. Brazil sau đó cũng bị loại tại vòng bảng thứ hai của World Cup 1978 dù không để thua trận đấu nào do thua kém Argentina về hiệu số bàn thắng bại.

Tại World Cup 1982 tổ chức ở Tây Ban Nha, Brazil là được xem là ứng cử viên số 1 cho ngôi vô địch, và trên thực tế họ đã dễ dàng vượt qua vòng bảng, nhưng họ đã bị loại sau thất bại 2-3 ở sân Camp Nou (hay còn gọi là Nou Camp) trước Ý, trong một trận đấu được coi là kinh điển của lịch sử World Cup. Đội tuyển Brazil năm 1982, với những hảo thủ như Sócrates, Zico, FalcãoÉder, được xem là đội bóng vĩ đại nhất không bao giờ giành được một chức vô địch World Cup.

Tại World Cup 1986 ở Mexico, Brazil vẫn là một đội bóng rất mạnh và kỷ luật hơn nhiều so với bốn năm trước đó, tuy vậy họ đã bị đội tuyển Pháp của Michel Platini loại ở tứ kết.

Năm 1989, Brazil giành danh hiệu Copa America đầu tiên kể từ năm 1949.

Tại World Cup 1990 ở Ý, Brazil đã được huấn luyện bởi Sebastião Lazaroni, đã từng là huấn luyện viên tại Copa América 1989. Với một chiến thuật nghiêng về phòng thủ, với nòng cốt là tiền vệ Dunga, đội bóng thiếu sáng tạo Brazil đã bị loại bởi Argentina của Diego Maradona ngay tại vòng 16 đội ở Turin với tỉ số 1-0.

Trở lại với đỉnh cao (1994-2002)[sửa | sửa mã nguồn]

Brazil đã trải qua 24 năm mà không giành chiến thắng một kỳ World Cup nào. Họ cuối cùng cũng trở lại với đỉnh cao tại giải đấu năm 1994Hoa Kỳ, nơi một đội tuyển Brazil đầy thực dụng của những Romario, Bebeto, Dunga, Cláudio Taffarel và Jorginho đã lập kỉ lục trở thành đội đầu tiên bốn lần vô địch thế giới. Họ đánh bại chủ nhà Hoa Kỳ 1-0 tại vòng 16 ở San Francisco, một chiến thắng 3-2 trước Hà Lan ở vòng tứ kết tại Dallas, và chiến thắng 1-0 trước Thụy Điển ở vòng bán kết tại Los Angeles. Họ vượt qua Italia của Roberto Baggio trên chấm phạt đền trong trận chung kết để lên ngôi vô địch.

Tại World Cup 1998, đội tuyển Brazil chấp nhận ngôi á quân sau khi để thua 0-3 trước chủ nhà Pháp trong trận đấu cuối cùng. Ngôi sao lớn nhất của họ trong giải đấu năm đó, Ronaldo bất ngờ lên cơn động kinh bí ẩn ngay trước khi trận đấu chung kết diễn ra [11].

4 năm sau, "Bộ Ba R" (Ronaldo, RivaldoRonaldinho) đã đưa đội tuyển Brazil giành chức vô địch thế giới thứ năm tại World Cup 2002, giải đấu được tổ chức ở 2 quốc gia Hàn Quốc và Nhật Bản. Brazil giành vé vào vòng 16 với vị trí đầu bảng sau khi đánh bại cả ba đối thủ là Thổ Nhĩ Kỳ, Costa RicaTrung Quốc. Sau đó Brazil đã đánh bại Bỉ 2–0 tại Kobe ở vòng 16 với hai bàn thắng của Rivaldo và Ronaldo. Đối đầu với đội tuyển Anh trong trận tứ kết ở Shizuoka, họ thắng 2–1, với bàn thắng ấn định tỉ số tới từ một cú đá phạt tuyệt đẹp của Ronaldinho. Trận bán kết tái đấu Thổ Nhĩ Kỳ ở Saitama; Brazil thắng 1–0 với Ronaldo là người ghi bàn duy nhất. Trong trận chung kết giữa Đức và Brazil ở Yokohama, Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2–0 của Brazil. Ronaldo cũng đã giành được danh hiệu Chiếc giày vàng khi là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu năm đó với 8 bàn thắng.

Từ 2004 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]

Brazil đã giành được chức vô địch Copa América năm 2004, chức vô địch lần thứ ba của họ trong bốn lần tham dự kể kể từ năm 1997[12]. Brazil cũng đã giành được danh hiệu FIFA Confederations Cup lần thứ hai vào năm 2005[13]. Huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira đã xây dựng đội hình của Brazil với sơ đồ 4-2-2-2. Với biệt danh là "Bộ tứ ma thuật", hàng tấn công của Brazil giai đoạn này được xây dựng xung quanh bốn ngôi sao: Ronaldo, Adriano, KakáRonaldinho.

World Cup 2006[sửa | sửa mã nguồn]

Tại World Cup 2006 trên đất Đức, Brazil đã thắng cả hai trận đầu tiên gặp Croatia (1–0) và Australia (2–0). Trong trận đấu cuối vòng bảng với Nhật Bản, Brazil thắng 4–1. Ronaldo ghi hai bàn và san bằng kỷ lục của huyền thoại người Đức Gerd Muller để trở thành cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử các kỳ World Cup. Ở vòng 16, Brazil đánh bại Ghana 3–0. Với một bàn ghi được trong trận đấu này, Ronaldo đã có bàn thắng thứ 15 của anh tại World Cup, chính thức phá kỷ lục của Gerd Muller. Tuy nhiên đội tuyển Brazil đã bị loại ở vòng tứ kết khi đối đầu với đội tuyển Pháp, họ thua đau 0-1 với bàn thắng duy nhất của tiền đạo Henry.

Dunga được thuê làm HLV trưởng mới của đội tuyển Brazil vào năm 2006. Brazil sau đó đã giành được chức vô địch tại Copa América 2007, giải đấu mà Robinho đã đoạt được cả danh hiệu Chiếc giày vàng cũng như danh hiệu cầu thủ hay nhất của giải đấu. Hai năm sau, Brazil đã giành được FIFA Confederations Cup năm 2009 sau khi đánh bại Mỹ 3-2 trong trận chung kết, dù họ bị dẫn trước hai bàn. Đây đã là danh hiệu Confederations Cup lần thứ ba của họ. Kaká được vinh danh là cầu thủ hay nhất của giải đấu trong khi tiền đạo Luís Fabiano đã giành được giải thưởng cầu thủ ghi bàn nhiều nhất giải.

World Cup 2010[sửa | sửa mã nguồn]

Tại World Cup 2010Nam Phi, Brazil đã thắng hai trận đầu tiên ở vòng bảng trước Bắc Triều Tiên (2–1) và Bờ Biển Ngà (3–1). Trận đấu cuối cùng của họ ở vòng bảng là trận đấu với Bồ Đào Nha của ngôi sao Cristiano Ronaldo, đã kết thúc với tỉ số hòa 0-0. Họ đã gặp Chile trong vòng 16 và đã chiến thắng giòn giã 3–0, mặc dù trong trận tứ kết họ đã để thua đội tuyển Hà Lan với tỉ số 1-2 và chính thức nói lời chia tay giải đấu.

Vào tháng 7 năm 2010, Mano Menezes được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của đội tuyển Brazil [14]. Tại Copa América 2011, Brazil đã để thua trước Paraguay sau loạt đá luân lưu và bị loại ở ngay vòng tứ kết. Kết quả này đã khiến HLV Mano Menezes bị sa thải vào tháng 11 năm 2012, và được thay thế bởi Luiz Felipe Scolari. Vào ngày 6 tháng 6 năm 2013, Brazil đã tụt xuống vị trí thứ 22 trong bảng xếp hạng FIFA, thứ hạng thấp nhất của họ từ trước tới nay [15]. Brazil đăng cai tổ chức giải đấu 2013 FIFA Confederations Cup với mục tiêu bảo vệ chức vô địch của họ. Trong trận chung kết, Brazil phải đối mặt với đương kim vô địch thế giới Tây Ban Nha nhưng họ đã giành chiến thắng 3–0 và đoạt danh hiệu Confederations Cup lần thứ tư của họ. Tiền đạo Neymar đoạt Giải thưởng Quả bóng Vàng của giải đấu, trong khi thủ môn Júlio César đã giành Giải Găng tay vàng cho thủ môn xuất sắc nhất của giải đấu.

World Cup 2014[sửa | sửa mã nguồn]

Trong trận mở màn của World Cup 2014 gặp Croatia, hai bàn thắng của Neymar và một bàn của Oscar đã giúp Selecao giành chiến thắng với tỉ số 3-1 trong trận đấu ra quân của họ tại kỳ World Cup được tổ chưc trên sân nhà.[16] Brazil sau đó đã có trận hòa không bàn thắng với Mexico, trong một trận đấu mà thủ môn Mexico là Guillermo Ochoa đã chơi xuất thần[17], trước khi giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp bằng chiến thắng 4-1 trước Cameroon ở lượt đấu cuối, với Neymar một lần nữa ghi hai bàn, và FredFernandinho mỗi người ghi một bàn thắng[18]. Brazil phải đối mặt với Chile tại vòng 16, họ dẫn trước sau 18 phút thi đấu với bàn thắng đầu tiên của David Luiz, trước khi kết thúc thời gian thi đấu chính thức với tỉ số hòa 1-1. Brazil giành quyền vào tứ kết sau chiến thắng kịch tính 3-2 ở loạt sút luân lưu.[19]

Đội bóng một lần nữa phải đối mặt với một đối thủ khác tới từ Nam Mỹ trong trận tứ kết và đánh bại Colombia 2-1 với những bàn thắng của trung vệ David Luiz và đội trưởng Thiago Silva. Vào cuối trận đấu, Neymar bị dinh chấn thương sau khi bị đầu gối của hậu vệ Colombia Juan Camilo Zúñiga chạm vào lưng. Chấn thương đã khiến Neymar buộc phải nghỉ thi đấu trong phần còn lại của giải đấu[20]. Brazil cũng phải đối mặt với những vấn đề khác trước trận bán kết gặp Đức, đội trưởng Thiago Silva bị treo giò khi đã nhận đủ hai thẻ vàng tại giải đấu.[21]

Brazil để thua 1-7 trước Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức ở bán kết, đây là thất bại đậm nhất trong lịch sử đội tuyển bóng đá Brazil[22]. Họ tiếp tục để thua 0-3 trước Hà Lan ở trận tranh hạng ba[23]. Với 14 bàn thua sau 7 trận, Brazil là đội bóng bị lọt lưới nhiều nhất giải đấu, cũng là đội bóng chủ nhà bị lọt lưới nhiêu nhất tại một kỳ World Cup từ trước đến nay.[24]

World Cup 2018[sửa | sửa mã nguồn]

Brasil khởi đầu chiến dịch World Cup 2018 của họ với trận hòa 1-1 trước Thụy Sĩ - bàn thắng duy nhất của đội tuyển Brazil đến từ pha dứt điểm đẹp mắt của Philippe Coutinho - trận hòa đầu tiên của họ trong một trận mở màn World Cup kể từ năm 1978. Tuy nhiên, trong trận thứ hai của vòng bảng, họ đã thắng Costa Rica 2-0 nhờ những bàn thắng đẹp mắt của Coutinho và Neymar ở những phút bù giờ. Ở lượt trận cuối cùng gặp Serbia, Brasil tiếp tục giành chiến thắng với tỉ số tương tự nhờ các pha lập công của PaulinhoThiago Silva, giúp vũ công Samba đứng vị trí nhất bảng E với 7 điểm. Ở vòng 1/8 gặp đối thủ sừng sỏ México, họ tiếp tục vượt qua El Tri cũng với tỉ số 2-0 bằng các pha lập công của Neymar và Roberto Firmino ở những phút hiệp 2, giúp đội tuyển Brasil lọt vào tứ kết. Tuy nhiên các vũ công Samba một lần nữa phải dừng bước ở tứ kết sau thất bại 1-2 trước đội tuyển Bỉ và đành ngậm ngùi chia tay giải đấu. Kết thúc giải đấu, Neymar và các đồng đội lại lỗi hẹn với chức vô địch World Cup thêm một lần nữa.

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Vô địch: 1958; 1962; 1970; 1994; 2002
Á quân: 1950; 1998
Hạng ba: 1938; 1978
Vô địch: 1997; 2005; 2009; 2013
Á quân: 1999
Vô địch (9): 1919; 1922; 1949; 1989; 1997; 1999; 2004; 2007; 2019
Á quân (12): 1921; 1925; 1937; 1945; 1946; 1953; 1957; 1959; 1983; 1991; 1995; 2021
Hạng ba (7): 1916; 1917; 1920; 1942; 1959; 1975; 1979
Á quân: 1996; 2003
Hạng ba: 1998
2016; 2020
1984; 1988
1936 1963; 1975; 1979; 1987
1984 1959
1996 1983

Thành tích[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch bóng đá thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kết quả St T H [25] B Bt Bb
Uruguay 1930 Vòng 1 2 1 0 1 5 2
Ý 1934 1 0 0 1 1 3
Pháp 1938 Hạng ba 5 3 1 1 14 11
Brasil 1950 Á quân 6 4 1 1 22 6
Thụy Sĩ 1954 Tứ kết 3 1 1 1 8 5
Thụy Điển 1958 Vô địch 6 5 1 0 16 4
Chile 1962 Vô địch 6 5 1 0 14 5
Anh 1966 Vòng 1 3 1 0 2 4 6
México 1970 Vô địch 6 6 0 0 19 7
Tây Đức 1974 Hạng tư 7 3 2 2 6 4
Argentina 1978 Hạng ba 7 4 3 0 10 3
Tây Ban Nha 1982 Vòng 2 5 4 0 1 15 6
México 1986 Tứ kết 5 4 1 0 10 1
Ý 1990 Vòng 2 4 3 0 1 4 2
Hoa Kỳ 1994 Vô địch 7 5 2 0 11 3
Pháp 1998 Á quân 7 4 1 2 14 10
Hàn Quốc Nhật Bản 2002 Vô địch 7 7 0 0 18 4
Đức 2006 Tứ kết 5 4 0 1 10 2
Cộng hòa Nam Phi 2010 5 3 1 1 9 4
Brasil 2014 Hạng tư 7 3 2 2 11 14
Nga 2018 Tứ kết 5 3 1 1 8 3
Qatar 2022 5 3 1 1 8 3
Canada México Hoa Kỳ 2026 Chưa xác định
Tổng cộng 22/22
5 lần: Vô địch
114 76 19 19 237 108

Cúp Liên đoàn các châu lục[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kết quả St T H [25] B Bt Bb
1992 Không giành quyền tham dự
1995
Ả Rập Xê Út 1997 Vô địch 5 4 1 0 14 2
México 1999 Á quân 5 4 0 1 16 6
Hàn Quốc Nhật Bản 2001 Hạng tư 5 1 2 2 3 3
Pháp 2003 Vòng 1 3 1 1 1 3 3
Đức 2005 Vô địch 5 3 1 1 12 6
Cộng hòa Nam Phi 2009 5 5 0 0 14 5
Brasil 2013 5 5 0 0 14 3
2017 Không giành quyền tham dự
Tổng cộng 7/10
4 lần: Vô địch
33 23 5 5 78 27

Cúp bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Copa América
Năm Thành
tích
Thứ
hạng
Số
trận
Thắng Hòa Thua Bàn
thắng
Bàn
thua
Argentina 1916 Hạng ba 3rd 3 0 2 1 3 4
Uruguay 1917 3rd 3 1 0 2 7 8
Brasil 1919 Vô địch 1st 4 3 1 0 12 3
Chile 1920 Hạng ba 3rd 3 1 0 2 1 8
Argentina 1921 Á quân 2nd 3 1 0 2 4 3
Brasil 1922 Vô địch 1st 5 2 3 0 7 2
Uruguay 1923 Hạng tư 4th 3 0 0 3 2 5
1924 Bỏ cuộc
Argentina 1925 Á quân 2nd 4 '2 1 1 11 9
1926 Bỏ cuộc
1927
1929
1935
Argentina 1937 Á quân 2nd 6 4 0 2 17 11
1939 Bỏ cuộc
1941
Uruguay 1942 Hạng ba 3rd 6 3 1 2 15 7
Chile 1945 Á quân 2nd 6 5 0 1 19 5
Argentina 1946 2nd 5 3 1 1 13 7
1947 Bỏ cuộc
Brasil 1949 Vô địch 1st 8 7 0 1 46 7
Peru 1953 Á quân 2nd 7 4 0 3 17 9
1955 Bỏ cuộc
Uruguay 1956 Hạng tư 4th 5 2 2 1 4 5
Peru 1957 Á quân 2nd 6 4 0 2 23 9
Argentina 1959 2nd 6 4 2 0 17 7
Ecuador 1959 Hạng ba 3rd 4 2 0 2 7 10
Bolivia 1963 Hạng tư 4th 6 2 1 3 12 13
1967 Bỏ cuộc
Nam Mỹ 1975 Hạng ba 3rd 6 5 0 1 16 4
Nam Mỹ 1979 3rd 6 2 2 2 10 9
Nam Mỹ 1983 Á quân 2nd 8 2 4 2 8 5
Argentina 1987 Vòng bảng 5th 2 1 0 1 5 4
Brasil 1989 Vô địch 1st 7 5 2 0 11 1
Chile 1991 Á quân 2nd 7 4 1 2 12 8
Ecuador 1993 Tứ kết 5th 4 1 2 1 6 4
Uruguay 1995 Á quân 2nd 6 4 2 0 10 3
Bolivia 1997 Vô địch 1st 6 6 0 0 22 3
Paraguay 1999 1st 6 6 0 0 17 2
Colombia 2001 Tứ kết 6th 4 2 0 2 5 4
Peru 2004 Vô địch 1st 6 3 2 1 13 6
Venezuela 2007 1st 6 4 1 1 15 5
Argentina 2011 Tứ kết 8th 4 1 3 0 6 4
Chile 2015 5th 4 2 1 1 5 4
Hoa Kỳ 2016 Vòng bảng 9th 3 1 1 1 7 2
Brasil 2019 Vô địch 1st 6 4 2 0 13 1
Brasil 2020 Á quân 2nd 7 5 1 1 12 3
Hoa Kỳ 2024 Chưa xác định
Tổng cộng 8 lần
vô địch
37/47 191 110 38 45 430 204

Thế vận hội Mùa hè[sửa | sửa mã nguồn]

  • (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Thế vận hội Mùa hè
Năm Thành
tích
Thứ
hạng
Số
trận
Thắng Hòa Thua Bàn
thắng
Bàn
thua
1900 Không tham dự
1904
1908
1912
1920
1924
1928
1936
1948
Phần Lan 1952 Tứ kết 6th 3 2 0 1 9 6
1956 Không tham dự
Ý 1960 Vòng bảng 6th 3 2 0 1 10 6
Nhật Bản 1964 9th 3 1 1 1 5 2
México 1968 11th 3 0 2 1 4 5
Tây Đức 1972 12th 3 0 1 2 4 6
Canada 1976 Hạng tư 4th 5 2 1 2 6 6
1980 Không vượt qua vòng loại
Hoa Kỳ 1984 Huy chương bạc 2nd 6 4 1 1 9 5
Hàn Quốc 1988 2nd 6 4 1 1 12 4
Tổng cộng 2 lần huy
chương bạc
8/19 32 15 7 10 59 40

Đại hội Thể thao liên Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

  • (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1995)
Đại hội Thể thao liên Mỹ
Năm Thành
tích
Thứ
hạng
Số
trận
Thắng Hòa Thua Bàn
thắng
Bàn
thua
1951 Không tham dự
1955
Hoa Kỳ 1959 Huy chương bạc 2nd 6 4 1 1 27 11
Brasil 1963 Huy chương vàng 1st 4 3 1 0 18 3
1967 Không tham dự
1971
México 1975 Huy chương vàng 1st 6 5 1 0 33 2
Puerto Rico 1979 1st 5 5 0 0 14 1
Venezuela 1983 Huy chương bạc 2nd 3 2 0 1 3 1
Hoa Kỳ 1987 Huy chương vàng 1st 5 4 1 0 10 2
1991 Không tham dự
Argentina 1995 Tứ kết 5th 4 2 2 0 5 2
Tổng cộng 4 lần huy
chương vàng
7/12 33 25 6 2 110 22

Lịch thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

2023[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là đội hình tham dự 2 trận giao hữu gặp GuinéeSénégal vào tháng 6 năm 2023.
Số liệu thống kê tính đến ngày 20 tháng 6 năm 2023 sau trận gặp Sénégal.

Số VT Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Trận Bàn Câu lạc bộ
1 1TM Alisson 2 tháng 10, 1992 (30 tuổi) 61 0 Anh Liverpool
12 1TM Weverton 13 tháng 12, 1987 (35 tuổi) 10 0 Brasil Palmeiras
23 1TM Ederson 17 tháng 8, 1993 (30 tuổi) 21 0 Anh Manchester City

2 2HV Danilo 15 tháng 7, 1991 (32 tuổi) 51 1 Ý Juventus
3 2HV Éder Militão 18 tháng 1, 1998 (25 tuổi) 30 2 Tây Ban Nha Real Madrid
4 2HV Marquinhos (đội phó) 14 tháng 5, 1994 (29 tuổi) 78 6 Pháp Paris Saint-Germain
6 2HV Alex Telles 15 tháng 12, 1992 (30 tuổi) 12 0 Tây Ban Nha Sevilla
13 2HV Vanderson 21 tháng 6, 2001 (22 tuổi) 1 0 Pháp Monaco}
14 2HV Robert Renan 11 tháng 10, 2003 (19 tuổi) 0 0 Nga Zenit Saint Petersburg
15 2HV Roger Ibañez 23 tháng 11, 1998 (24 tuổi) 2 0 Ý Roma
16 2HV Ayrton Lucas 19 tháng 6, 1997 (26 tuổi) 2 0 Brasil Flamengo

5 3TV Casemiro (đội trưởng) 23 tháng 2, 1992 (31 tuổi) 71 7 Anh Manchester United
7 3TV Lucas Paquetá 27 tháng 8, 1997 (26 tuổi) 42 9 Anh West Ham United
8 3TV Bruno Guimarães 16 tháng 11, 1997 (25 tuổi) 12 1 Anh Newcastle United
17 3TV André 16 tháng 7, 2001 (22 tuổi) 1 0 Brasil Fluminense
18 3TV Joelinton 14 tháng 8, 1996 (27 tuổi) 2 1 Anh Newcastle United
20 3TV Raphael Veiga 19 tháng 6, 1995 (28 tuổi) 3 0 Brasil Palmeiras

9 4 Richarlison 10 tháng 5, 1997 (26 tuổi) 44 20 Anh Tottenham Hotspur
10 4 Vinícius Júnior 12 tháng 7, 2000 (23 tuổi) 23 3 Tây Ban Nha Real Madrid
11 4 Rodrygo 9 tháng 1, 2001 (22 tuổi) 14 2 Tây Ban Nha Real Madrid
19 4 Pedro 20 tháng 6, 1997 (26 tuổi) 6 1 Brasil Flamengo
21 4 Malcom 26 tháng 2, 1997 (26 tuổi) 2 0 Nga Zenit Saint Petersburg
22 4 Rony 11 tháng 5, 1995 (28 tuổi) 3 0 Brasil Palmeiras

Triệu tập gần đây[sửa | sửa mã nguồn]

Vt Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Số trận Bt Câu lạc bộ Lần cuối triệu tập
TM Mycael 12 tháng 3, 2004 (19 tuổi) 0 0 Brasil Athletico Paranaense v.  Maroc, 25 March 2023

HV Nino 10 tháng 4, 1997 (26 tuổi) 0 0 Brasil Fluminense v.  Guinée, 17 June 2023 INJ
HV Renan Lodi 8 tháng 4, 1998 (25 tuổi) 16 0 Anh Nottingham Forest v.  Maroc, 25 March 2023
HV Emerson 14 tháng 1, 1999 (24 tuổi) 8 0 Anh Tottenham Hotspur v.  Maroc, 25 March 2023
HV Bremer 18 tháng 3, 1997 (26 tuổi) 3 0 Ý Juventus v.  Maroc, 25 March 2023
HV Arthur 17 tháng 3, 2003 (20 tuổi) 1 0 Brasil América Mineiro v.  Maroc, 25 March 2023
HV Dani Alves 6 tháng 5, 1983 (40 tuổi) 126 8 Free agent 2022 FIFA World Cup
HV Thiago Silva 22 tháng 9, 1984 (39 tuổi) 113 7 Anh Chelsea 2022 FIFA World Cup
HV Alex Sandro 26 tháng 1, 1991 (32 tuổi) 40 2 Ý Juventus 2022 FIFA World Cup

TV Andrey Santos 3 tháng 5, 2004 (19 tuổi) 1 0 Brasil Vasco da Gama v.  Maroc, 25 March 2023
TV João Gomes 12 tháng 2, 2001 (22 tuổi) 0 0 Anh Wolverhampton Wanderers v.  Maroc, 25 March 2023
TV Fred 5 tháng 3, 1993 (30 tuổi) 32 0 Anh Manchester United 2022 FIFA World Cup
TV Fabinho 23 tháng 10, 1993 (29 tuổi) 29 0 Anh Liverpool 2022 FIFA World Cup
TV Éverton Ribeiro 10 tháng 4, 1989 (34 tuổi) 22 3 Brasil Flamengo 2022 FIFA World Cup

Antony 24 tháng 2, 2000 (23 tuổi) 16 2 Anh Manchester United v.  Maroc, 25 March 2023
Yuri Alberto 18 tháng 3, 2001 (22 tuổi) 1 0 Brasil Corinthians v.  Maroc, 25 March 2023
Vitor Roque 28 tháng 2, 2005 (18 tuổi) 1 0 Brasil Athletico Paranaense v.  Maroc, 25 March 2023
Neymar 5 tháng 2, 1992 (31 tuổi) 124 77 Pháp Paris Saint-Germain 2022 FIFA World Cup
Gabriel Jesus 3 tháng 4, 1997 (26 tuổi) 59 19 Anh Arsenal 2022 FIFA World Cup
Raphinha 14 tháng 12, 1996 (26 tuổi) 16 5 Tây Ban Nha Barcelona 2022 FIFA World Cup
Gabriel Martinelli 18 tháng 6, 2001 (22 tuổi) 6 0 Anh Arsenal 2022 FIFA World Cup
Roberto Firmino 2 tháng 10, 1991 (31 tuổi) 55 17 Ả Rập Xê Út Al-Ahli v.  Tunisia, 27 September 2022
Matheus Cunha 27 tháng 5, 1999 (24 tuổi) 8 0 Anh Wolverhampton Wanderers v.  Tunisia, 27 September 2022

  • INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương
  • PRE Đội hình sơ bộ
  • SUS Bị cấm thi đấu
  • WD Cầu thủ rút lui do chấn thương không rõ ràng

Cầu thủ xuất sắc[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là danh sách các cầu thủ xuất sắc từng khoác áo đội tuyển Brasil.

Huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]

Một số huấn luyện viên trong lịch sử.

Kỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]

Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Cafu là cầu thủ khoác áo đội tuyển Brasil nhiều nhất với 142 trận
Tính đến ngày 11 tháng 9 năm 2023
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
# Cầu thủ Số trận Bàn thắng Thời gian thi đấu
1 Cafu 142 5 1990–2006
2 Dani Alves 126 8 2006–2022
3 Roberto Carlos 125 11 1992–2006
4 Neymar 125 79 2010–
5 Thiago Silva 113 7 2008–2022
6 Lúcio 105 4 2000–2011
7 Cláudio Taffarel 101 0 1988–1998
8 Robinho 100 28 2003–2015
9 Djalma Santos 98 3 1952–1968
Ronaldo 98 62 1994–2011

Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Neymar là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia với 79 bàn thắng
Tính đến ngày 11 tháng 9 năm 2023[26]
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
# Cầu thủ Bàn thắng Số trận Hiệu suất Thời gian thi đấu
1 Neymar 79 125 0.62 2010–
2 Pelé 77 91 0.85 1957–1971
3 Ronaldo 62 98 0.63 1994–2011
4 Romário 55 70 0.79 1987–2005
5 Zico 48 71 0.67 1976–1986
6 Bebeto 39 75 0.52 1985–1998
7 Rivaldo 35 74 0.46 1993–2003
8 Jairzinho 33 81 0.40 1964–1982
Ronaldinho 33 97 0.34 1999–2013
10 Ademir 32 39 0.82 1945–1953
Tostão 32 54 0.59 1966–1972

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ruy Castro, Andrew Downie (translator) (2005). Garrincha - The triumph and tragedy of Brazil's forgotten footballing hero. Yellow Jersey Press, London. ISBN 0-224-06433-9.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 20 tháng 7 năm 2023. Truy cập 20 tháng 7 năm 2023.
  2. ^ Đây là lần đầu tiên Brasil giữ vị trí số 1. Cụ thể những thời điểm Brazil giữ vị trí số 1 như sau: 9.1993, 4–5.1994, 7.1994, 9–12.1994, 2.1995, 4.1995–2.1996, 4–5.1996, 7–12.1996, 2.1997, 4.1997–5.1998, 7.1998–4.2001, 7.2002–5.2006, 7.2006–1.2007, 7–8.2007, 7–10.2009, 4–5.2010, 4-6.2017, 31.3.2023-5.4.2023
  3. ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập 30 tháng 11 năm 2022.
  4. ^ “Argentina versus Brazil”. FIFA.com. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.[liên kết hỏng]
  5. ^ Napoleão, Antônio Carlos; Assaf, Roberto (2006). Seleção Brasileira 1914–2006. São Paulo: Mauad X. tr. 72. ISBN 85-7478-186-X.
  6. ^ “Brazil matches, ratings and points exchanged”. Eloratings.net. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
  7. ^ "World Cup History - The Facts and Stats", William Hill, ngày 28 tháng 5 năm 2006. URL accessed on ngày 15 tháng 6 năm 2006.
  8. ^ Team of the Year Award 2010 Lưu trữ 18 tháng 12 2010 tại Wayback Machine on the FIFA website
  9. ^ “Silêncio no Maracanã - Revista de História”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.
  10. ^ Jogos Eternos – Brasil 1×2 Uruguai 1950 | Imortais do Futebol
  11. ^ http://news.bbc.co.uk/sport3/worldcup2002/hi/history/newsid_1749000/1749324.stm
  12. ^ “Final of the 2004 CONMEBOL Copa America: Brazil, Argentina and a comeback for history”. copaamerica.com. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  13. ^ “Bring on the World Cup, Germany Says – DW – 06/30/2005”. dw.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  14. ^ “Brazil name Dunga's replacement as they rebuild for the next World Cup”. The Guardian. London: Guardian Media Group. Press Association. 24 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2010.
  15. ^ “Netherlands go fifth in Fifa ranking”. Goal.com. 6 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2013.
  16. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 6 năm 2014). “Brazil 3-1 Croatia: Rực cháy vũ điệu Samba ngày khai màn”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  17. ^ VTV, BAO DIEN TU (18 tháng 6 năm 2014). “Bảng A World Cup 2014, Brazil 0-0 Mexico: Tiếc cho Selecao!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  18. ^ VnExpress. “Brazil 4-1 Cameroon: Khi khó đã có Neymar”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  19. ^ VTV, BAO DIEN TU (29 tháng 6 năm 2014). “Nhọc nhằn đánh bại Chile sau loạt 'đấu súng', Brazil vào tứ kết”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  20. ^ VnExpress. “Brazil 2-1 Colombia: Chiến thắng xấu xí”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  21. ^ “Brazil vs Germany match preview”. The Independent (bằng tiếng Anh). 8 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  22. ^ VnExpress. “Brazil 1-7 Đức: Bầu trời sụp đổ”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  23. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 7 năm 2014). “Brazil 0-3 Hà Lan: Nỗi đau thêm dài!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  24. ^ “Stats magic: the facts and figures to remember from World Cup 2014”. The Guardian (bằng tiếng Anh). 14 tháng 7 năm 2014. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  25. ^ a b Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu
  26. ^ “Brazil – Record International Players”. RSSSF. ngày 7 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2009.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu
Tiền nhiệm:
 Tây Đức
Vô địch thế giới
1958, 1962
Kế nhiệm:
 Anh
Tiền nhiệm:
 Anh
Vô địch thế giới
1970
Kế nhiệm:
 Tây Đức
Tiền nhiệm:
 Tây Đức
Vô địch thế giới
1994
Kế nhiệm:
 Pháp
Tiền nhiệm:
 Pháp
Vô địch thế giới
2002
Kế nhiệm:
 Ý
Tiền nhiệm:
 Đan Mạch
Vô địch Cúp Confederations
1997
Kế nhiệm:
 México
Tiền nhiệm:
 Pháp
Vô địch Cúp Confederations
2005, 2009,2013
Kế nhiệm:
đương kim vô địch
Tiền nhiệm:
 Uruguay
Vô địch Nam Mỹ
1919
Kế nhiệm:
 Uruguay
Tiền nhiệm:
 Argentina
Vô địch Nam Mỹ
1922
Kế nhiệm:
 Uruguay
Tiền nhiệm:
 Argentina
Vô địch Nam Mỹ
1949
Kế nhiệm:
 Paraguay
Tiền nhiệm:
 Uruguay
Vô địch Nam Mỹ
1989
Kế nhiệm:
 Argentina
Tiền nhiệm:
 Uruguay
Vô địch Nam Mỹ
1997; 1999
Kế nhiệm:
 Colombia
Tiền nhiệm:
 Colombia
Vô địch Nam Mỹ
2004; 2007
Kế nhiệm:
 Uruguay
Tiền nhiệm:
 Chile
Vô địch Nam Mỹ
2019
Kế nhiệm:
CXĐ