Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil
![]() | |||
Biệt danh | Seleção | ||
---|---|---|---|
Hiệp hội | Liên đoàn bóng đá Brasil (Confederação Brasileira de Futebol) | ||
Huấn luyện viên trưởng | Fernando Diniz (tạm quyền) | ||
Đội trưởng | Casemiro | ||
Thi đấu nhiều nhất | Cafu (142) | ||
Ghi bàn nhiều nhất | Neymar (79) | ||
Mã FIFA | BRA | ||
| |||
Hạng FIFA | |||
Hiện tại | 3 ![]() | ||
Cao nhất | 1 (9.1993 31.3.2022-5.4.2023[2]) | ||
Thấp nhất | 22 (6.2013) | ||
Hạng Elo | |||
Hiện tại | 1 ![]() | ||
Cao nhất | 1 (15.6.1958) | ||
Thấp nhất | 18 (11.2001) | ||
Trận quốc tế đầu tiên | |||
![]() ![]() (Buenos Aires, Argentina; 20 tháng 9 năm 1914)[4] | |||
Trận thắng đậm nhất | |||
![]() ![]() (México; 17 tháng 10 năm 1975)[5] ![]() ![]() (São Paulo, Brazil; 10 tháng 4 năm 1949)[6] ![]() ![]() (Lima, Peru; 24 tháng 3 năm 1957) | |||
Trận thua đậm nhất | |||
![]() ![]() (Viña del Mar, Chile; 18 tháng 9 năm 1920) ![]() ![]() (Belo Horizonte, Brasil; 8 tháng 7 năm 2014) | |||
Giải thế giới | |||
Sồ lần tham dự | 22 (Lần đầu vào năm 1930) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch: 1958, 1962, 1970, 1994, 2002 | ||
Copa América | |||
Sồ lần tham dự | 36 (Lần đầu vào năm 1916) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch: 1919, 1922, 1949, 1989, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019 | ||
Cúp Liên đoàn các châu lục | |||
Sồ lần tham dự | 7 (Lần đầu vào năm 1997) | ||
Kết quả tốt nhất | Vô địch: 1997, 2005, 2009, 2013 |
Thành tích huy chương Thế vận hội | ||
---|---|---|
Bóng đá nam | ||
![]() |
Los Angeles 1984 | Đồng đội |
![]() |
Seoul 1988 | Đồng đội |
![]() |
Atlanta 1996 | Đồng đội |
![]() |
Bắc Kinh 2008 | Đồng đội |
![]() |
Luân Đôn 2012 | Đồng đội |
![]() |
Brasil 2016 | Đồng đội |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Seleção Brasileira de Futebol, SBF) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil tham dự đấu trường quốc tế. Brazil là thành viên của FIFA từ năm 1923 và là thành viên của CONMEBOL từ năm 1916. Brazil là đội tuyển bóng đá thành công nhất trên thế giới với năm lần giành vị trí số một giải vô địch bóng đá thế giới của FIFA, với lần gần nhất là vào năm 2002. Có một câu nói vui phổ biến trong bóng đá là "Người Anh sáng tạo ra môn bóng đá, và người Brasil đã hoàn thiện nó".[7]
Trong hệ thống xếp hạng của FIFA, Brasil giữ kỷ lục về số trận thắng trong bảng xếp hạng của FIFA World Rankings với 12 trận thắng[8]
Biệt danh[sửa | sửa mã nguồn]
Do tầm ảnh hưởng cao của mình, đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil được biết đến với rất nhiều biệt danh. Một vài trong số đó là:
Tiếng Bồ Đào Nha | Tiếng Việt |
---|---|
Seleção | Đội tuyển |
Seleção Brasileira | Đội tuyển Brasil |
Canarinho | Tiểu kim tước |
Verde-Amarela | Vàng - Xanh |
Esquadrão de Ouro | Phi đội Vàng |
Pentacampeões | Nhà vô địch năm kỳ |
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Brasil là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kì World Cup và là quốc gia đầu tiên vô địch 5 lần (1958, 1962, 1970, 1994 và 2002). Với kết quả đó, người Brasil thường gọi đội tuyển quốc gia của họ là "Pentacampeão", có nghĩa là "5 lần vô địch" trong tiếng Bồ Đào Nha. Khi tính thêm 2 lần hạng nhì (1950 và 1998) và 2 lần hạng ba (1938 và 1978) tại World Cup, cũng như nhiều thành công khác, Brasil được xem là đội tuyển thành công nhất thế giới bóng đá.
Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển quốc gia của Brasil được thành lập vào năm 1914 và đã đấu trận đầu tiên là trận giao hữu với Exeter City F.C. ngay trong năm đó, thắng 2–0. Không như những chiến thắng trong tương lai, các lần thi đấu ban đầu của đội tuyển không có gì ngoạn mục, một phần vì các hiềm khích bên trong về vấn đề dùng các cầu thủ nhà nghề làm cho Liên đoàn bóng đá Brasil không thể có một đội tuyển hoàn hảo.
Đặc biệt nhất là sự bất đồng ý kiến giữa hai hiệp hội bóng đá của bang São Paulo và bang Rio de Janeiro và hậu quả là đội tuyển bao gồm các cầu thủ của 2 hiệp hội cãi cọ đó. Tại cả hai World Cup 1930 và World Cup 1934, Brasil bị loại ngay tại Vòng 1. Nhưng tại World Cup 1938 thì đã có hiện tượng mới cho tương lai, Brasil đã chiếm hạng ba thế giới với Leônidas da Silva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn thắng trong một trận của giải.
Brasil đăng cai World Cup 1950, lần giải đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giải này đặc biệt vì không có trận chung kết, thay vào đó là 4 đội đứng đầu vòng bảng vào Vòng chung kết và thi đấu vòng tròn một lượt. Tuy nhiên trận giữa Brasil và Uruguay đã được xem như "trận chung kết" của giải. Brazil trước đó đã thể hiện phong độ hủy diệt, đè bẹp Thụy Điển 7-1 và Tây Ban Nha 6-1 và được nhiều người đánh giá là đã cầm chắc chức vô địch trong tay. Trận đấu giữa Brazil và Uruguay ra tại sân vận động Maracanã tại Rio de Janeiro trước 199.854 khán giả và Brasil chỉ cần hoà Uruguay để đoạt chức vô địch. Tuy vậy Brasil đã để thua 1-2 mặc dù đang hòa 1-1. Kết quả này được coi là một trong những bất ngờ lớn nhất trong lịch sử bóng đá. Trận này được dân Nam Mỹ đặt tên là trận "Maracanazo (Maracanãzo) (Thảm họa Maracanã)". Sau khi trận đấu kết thúc, một bầu không khí im lặng và đau buồn bao trùm lấy sân Maracanã [9][10]. Màu áo, quần và tất trắng nguyên vẹn từ đầu đến chân mà đội tuyển Brazil đã mặc trong ngày hôm đó đã bị bỏ vĩnh viễn và thay bằng trang phục thi đấu áo vàng quần xanh dương (thỉnh thoảng là quần trắng) và tất trắng như ngày nay.
Chuẩn bị cho World Cup 1954 tại Thụy Sĩ, đội tuyển của Brasil được "thay máu" hoàn toàn, để xóa nhòa trận thua nhục nhã "Maracanã" 4 năm về trước, nhưng vẫn còn các cầu thủ tốt như Nilton Santos, Djalma Santos và Didi. Tại trận tứ kết, Brasil đã bị thua Hungary 2-4. Trận đấu đã bị chỉ trích là một trong những trận "bẩn thỉu" nhất trong lịch sử bóng đá và đã được đặt tên là "Chiến trận Berne" (theo như một số CĐV Brasil).
Kỉ nguyên Vàng với huyền thoại Pelé (1958–70)[sửa | sửa mã nguồn]
Đến với World Cup 1958, Brazil đã nằm chung bảng với Anh, Liên Xô và Áo. Họ đã đánh bại Áo 3–0 trong trận đầu tiên, sau đó hòa 0-0 với đội tuyển Anh. Trước trận đấu với Liên Xô, HLV Vicente Feola đã thực hiện ba sự thay đổi rất quan trọng để Brazil đánh bại Liên Xô: Zito, Garrincha và Pelé. Họ thắng trận 2–0. Pelé đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận tứ kết gặp xứ Wales, và họ đánh bại Pháp 5-2 trong trận bán kết với cú hat-trick của thiên tài 17 tuổi Pelé. Brazil sau đó đánh bại chủ nhà Thụy Điển 5–2 trong trận chung kết để giành chức vô địch World Cup đầu tiên của họ và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup bên ngoài lục địa của mình.
Tại World Cup 1962, Brazil đã giành được chức vô địch World Cup lần thứ hai với Garrincha là cầu thủ ngôi sao, trong khi Pelé, bị chấn thương trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Tiệp Khắc và không thể chơi phần còn lại của giải đấu.
Tại World Cup 1966, Brazil đã có màn trình diễn siêu tệ nhất của họ tại một kỳ World Cup, giải đấu năm 1966 được ghi nhớ vì lối chơi vô cùng bạo lực như kéo áo, đẩy người, xoạc sau, đánh cùi chỏ, dùng tay để chơi bóng, v..v., và Pelé là một trong những cầu thủ bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi ông bị chấn thương trong trận đấu với Bồ Đào Nha. Brazil bị loại ngay từ vòng bảng, trở thành nhà đương kim vô địch World Cup thứ hai bị loại khỏi vòng bảng World Cup. Sau khi giải đấu kết thúc, Pelé tuyên bố rằng ông không muốn thi đấu tại World Cup thêm một lần nữa, tuy nhiên, ông đã lại trở lại vào năm 1970.
Brazil đã giành cúp thế giới lần thứ ba tại World Cup 1970 tại Mexico. Đội tuyển Brazil năm đó được đánh giá là đội bóng xuất sắc nhất trong lịch sử với một dàn sao gồm Pelé, đội trưởng Carlos Alberto Torres, Jairzinho, Tostão, Gérson và Rivelino, mặc dù Garrincha đã giải nghệ trước đó, nhưng đội hình này vẫn được xem là mạnh nhất thế giới khi đó. Họ đã thắng cả sáu trận của họ tại giải đấu này: 4-1 trước Tiệp Khắc, 1-0 trước Anh và 3-2 trước Rumani ở vòng bảng. Họ sau đó hạ Peru 4-2 ở tứ kết, 3-1 trước Uruguay ở bán kết và hủy diệt Italia 4-1 ở trận chung kết. Pelé kết thúc giải đấu với 4 bàn. Brazil giành chiếc cúp Jules Rimet lần thứ ba (quốc gia đầu tiên làm được như vậy). Điều này có nghĩa là họ đã được phép giữ chiếc cúp Jules Rimet vĩnh viễn.
Suy yếu (1974-90)[sửa | sửa mã nguồn]
Với việc Pelé giải nghệ, Brazil đã không thể vượt qua Hà Lan tại World Cup 1974 ở Tây Đức, và sau khi thua Ba Lan 1-0 ở trận tranh giải ba, họ kết thúc giải ở vị trí thứ tư. Brazil sau đó cũng bị loại tại vòng bảng thứ hai của World Cup 1978 dù không để thua trận đấu nào do thua kém Argentina về hiệu số bàn thắng bại.
Tại World Cup 1982 tổ chức ở Tây Ban Nha, Brazil là được xem là ứng cử viên số 1 cho ngôi vô địch, và trên thực tế họ đã dễ dàng vượt qua vòng bảng, nhưng họ đã bị loại sau thất bại 2-3 ở sân Camp Nou (hay còn gọi là Nou Camp) trước Ý, trong một trận đấu được coi là kinh điển của lịch sử World Cup. Đội tuyển Brazil năm 1982, với những hảo thủ như Sócrates, Zico, Falcão và Éder, được xem là đội bóng vĩ đại nhất không bao giờ giành được một chức vô địch World Cup.
Tại World Cup 1986 ở Mexico, Brazil vẫn là một đội bóng rất mạnh và kỷ luật hơn nhiều so với bốn năm trước đó, tuy vậy họ đã bị đội tuyển Pháp của Michel Platini loại ở tứ kết.
Năm 1989, Brazil giành danh hiệu Copa America đầu tiên kể từ năm 1949.
Tại World Cup 1990 ở Ý, Brazil đã được huấn luyện bởi Sebastião Lazaroni, đã từng là huấn luyện viên tại Copa América 1989. Với một chiến thuật nghiêng về phòng thủ, với nòng cốt là tiền vệ Dunga, đội bóng thiếu sáng tạo Brazil đã bị loại bởi Argentina của Diego Maradona ngay tại vòng 16 đội ở Turin với tỉ số 1-0.
Trở lại với đỉnh cao (1994-2002)[sửa | sửa mã nguồn]
Brazil đã trải qua 24 năm mà không giành chiến thắng một kỳ World Cup nào. Họ cuối cùng cũng trở lại với đỉnh cao tại giải đấu năm 1994 ở Hoa Kỳ, nơi một đội tuyển Brazil đầy thực dụng của những Romario, Bebeto, Dunga, Cláudio Taffarel và Jorginho đã lập kỉ lục trở thành đội đầu tiên bốn lần vô địch thế giới. Họ đánh bại chủ nhà Hoa Kỳ 1-0 tại vòng 16 ở San Francisco, một chiến thắng 3-2 trước Hà Lan ở vòng tứ kết tại Dallas, và chiến thắng 1-0 trước Thụy Điển ở vòng bán kết tại Los Angeles. Họ vượt qua Italia của Roberto Baggio trên chấm phạt đền trong trận chung kết để lên ngôi vô địch.
Tại World Cup 1998, đội tuyển Brazil chấp nhận ngôi á quân sau khi để thua 0-3 trước chủ nhà Pháp trong trận đấu cuối cùng. Ngôi sao lớn nhất của họ trong giải đấu năm đó, Ronaldo bất ngờ lên cơn động kinh bí ẩn ngay trước khi trận đấu chung kết diễn ra [11].
4 năm sau, "Bộ Ba R" (Ronaldo, Rivaldo và Ronaldinho) đã đưa đội tuyển Brazil giành chức vô địch thế giới thứ năm tại World Cup 2002, giải đấu được tổ chức ở 2 quốc gia Hàn Quốc và Nhật Bản. Brazil giành vé vào vòng 16 với vị trí đầu bảng sau khi đánh bại cả ba đối thủ là Thổ Nhĩ Kỳ, Costa Rica và Trung Quốc. Sau đó Brazil đã đánh bại Bỉ 2–0 tại Kobe ở vòng 16 với hai bàn thắng của Rivaldo và Ronaldo. Đối đầu với đội tuyển Anh trong trận tứ kết ở Shizuoka, họ thắng 2–1, với bàn thắng ấn định tỉ số tới từ một cú đá phạt tuyệt đẹp của Ronaldinho. Trận bán kết tái đấu Thổ Nhĩ Kỳ ở Saitama; Brazil thắng 1–0 với Ronaldo là người ghi bàn duy nhất. Trong trận chung kết giữa Đức và Brazil ở Yokohama, Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2–0 của Brazil. Ronaldo cũng đã giành được danh hiệu Chiếc giày vàng khi là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu năm đó với 8 bàn thắng.
Từ 2004 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]
Brazil đã giành được chức vô địch Copa América năm 2004, chức vô địch lần thứ ba của họ trong bốn lần tham dự kể kể từ năm 1997[12]. Brazil cũng đã giành được danh hiệu FIFA Confederations Cup lần thứ hai vào năm 2005[13]. Huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira đã xây dựng đội hình của Brazil với sơ đồ 4-2-2-2. Với biệt danh là "Bộ tứ ma thuật", hàng tấn công của Brazil giai đoạn này được xây dựng xung quanh bốn ngôi sao: Ronaldo, Adriano, Kaká và Ronaldinho.
World Cup 2006[sửa | sửa mã nguồn]
Tại World Cup 2006 trên đất Đức, Brazil đã thắng cả hai trận đầu tiên gặp Croatia (1–0) và Australia (2–0). Trong trận đấu cuối vòng bảng với Nhật Bản, Brazil thắng 4–1. Ronaldo ghi hai bàn và san bằng kỷ lục của huyền thoại người Đức Gerd Muller để trở thành cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử các kỳ World Cup. Ở vòng 16, Brazil đánh bại Ghana 3–0. Với một bàn ghi được trong trận đấu này, Ronaldo đã có bàn thắng thứ 15 của anh tại World Cup, chính thức phá kỷ lục của Gerd Muller. Tuy nhiên đội tuyển Brazil đã bị loại ở vòng tứ kết khi đối đầu với đội tuyển Pháp, họ thua đau 0-1 với bàn thắng duy nhất của tiền đạo Henry.
Dunga được thuê làm HLV trưởng mới của đội tuyển Brazil vào năm 2006. Brazil sau đó đã giành được chức vô địch tại Copa América 2007, giải đấu mà Robinho đã đoạt được cả danh hiệu Chiếc giày vàng cũng như danh hiệu cầu thủ hay nhất của giải đấu. Hai năm sau, Brazil đã giành được FIFA Confederations Cup năm 2009 sau khi đánh bại Mỹ 3-2 trong trận chung kết, dù họ bị dẫn trước hai bàn. Đây đã là danh hiệu Confederations Cup lần thứ ba của họ. Kaká được vinh danh là cầu thủ hay nhất của giải đấu trong khi tiền đạo Luís Fabiano đã giành được giải thưởng cầu thủ ghi bàn nhiều nhất giải.
World Cup 2010[sửa | sửa mã nguồn]
Tại World Cup 2010 ở Nam Phi, Brazil đã thắng hai trận đầu tiên ở vòng bảng trước Bắc Triều Tiên (2–1) và Bờ Biển Ngà (3–1). Trận đấu cuối cùng của họ ở vòng bảng là trận đấu với Bồ Đào Nha của ngôi sao Cristiano Ronaldo, đã kết thúc với tỉ số hòa 0-0. Họ đã gặp Chile trong vòng 16 và đã chiến thắng giòn giã 3–0, mặc dù trong trận tứ kết họ đã để thua đội tuyển Hà Lan với tỉ số 1-2 và chính thức nói lời chia tay giải đấu.
Vào tháng 7 năm 2010, Mano Menezes được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của đội tuyển Brazil [14]. Tại Copa América 2011, Brazil đã để thua trước Paraguay sau loạt đá luân lưu và bị loại ở ngay vòng tứ kết. Kết quả này đã khiến HLV Mano Menezes bị sa thải vào tháng 11 năm 2012, và được thay thế bởi Luiz Felipe Scolari. Vào ngày 6 tháng 6 năm 2013, Brazil đã tụt xuống vị trí thứ 22 trong bảng xếp hạng FIFA, thứ hạng thấp nhất của họ từ trước tới nay [15]. Brazil đăng cai tổ chức giải đấu 2013 FIFA Confederations Cup với mục tiêu bảo vệ chức vô địch của họ. Trong trận chung kết, Brazil phải đối mặt với đương kim vô địch thế giới Tây Ban Nha nhưng họ đã giành chiến thắng 3–0 và đoạt danh hiệu Confederations Cup lần thứ tư của họ. Tiền đạo Neymar đoạt Giải thưởng Quả bóng Vàng của giải đấu, trong khi thủ môn Júlio César đã giành Giải Găng tay vàng cho thủ môn xuất sắc nhất của giải đấu.
World Cup 2014[sửa | sửa mã nguồn]
Trong trận mở màn của World Cup 2014 gặp Croatia, hai bàn thắng của Neymar và một bàn của Oscar đã giúp Selecao giành chiến thắng với tỉ số 3-1 trong trận đấu ra quân của họ tại kỳ World Cup được tổ chưc trên sân nhà.[16] Brazil sau đó đã có trận hòa không bàn thắng với Mexico, trong một trận đấu mà thủ môn Mexico là Guillermo Ochoa đã chơi xuất thần[17], trước khi giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp bằng chiến thắng 4-1 trước Cameroon ở lượt đấu cuối, với Neymar một lần nữa ghi hai bàn, và Fred và Fernandinho mỗi người ghi một bàn thắng[18]. Brazil phải đối mặt với Chile tại vòng 16, họ dẫn trước sau 18 phút thi đấu với bàn thắng đầu tiên của David Luiz, trước khi kết thúc thời gian thi đấu chính thức với tỉ số hòa 1-1. Brazil giành quyền vào tứ kết sau chiến thắng kịch tính 3-2 ở loạt sút luân lưu.[19]
Đội bóng một lần nữa phải đối mặt với một đối thủ khác tới từ Nam Mỹ trong trận tứ kết và đánh bại Colombia 2-1 với những bàn thắng của trung vệ David Luiz và đội trưởng Thiago Silva. Vào cuối trận đấu, Neymar bị dinh chấn thương sau khi bị đầu gối của hậu vệ Colombia Juan Camilo Zúñiga chạm vào lưng. Chấn thương đã khiến Neymar buộc phải nghỉ thi đấu trong phần còn lại của giải đấu[20]. Brazil cũng phải đối mặt với những vấn đề khác trước trận bán kết gặp Đức, đội trưởng Thiago Silva bị treo giò khi đã nhận đủ hai thẻ vàng tại giải đấu.[21]
Brazil để thua 1-7 trước Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức ở bán kết, đây là thất bại đậm nhất trong lịch sử đội tuyển bóng đá Brazil[22]. Họ tiếp tục để thua 0-3 trước Hà Lan ở trận tranh hạng ba[23]. Với 14 bàn thua sau 7 trận, Brazil là đội bóng bị lọt lưới nhiều nhất giải đấu, cũng là đội bóng chủ nhà bị lọt lưới nhiêu nhất tại một kỳ World Cup từ trước đến nay.[24]
World Cup 2018[sửa | sửa mã nguồn]
Brasil khởi đầu chiến dịch World Cup 2018 của họ với trận hòa 1-1 trước Thụy Sĩ - bàn thắng duy nhất của đội tuyển Brazil đến từ pha dứt điểm đẹp mắt của Philippe Coutinho - trận hòa đầu tiên của họ trong một trận mở màn World Cup kể từ năm 1978. Tuy nhiên, trong trận thứ hai của vòng bảng, họ đã thắng Costa Rica 2-0 nhờ những bàn thắng đẹp mắt của Coutinho và Neymar ở những phút bù giờ. Ở lượt trận cuối cùng gặp Serbia, Brasil tiếp tục giành chiến thắng với tỉ số tương tự nhờ các pha lập công của Paulinho và Thiago Silva, giúp vũ công Samba đứng vị trí nhất bảng E với 7 điểm. Ở vòng 1/8 gặp đối thủ sừng sỏ México, họ tiếp tục vượt qua El Tri cũng với tỉ số 2-0 bằng các pha lập công của Neymar và Roberto Firmino ở những phút hiệp 2, giúp đội tuyển Brasil lọt vào tứ kết. Tuy nhiên các vũ công Samba một lần nữa phải dừng bước ở tứ kết sau thất bại 1-2 trước đội tuyển Bỉ và đành ngậm ngùi chia tay giải đấu. Kết thúc giải đấu, Neymar và các đồng đội lại lỗi hẹn với chức vô địch World Cup thêm một lần nữa.
Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch thế giới: 5 (kỷ lục)
- Vô địch Liên đoàn châu lục: 4 (kỷ lục)
- Vô địch (9): 1919; 1922; 1949; 1989; 1997; 1999; 2004; 2007; 2019
- Á quân (12): 1921; 1925; 1937; 1945; 1946; 1953; 1957; 1959; 1983; 1991; 1995; 2021
- Hạng ba (7): 1916; 1917; 1920; 1942; 1959; 1975; 1979
Thành tích[sửa | sửa mã nguồn]
Giải vô địch bóng đá thế giới[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Kết quả | St | T | H [25] | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|---|
![]() |
Vòng 1 | 2 | 1 | 0 | 1 | 5 | 2 |
![]() |
1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 | |
![]() |
Hạng ba | 5 | 3 | 1 | 1 | 14 | 11 |
![]() |
Á quân | 6 | 4 | 1 | 1 | 22 | 6 |
![]() |
Tứ kết | 3 | 1 | 1 | 1 | 8 | 5 |
![]() |
Vô địch | 6 | 5 | 1 | 0 | 16 | 4 |
![]() |
Vô địch | 6 | 5 | 1 | 0 | 14 | 5 |
![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 6 |
![]() |
Vô địch | 6 | 6 | 0 | 0 | 19 | 7 |
![]() |
Hạng tư | 7 | 3 | 2 | 2 | 6 | 4 |
![]() |
Hạng ba | 7 | 4 | 3 | 0 | 10 | 3 |
![]() |
Vòng 2 | 5 | 4 | 0 | 1 | 15 | 6 |
![]() |
Tứ kết | 5 | 4 | 1 | 0 | 10 | 1 |
![]() |
Vòng 2 | 4 | 3 | 0 | 1 | 4 | 2 |
![]() |
Vô địch | 7 | 5 | 2 | 0 | 11 | 3 |
![]() |
Á quân | 7 | 4 | 1 | 2 | 14 | 10 |
![]() ![]() |
Vô địch | 7 | 7 | 0 | 0 | 18 | 4 |
![]() |
Tứ kết | 5 | 4 | 0 | 1 | 10 | 2 |
![]() |
5 | 3 | 1 | 1 | 9 | 4 | |
![]() |
Hạng tư | 7 | 3 | 2 | 2 | 11 | 14 |
![]() |
Tứ kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 3 |
![]() |
5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 3 | |
![]() ![]() ![]() |
Chưa xác định | ||||||
Tổng cộng | 22/22 5 lần: Vô địch |
114 | 76 | 19 | 19 | 237 | 108 |
Cúp Liên đoàn các châu lục[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Kết quả | St | T | H [25] | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1992 | Không giành quyền tham dự | ||||||
1995 | |||||||
![]() |
Vô địch | 5 | 4 | 1 | 0 | 14 | 2 |
![]() |
Á quân | 5 | 4 | 0 | 1 | 16 | 6 |
![]() ![]() |
Hạng tư | 5 | 1 | 2 | 2 | 3 | 3 |
![]() |
Vòng 1 | 3 | 1 | 1 | 1 | 3 | 3 |
![]() |
Vô địch | 5 | 3 | 1 | 1 | 12 | 6 |
![]() |
5 | 5 | 0 | 0 | 14 | 5 | |
![]() |
5 | 5 | 0 | 0 | 14 | 3 | |
2017 | Không giành quyền tham dự | ||||||
Tổng cộng | 7/10 4 lần: Vô địch |
33 | 23 | 5 | 5 | 78 | 27 |
Cúp bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]
Copa América | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích |
Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
![]() |
Hạng ba | 3rd | 3 | 0 | 2 | 1 | 3 | 4 |
![]() |
3rd | 3 | 1 | 0 | 2 | 7 | 8 | |
![]() |
Vô địch | 1st | 4 | 3 | 1 | 0 | 12 | 3 |
![]() |
Hạng ba | 3rd | 3 | 1 | 0 | 2 | 1 | 8 |
![]() |
Á quân | 2nd | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 3 |
![]() |
Vô địch | 1st | 5 | 2 | 3 | 0 | 7 | 2 |
![]() |
Hạng tư | 4th | 3 | 0 | 0 | 3 | 2 | 5 |
1924 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Á quân | 2nd | 4 | '2 | 1 | 1 | 11 | 9 |
1926 | Bỏ cuộc | |||||||
1927 | ||||||||
1929 | ||||||||
1935 | ||||||||
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 4 | 0 | 2 | 17 | 11 |
1939 | Bỏ cuộc | |||||||
1941 | ||||||||
![]() |
Hạng ba | 3rd | 6 | 3 | 1 | 2 | 15 | 7 |
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 5 | 0 | 1 | 19 | 5 |
![]() |
2nd | 5 | 3 | 1 | 1 | 13 | 7 | |
1947 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Vô địch | 1st | 8 | 7 | 0 | 1 | 46 | 7 |
![]() |
Á quân | 2nd | 7 | 4 | 0 | 3 | 17 | 9 |
1955 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Hạng tư | 4th | 5 | 2 | 2 | 1 | 4 | 5 |
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 4 | 0 | 2 | 23 | 9 |
![]() |
2nd | 6 | 4 | 2 | 0 | 17 | 7 | |
![]() |
Hạng ba | 3rd | 4 | 2 | 0 | 2 | 7 | 10 |
![]() |
Hạng tư | 4th | 6 | 2 | 1 | 3 | 12 | 13 |
1967 | Bỏ cuộc | |||||||
![]() |
Hạng ba | 3rd | 6 | 5 | 0 | 1 | 16 | 4 |
![]() |
3rd | 6 | 2 | 2 | 2 | 10 | 9 | |
![]() |
Á quân | 2nd | 8 | 2 | 4 | 2 | 8 | 5 |
![]() |
Vòng bảng | 5th | 2 | 1 | 0 | 1 | 5 | 4 |
![]() |
Vô địch | 1st | 7 | 5 | 2 | 0 | 11 | 1 |
![]() |
Á quân | 2nd | 7 | 4 | 1 | 2 | 12 | 8 |
![]() |
Tứ kết | 5th | 4 | 1 | 2 | 1 | 6 | 4 |
![]() |
Á quân | 2nd | 6 | 4 | 2 | 0 | 10 | 3 |
![]() |
Vô địch | 1st | 6 | 6 | 0 | 0 | 22 | 3 |
![]() |
1st | 6 | 6 | 0 | 0 | 17 | 2 | |
![]() |
Tứ kết | 6th | 4 | 2 | 0 | 2 | 5 | 4 |
![]() |
Vô địch | 1st | 6 | 3 | 2 | 1 | 13 | 6 |
![]() |
1st | 6 | 4 | 1 | 1 | 15 | 5 | |
![]() |
Tứ kết | 8th | 4 | 1 | 3 | 0 | 6 | 4 |
![]() |
5th | 4 | 2 | 1 | 1 | 5 | 4 | |
![]() |
Vòng bảng | 9th | 3 | 1 | 1 | 1 | 7 | 2 |
![]() |
Vô địch | 1st | 6 | 4 | 2 | 0 | 13 | 1 |
![]() |
Á quân | 2nd | 7 | 5 | 1 | 1 | 12 | 3 |
![]() |
Chưa xác định | |||||||
Tổng cộng | 8 lần vô địch |
37/47 | 191 | 110 | 38 | 45 | 430 | 204 |
Thế vận hội Mùa hè[sửa | sửa mã nguồn]
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Thế vận hội Mùa hè | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích |
Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua | |
1900 | Không tham dự | ||||||||
1904 | |||||||||
1908 | |||||||||
1912 | |||||||||
1920 | |||||||||
1924 | |||||||||
1928 | |||||||||
1936 | |||||||||
1948 | |||||||||
![]() |
Tứ kết | 6th | 3 | 2 | 0 | 1 | 9 | 6 | |
1956 | Không tham dự | ||||||||
![]() |
Vòng bảng | 6th | 3 | 2 | 0 | 1 | 10 | 6 | |
![]() |
9th | 3 | 1 | 1 | 1 | 5 | 2 | ||
![]() |
11th | 3 | 0 | 2 | 1 | 4 | 5 | ||
![]() |
12th | 3 | 0 | 1 | 2 | 4 | 6 | ||
![]() |
Hạng tư | 4th | 5 | 2 | 1 | 2 | 6 | 6 | |
1980 | Không vượt qua vòng loại | ||||||||
![]() |
Huy chương bạc | 2nd | 6 | 4 | 1 | 1 | 9 | 5 | |
![]() |
2nd | 6 | 4 | 1 | 1 | 12 | 4 | ||
Tổng cộng | 2 lần huy chương bạc |
8/19 | 32 | 15 | 7 | 10 | 59 | 40 |
Đại hội Thể thao liên Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1995)
Đại hội Thể thao liên Mỹ | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Thành tích |
Thứ hạng |
Số trận |
Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng |
Bàn thua |
1951 | Không tham dự | |||||||
1955 | ||||||||
![]() |
Huy chương bạc | 2nd | 6 | 4 | 1 | 1 | 27 | 11 |
![]() |
Huy chương vàng | 1st | 4 | 3 | 1 | 0 | 18 | 3 |
1967 | Không tham dự | |||||||
1971 | ||||||||
![]() |
Huy chương vàng | 1st | 6 | 5 | 1 | 0 | 33 | 2 |
![]() |
1st | 5 | 5 | 0 | 0 | 14 | 1 | |
![]() |
Huy chương bạc | 2nd | 3 | 2 | 0 | 1 | 3 | 1 |
![]() |
Huy chương vàng | 1st | 5 | 4 | 1 | 0 | 10 | 2 |
1991 | Không tham dự | |||||||
![]() |
Tứ kết | 5th | 4 | 2 | 2 | 0 | 5 | 2 |
Tổng cộng | 4 lần huy chương vàng |
7/12 | 33 | 25 | 6 | 2 | 110 | 22 |
Lịch thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
2023[sửa | sửa mã nguồn]
25 tháng 3 Giao hữu | Maroc ![]() |
2–1 | ![]() |
Tangier, Maroc |
---|---|---|---|---|
22:00 UTC+1 | Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động Ibn Batouta Lượng khán giả: 63,500 Trọng tài: Sadek Selmi (Tunisia) |
17 tháng 6 Giao hữu | Brasil ![]() |
4–1 | ![]() |
Barcelona, Spain |
---|---|---|---|---|
21:30 UTC+2 | Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động RCDE Trọng tài: Andris Treismanis (Latvia) |
20 tháng 6 Giao hữu | Brasil ![]() |
2–4 | ![]() |
Lisbon, Bồ Đào Nha |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+1 |
|
Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động José Alvalade Trọng tài: Gustavo Correia (Bồ Đào Nha) |
8 tháng 9 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Brasil ![]() |
5–1 | ![]() |
Belém, Brasil |
---|---|---|---|---|
21:45 UTC-3 | Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động Mangueirão Lượng khán giả: 43,188 Trọng tài: Juan Benítez (Paraguay) |
12 tháng 9 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Peru ![]() |
0–1 | ![]() |
Lima, Peru |
---|---|---|---|---|
21:00 UTC-5 | Chi tiết |
|
Sân vận động: Sân vận động quốc gia Trọng tài: Fernando Rapallini (Argentina) |
13 tháng 10 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Brasil ![]() |
v | ![]() |
Brasil |
---|---|---|---|---|
18 tháng 10 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Uruguay ![]() |
v | ![]() |
Montevideo, Uruguay |
---|---|---|---|---|
Sân vận động: Sân vận động Centenario |
16 tháng 11 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Colombia ![]() |
v | ![]() |
Barranquilla, Colombia |
---|---|---|---|---|
Sân vận động: Sân vận động Đô thị Roberto Meléndez |
21 tháng 11 Vòng loại FIFA World Cup 2026 | Brasil ![]() |
v | ![]() |
Brasil |
---|---|---|---|---|
Cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]
Đội hình hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]
Đây là đội hình tham dự 2 trận giao hữu gặp Guinée và Sénégal vào tháng 6 năm 2023.
Số liệu thống kê tính đến ngày 20 tháng 6 năm 2023 sau trận gặp Sénégal.
Số | VT | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Trận | Bàn | Câu lạc bộ |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | TM | Alisson | 2 tháng 10, 1992 | 61 | 0 | ![]() |
12 | TM | Weverton | 13 tháng 12, 1987 | 10 | 0 | ![]() |
23 | TM | Ederson | 17 tháng 8, 1993 | 21 | 0 | ![]() |
2 | HV | Danilo | 15 tháng 7, 1991 | 51 | 1 | ![]() |
3 | HV | Éder Militão | 18 tháng 1, 1998 | 30 | 2 | ![]() |
4 | HV | Marquinhos (đội phó) | 14 tháng 5, 1994 | 78 | 6 | ![]() |
6 | HV | Alex Telles | 15 tháng 12, 1992 | 12 | 0 | ![]() |
13 | HV | Vanderson | 21 tháng 6, 2001 | 1 | 0 | ![]() |
14 | HV | Robert Renan | 11 tháng 10, 2003 | 0 | 0 | ![]() |
15 | HV | Roger Ibañez | 23 tháng 11, 1998 | 2 | 0 | ![]() |
16 | HV | Ayrton Lucas | 19 tháng 6, 1997 | 2 | 0 | ![]() |
5 | TV | Casemiro (đội trưởng) | 23 tháng 2, 1992 | 71 | 7 | ![]() |
7 | TV | Lucas Paquetá | 27 tháng 8, 1997 | 42 | 9 | ![]() |
8 | TV | Bruno Guimarães | 16 tháng 11, 1997 | 12 | 1 | ![]() |
17 | TV | André | 16 tháng 7, 2001 | 1 | 0 | ![]() |
18 | TV | Joelinton | 14 tháng 8, 1996 | 2 | 1 | ![]() |
20 | TV | Raphael Veiga | 19 tháng 6, 1995 | 3 | 0 | ![]() |
9 | TĐ | Richarlison | 10 tháng 5, 1997 | 44 | 20 | ![]() |
10 | TĐ | Vinícius Júnior | 12 tháng 7, 2000 | 23 | 3 | ![]() |
11 | TĐ | Rodrygo | 9 tháng 1, 2001 | 14 | 2 | ![]() |
19 | TĐ | Pedro | 20 tháng 6, 1997 | 6 | 1 | ![]() |
21 | TĐ | Malcom | 26 tháng 2, 1997 | 2 | 0 | ![]() |
22 | TĐ | Rony | 11 tháng 5, 1995 | 3 | 0 | ![]() |
Triệu tập gần đây[sửa | sửa mã nguồn]
Vt | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Số trận | Bt | Câu lạc bộ | Lần cuối triệu tập |
---|---|---|---|---|---|---|
TM | Mycael | 12 tháng 3, 2004 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Nino | 10 tháng 4, 1997 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Renan Lodi | 8 tháng 4, 1998 | 16 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Emerson | 14 tháng 1, 1999 | 8 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Bremer | 18 tháng 3, 1997 | 3 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Arthur | 17 tháng 3, 2003 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
HV | Dani Alves | 6 tháng 5, 1983 | 126 | 8 | Free agent | 2022 FIFA World Cup |
HV | Thiago Silva | 22 tháng 9, 1984 | 113 | 7 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
HV | Alex Sandro | 26 tháng 1, 1991 | 40 | 2 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TV | Andrey Santos | 3 tháng 5, 2004 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | João Gomes | 12 tháng 2, 2001 | 0 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TV | Fred | 5 tháng 3, 1993 | 32 | 0 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TV | Fabinho | 23 tháng 10, 1993 | 29 | 0 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TV | Éverton Ribeiro | 10 tháng 4, 1989 | 22 | 3 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TĐ | Antony | 24 tháng 2, 2000 | 16 | 2 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Yuri Alberto | 18 tháng 3, 2001 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Vitor Roque | 28 tháng 2, 2005 | 1 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Neymar | 5 tháng 2, 1992 | 124 | 77 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TĐ | Gabriel Jesus | 3 tháng 4, 1997 | 59 | 19 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TĐ | Raphinha | 14 tháng 12, 1996 | 16 | 5 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TĐ | Gabriel Martinelli | 18 tháng 6, 2001 | 6 | 0 | ![]() |
2022 FIFA World Cup |
TĐ | Roberto Firmino | 2 tháng 10, 1991 | 55 | 17 | ![]() |
v. ![]() |
TĐ | Matheus Cunha | 27 tháng 5, 1999 | 8 | 0 | ![]() |
v. ![]() |
|
Cầu thủ xuất sắc[sửa | sửa mã nguồn]
Dưới đây là danh sách các cầu thủ xuất sắc từng khoác áo đội tuyển Brasil.
Huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]
Một số huấn luyện viên trong lịch sử.
Kỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]
Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

- Tính đến ngày 11 tháng 9 năm 2023
- Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
# | Cầu thủ | Số trận | Bàn thắng | Thời gian thi đấu |
---|---|---|---|---|
1 | Cafu | 142 | 5 | 1990–2006 |
2 | Dani Alves | 126 | 8 | 2006–2022 |
3 | Roberto Carlos | 125 | 11 | 1992–2006 |
4 | Neymar | 125 | 79 | 2010– |
5 | Thiago Silva | 113 | 7 | 2008–2022 |
6 | Lúcio | 105 | 4 | 2000–2011 |
7 | Cláudio Taffarel | 101 | 0 | 1988–1998 |
8 | Robinho | 100 | 28 | 2003–2015 |
9 | Djalma Santos | 98 | 3 | 1952–1968 |
Ronaldo | 98 | 62 | 1994–2011 |
Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

- Tính đến ngày 11 tháng 9 năm 2023[26]
- Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
# | Cầu thủ | Bàn thắng | Số trận | Hiệu suất | Thời gian thi đấu |
---|---|---|---|---|---|
1 | Neymar | 79 | 125 | 0.62 | 2010– |
2 | Pelé | 77 | 91 | 0.85 | 1957–1971 |
3 | Ronaldo | 62 | 98 | 0.63 | 1994–2011 |
4 | Romário | 55 | 70 | 0.79 | 1987–2005 |
5 | Zico | 48 | 71 | 0.67 | 1976–1986 |
6 | Bebeto | 39 | 75 | 0.52 | 1985–1998 |
7 | Rivaldo | 35 | 74 | 0.46 | 1993–2003 |
8 | Jairzinho | 33 | 81 | 0.40 | 1964–1982 |
Ronaldinho | 33 | 97 | 0.34 | 1999–2013 | |
10 | Ademir | 32 | 39 | 0.82 | 1945–1953 |
Tostão | 32 | 54 | 0.59 | 1966–1972 |
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Ruy Castro, Andrew Downie (translator) (2005). Garrincha - The triumph and tragedy of Brazil's forgotten footballing hero. Yellow Jersey Press, London. ISBN 0-224-06433-9.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 20 tháng 7 năm 2023. Truy cập 20 tháng 7 năm 2023.
- ^ Đây là lần đầu tiên Brasil giữ vị trí số 1. Cụ thể những thời điểm Brazil giữ vị trí số 1 như sau: 9.1993, 4–5.1994, 7.1994, 9–12.1994, 2.1995, 4.1995–2.1996, 4–5.1996, 7–12.1996, 2.1997, 4.1997–5.1998, 7.1998–4.2001, 7.2002–5.2006, 7.2006–1.2007, 7–8.2007, 7–10.2009, 4–5.2010, 4-6.2017, 31.3.2023-5.4.2023
- ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập 30 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Argentina versus Brazil”. FIFA.com. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.[liên kết hỏng]
- ^ Napoleão, Antônio Carlos; Assaf, Roberto (2006). Seleção Brasileira 1914–2006. São Paulo: Mauad X. tr. 72. ISBN 85-7478-186-X.
- ^ “Brazil matches, ratings and points exchanged”. Eloratings.net. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
- ^ "World Cup History - The Facts and Stats", William Hill, ngày 28 tháng 5 năm 2006. URL accessed on ngày 15 tháng 6 năm 2006.
- ^ Team of the Year Award 2010 Lưu trữ 18 tháng 12 2010 tại Wayback Machine on the FIFA website
- ^ “Silêncio no Maracanã - Revista de História”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.
- ^ Jogos Eternos – Brasil 1×2 Uruguai 1950 | Imortais do Futebol
- ^ http://news.bbc.co.uk/sport3/worldcup2002/hi/history/newsid_1749000/1749324.stm
- ^ “Final of the 2004 CONMEBOL Copa America: Brazil, Argentina and a comeback for history”. copaamerica.com. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Bring on the World Cup, Germany Says – DW – 06/30/2005”. dw.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Brazil name Dunga's replacement as they rebuild for the next World Cup”. The Guardian. London: Guardian Media Group. Press Association. 24 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Netherlands go fifth in Fifa ranking”. Goal.com. 6 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2013.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 6 năm 2014). “Brazil 3-1 Croatia: Rực cháy vũ điệu Samba ngày khai màn”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (18 tháng 6 năm 2014). “Bảng A World Cup 2014, Brazil 0-0 Mexico: Tiếc cho Selecao!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VnExpress. “Brazil 4-1 Cameroon: Khi khó đã có Neymar”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (29 tháng 6 năm 2014). “Nhọc nhằn đánh bại Chile sau loạt 'đấu súng', Brazil vào tứ kết”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VnExpress. “Brazil 2-1 Colombia: Chiến thắng xấu xí”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Brazil vs Germany match preview”. The Independent (bằng tiếng Anh). 8 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VnExpress. “Brazil 1-7 Đức: Bầu trời sụp đổ”. vnexpress.net. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 7 năm 2014). “Brazil 0-3 Hà Lan: Nỗi đau thêm dài!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Stats magic: the facts and figures to remember from World Cup 2014”. The Guardian (bằng tiếng Anh). 14 tháng 7 năm 2014. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ a b Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu
- ^ “Brazil – Record International Players”. RSSSF. ngày 7 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2009.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil. |
- Trang chủ Liên đoàn bóng đá Brasil Lưu trữ 2006-09-06 tại Wayback Machine
- Đội tuyển Brasil năm 1906- (tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha) Lưu trữ 2005-02-14 tại Wayback Machine
- Đội tuyển Brasil năm 1914- (Chỉ tính các trận đấu hạng "A") Lưu trữ 2004-12-10 tại Wayback Machine
- [1]