Ross Barkley
Barkley trong một buổi tập tại Chelsea năm 2019 | |||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Ross Barkley[1] | ||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 5 tháng 12, 1993 | ||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Liverpool, Anh | ||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,85 m (6 ft 1 in)[2] | ||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ | ||||||||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay | Aston Villa | ||||||||||||||||||||||
Số áo | 6 | ||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||
2005–2010 | Everton | ||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||
2010–2018 | Everton | 150 | (21) | ||||||||||||||||||||
2012 | → Sheffield Wednesday (mượn) | 13 | (4) | ||||||||||||||||||||
2013 | → Leeds United (mượn) | 4 | (0) | ||||||||||||||||||||
2018–2022 | Chelsea | 58 | (5) | ||||||||||||||||||||
2020–2021 | → Aston Villa (mượn) | 24 | (3) | ||||||||||||||||||||
2022–2023 | Nice | 27 | (4) | ||||||||||||||||||||
2023–2024 | Luton Town | 32 | (5) | ||||||||||||||||||||
2024– | Aston Villa | 0 | (0) | ||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||
2008–2009 | U-16 Anh | 7 | (2) | ||||||||||||||||||||
2009–2010 | U-17 Anh | 7 | (2) | ||||||||||||||||||||
2010–2012 | U-19 Anh | 12 | (0) | ||||||||||||||||||||
2013 | U-20 Anh | 4 | (0) | ||||||||||||||||||||
2011–2013 | U-21 Anh | 5 | (1) | ||||||||||||||||||||
2013– | Anh | 33 | (6) | ||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 30 tháng 1 năm 2021 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 22 tháng 11 năm 2020 |
Ross Barkley (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1993) là cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Aston Villa.
Barkley bắt đầu sự nghiệp của mình tại Everton và được ra sân tại Premier League lần đầu tiên vào năm 2011. Anh cũng từng có khoảng thời gian thi đấu cho Sheffield Wednesday và Leeds United theo thỏa thuận cho mượn từ Everton. Tháng 1 năm 2018, anh chuyển đến Chelsea. Rời Chelsea vào mùa hè năm 2022, anh đến Pháp thi đấu một mùa giải cho Nice trước khi trở về Anh khoác áo Luton Town và sau này là Aston Villa (2024)
Barkley lần đầu tiên được triệu tập vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh vào tháng 8 năm 2013 và có giải đấu lớn đầu tiên tham gia là World Cup 2014. Đến Euro 2016 anh tiếp tục được triệu tập nhưng không có cơ hội được ra sân.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Everton
[sửa | sửa mã nguồn]Ross Barkley gia nhập Everton vào năm 11 tuổi. Anh được đưa vào đội bình dự bị của đội một Everton trong các trận đấu đầu tiên của mùa giải 2010-11 và được kỳ vọng sẽ sớm có trận ra mắt tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh[3] trước khi bị gãy chân sau một pha va chạm trong trận đấu của đội tuyển U-19 Anh vào tháng 10 năm 2010.[4]
Anh trở lại sau chấn thương và có mặt trong đội một của Everton tham dự các trận giao hữu trước mùa giải 2011–12. Anh có trận đấu chính thức đầu tiên cho Everton và tại Premier League trong trận thua 1-0 trước Queens Park Rangers ngày 20 tháng 8 năm 2011.[5] Màn trình diễn xuất sắc của Barkley trong trận này khiến cho cựu hậu vệ Martin Keown khen ngợi anh "[Barkley sẽ là] một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của đất nước này."[6] Barkley ký hợp đồng mới có thời hạn bốn năm rưỡi với Everton vào tháng 12 năm 2011.[7]
Ngày 14 tháng 9 năm 2012, Barkley đến Sheffield Wednesday theo hợp đồng cho mượn có thời hạn một tháng[8] và ngay lập tức được ra sân trong trận đấu với Brighton & Hove Albion.[9] Một tuần sau đó trong trận đấu với Bolton Wanderers, anh có bàn thắng đầu tiên cho Wednesday.[10] Sau mười ba trận đấu cho Wednesday, anh được Everton triệu hồi.[11] Tháng 1 năm 2013, anh lại được đem cho Leeds United mượn và có trận đầu tiên cho Leeds gặp Barnsley.
2013-14
[sửa | sửa mã nguồn]Barkley trở lại đội một Everton từ đầu mùa giải 2013-14. Anh trở thành cầu thủ đầu tiên của Everton ghi bàn tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2013-14 và đây cũng là bàn thắng đầu tiên của anh cho câu lạc bộ trong trận hòa 2-2 trước Norwich City.[12][13] Ngày 30 tháng 9, anh có bàn thắng thứ hai với pha lập công trong chiến thắng 3-2 trước Newcastle United.[14] Ngày 22 tháng 12, anh ghi bàn thắng ấn định chiến thắng 2-1 trước Swansea City.[15]
Barkley có bàn thắng đầu tiên cho Everton tại đấu trường Cúp FA vào ngày 4 tháng 1 năm 2014 trong chiến thắng 4–0 trước Queens Park Rangers.[16] Trong chiến thắng 3-0 của Everton trước Newcastle ngày 26 tháng 3, Barkley đã có bàn thắng tuyệt đẹp khi từ vị trí giữa sân đã đi bóng qua hàng loạt hậu vệ Newcastle trước khi dứt điểm chân trái hạ gục thủ thành Tim Krul.[17]
Ngày 18 tháng 4 năm 2014, anh có tên trong danh sách rút gọn sáu cầu thủ cho danh hiệu Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (PFA).[18] Ngày 3 tháng 5 năm 2014, Barkley có bàn thắng thứ sáu trong mùa giải vào lưới Manchester City, được BBC Sport miêu tả là "ngoạn mục" và bàn thắng này đã được chọn là bàn thắng đẹp nhất trong mùa giải 2013-14 của câu lạc bộ Everton.[19][20]
2014-15
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 29 tháng 7 năm 2014, Barkley ký hợp đồng mới Everton, theo đó anh sẽ gắn bó với câu lạc bộ đến năm 2018.[21] Ngay đầu mùa giải, Barkley bị chấn thương dây chằng đầu gối và phải nghỉ thi đấu 8 tháng.[22] Đến ngày 18 tháng 10 năm 2014, trong trận đấu đầu tiên trở lại sau chấn thương gặp Aston Villa, anh đã chuyền cho tiền đạo Romelu Lukaku ghi bàn nâng tỉ số lên 2-0 trong chiến thắng 3-0 chung cuộc.[23]
Ngày 15 tháng 12, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trong chiến thắng 3-1 trước Queens Park Rangers.[24] Ba tháng sau đó, anh có bàn thắng thứ hai, lần này là trong chiến thắng 3-0 trước Newcastle United.[25]
Barkley là người ghi bàn thắng đầu tiên cho Everton trong mùa giải 2016–17 trong trận hòa 1-1 với Tottenham Hotspur.[26]
Vào ngày cuối kỳ chuyển nhượng mùa hè 2017, anh đã tiến rất gần đến việc trở thành cầu thủ của Chelsea nhưng thương vụ bị đổ vỡ vào phút chót do chấn thương của Barkley và bản thân anh mong muốn có thêm cơ hội để cân nhắc quyết định chính thức. Cũng do chấn thương gân kheo, Barkley không thi đấu trong nửa đầu mùa giải 2017-18.[27][28]
Chelsea
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 5 tháng 1 năm 2018, Barkley chính thức đến Chelsea với phí chuyển nhượng 15 triệu £ và bản hợp đồng có thời hạn 5 năm rưỡi.[29] Anh khoác áo số 8 mà huyền thoại Frank Lampard của Chelsea để lại.[30]
2018-19
[sửa | sửa mã nguồn]Barkley có trận đấu đầu tiên cho Chelsea trong trận thua 2–1 trước Arsenal tại trận lượt về bán kết Cúp EFL ngày 24 tháng 1 khi anh vào sân thay cho Willian bị chấn thương phải rời sân ngay trong hiệp 1.[31] Ngày 1 tháng 2, Barkley lần đầu được đá chính trong màu áo Chelsea trong trận đấu tại Premier League với AFC Bournemouth nhưng Chelsea đã bất ngờ để thua đậm 3-0.[32] Anh có được danh hiệu đầu tiên cùng Chelsea khi kết thúc mùa giải 2017-18 là chức vô địch Cúp FA.
Ngày 7 tháng 10 năm 2018, Barkley có được bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong trận thắng 3-0 trước Southampton bằng một pha đệm bóng cận thành. Anh còn có một đường chuyền thành bàn trong trận này.[33] Ngày 20 tháng 10, sau khi vào sân thay cho Mateo Kovačić, Barkley giúp Chelsea cầm hòa Manchester United 2-2 với bàn thắng ở phút bù giờ cuối cùng 90+6.[34] Anh tiếp tục duy trì phong độ cao với một đường chuyền thành bàn và một bàn thắng trong trận thắng 4-0 trước Burnley ngày 28 tháng 10 và đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp Barkley ghi bàn trong ba trận đấu liên tiếp tại Premier League.[35]
Ngày 15 tháng 2 năm 2019, Barkley có bàn thắng đầu tiên cho Chelsea tại đầu trường Châu Âu trong trận thắng Malmö 2-1 tại lượt đi vòng 32 đội UEFA Europa League 2018-19. Anh tiếp tục lập công ở trận lượt về để giúp Chelsea thắng 5-1 chung cuộc.[36][37] Barkley ra sân ngay từ đầu trận Chung kết Cúp EFL 2019 với Manchester City, trận đấu mà Chelsea để thua 3-4 ở loạt sút luân lưu.[38]
Ngày 8 tháng 4, Barkley vào sân từ ghế dự bị đã có đường chuyền để Eden Hazard ấn định chiến thắng 2-0 trước West Ham United tại Premier League.[39] Anh có được danh hiệu vô địch Châu Âu đầu tiên cùng với Chelsea sau khi vào sân ở những phút cuối trận Chung kết UEFA Europa League 2019 đánh bại Arsenal 4-1.[40]
2019-20
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 17 tháng 9 năm 2019, Barkley đá hỏng quả phạt đền ở những phút cuối trận đầu đầu tiên của tân huấn luyện viên Frank Lampard tại đấu trường UEFA Champions League gặp Valencia, khiến Chelsea phải chịu thất bại 1-0.[41] Anh có pha lập công đầu tiên trong mùa giải ở trận thắng 7-1 trước Grimsby Town tại vòng 3 Cúp EFL 2019-20.[42] Cuối tháng 11, anh bị huấn luyện viên Frank Lampard chỉ trích vì sự thiếu chuyên nghiệp khi có hành động cởi trần nhảy trong một quán bar ở Dubai trong bối cảnh đang bị chấn thương mắt cá không đủ thể lực tham gia trận đấu lượt 5 vòng bảng Champions League với Valencia.[43]
Ngày 5 tháng 1 năm 2020, Barkley là người ấn định chiến thắng 2-0 cho Chelsea trong trận đấu vòng 3 Cúp FA 2019–20 với Nottingham Forest.[44] Đến trận đấu vòng 5 Cúp FA với Liverpool, anh có pha dốc bóng từ sát vạch giữa sân trước khi sút chéo góc đem về chiến thắng 2-0 cho Chelsea.[45] Ngày 28 tháng 6, Chelsea lọt vào bán kết cup FA nhờ bàn thắng duy nhất của Barkley trong cuộc đối đầu với Leicester City.[46] Ngày 4 tháng 7, anh ghi một bàn và kiến tạo một bàn để giúp Chelsea hạ Watford 3-0 ở vòng 33 Ngoại hạng Anh, qua đó trở lại top 4.[47]
Ngày 23 tháng 9 năm 2020, Barkley có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải mới tại trận thắng đậm Barnsley 6–0 vòng 3 Cúp EFL.[48]
Aston Villa (mượn)
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 30 tháng 9 năm 2020, Barkley được Chelsea đem cho Aston Villa mượn theo hợp đồng có thời hạn đến hết mùa bóng 2020-21.[49] Ngày 4 tháng 10, ngay trong trận đấu đầu tiên cho Aston Villa, Barkley đã có một pha lập công trong chiến thắng khó tin 7-2 trước đương kim vô địch Giải Ngoại hạng Anh Liverpool.[50] Hai tuần sau đó, anh ghi bàn thắng duy nhất trong cuộc đối đầu với Leicester City để đem về chiến thắng thứ tư liên tiếp cho Aston Villa tại Premier League và đội bóng của anh vươn lên vị trí nhì bảng.[51]
Ngày 8 tháng 11, trong chiến thắng 3-0 trước Arsenal, Barkley góp một kiến tạo cho Ollie Watkins và có 6 đường chuyển quyết định, được đánh giá là cầu thủ hay nhất trận.[52] Vào cuối tháng 11, anh dính chấn thương gân khoeo chỉ sau 5 phút đầu tiên trận gặp Brighton và phải nghỉ thi đấu 7 trận tại Premier League, trước khi trở lại trong cuộc đối đầu Manchester City ngày 20 tháng 1 năm 2021.[53] Ngày 30 tháng 1, Barkley có pha đánh đầu ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Southampton. Đây là bàn thắng bằng đầu đầu tiên của anh tại Premier League kể từ tháng 12 năm 2016.[54]
Trở lại Chelsea (2021-22)
[sửa | sửa mã nguồn]Barkley trở lại Chelsea trong mùa giải 2021-22. Ngày 14 tháng 5 năm 2022, anh được vào sân ở những phút cuối hiệp phụ thứ hai trận Chung kết Cúp FA 2022 với Liverpool và thực hiện thành công lượt sút luân lưu của mình nhưng chung cuộc Chelsea thất bại 6-5 sau 7 lượt sút.[55] Ngày 22 tháng 5, trong trận đấu cuối cùng của Barkley cho Chelsea cũng là trận đấu cuối cùng của Chelsea dưới thời Roman Abramovich, anh là người ấn định chiến thắng 2-1 cho Chelsea.[56] Barkley và Chelsea thống nhất chấm dứt hợp đồng ngày 29 tháng 8 năm 2022 sau khi Barkley ra sân 100 lần và ghi được 12 bàn thắng cho Chelsea.[57][58]
Nice
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 4 tháng 9 năm 2022, Barkley gia nhập đội bóng thi đấu tại Ligue 1 là Nice theo dạng chuyển nhượng tự do.[59]
Ngày 10 tháng 6 năm 2023, Barkley chính thức sẽ rời Nice khi hết hạn hợp đồng vào cuối tháng 6 năm 2023, sau khi có 28 trận và ghi được 4 bàn tại đội bóng nước Pháp.[60]
Luton Town
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 9 tháng 8 năm 2023, Barkley đồng ý chuyển tới khoác áo đội bóng mới thăng hạng Ngoại hạng Anh là Luton Town.[61]Anh có trận đấu đầu tiên cho câu lạc bộ trong thất bại 3-0 trước Chelsea vào ngày 25 tháng 8.[62]Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Luton trong trận thua 4–3 trên sân nhà trước Arsenal vào ngày 5 tháng 12.[63]
Aston Villa
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 1 tháng 7 năm 2024,Trang chủ của Aston Villa thông báo về sự trở lại của Ross Barkley khi anh ký vào bản hợp đồng có thời hạn 3 năm.Mức phí của thương vụ này không được tiết lộ.[64]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Các đội trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2008, khi mới 14 tuổi, Barkley đã được triệu tập vào đội tuyển U-16 Anh.[65]
Anh là thành viên của U-16 Anh tham dự Giải đấu Montaigu 2009, một giải đấu của các đội tuyển U-16 quốc gia và sau cùng đã đánh bại U-16 Đức trong trận chung kết để giành chức vô địch.[66] Một năm sau đó, anh cùng đội tuyển U-17 Anh giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu khi đánh bại U-17 Tây Ban Nha 2-1 trong trận chung kết.[67]
Tháng 9 năm 2011, Barkley có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển U-21 Anh.[68] Ngày 28 tháng 5 năm 2013, anh được huấn luyện viên Peter Taylor triệu tập vào đội hình tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2013.[69] Anh ghi được một bàn thắng cho đội tuyển U-21 Anh trong chiến thắng 6-0 trước U-21 Scotland ngày 13 tháng 8 năm 2013.[70]
Đội tuyển quốc gia Anh
[sửa | sửa mã nguồn]Barkley lần đầu tiên được triệu tập vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh vào tháng 8 năm 2013[71] và chính thức có trận đấu đầu tiên vào ngày 6 tháng 9 năm 2013 trong trận đấu tại khuôn khổ vòng loại World Cup 2014 với Moldova khi vào sân thay cho Jack Wilshere.[72][73]
Ngày 12 tháng 5 năm 2014, Barkley được huấn luyện viên Roy Hodgson đưa vào danh sách 23 cầu thủ Anh tham dự World Cup 2014 tại Brasil.[74] Anh có trận đấu đầu tiên tại đấu trường World Cup khi vào sân thay cho Danny Welbeck trong trận thua 1-2 trước Ý ngày 14 tháng 6 năm 2014.[75]
Barkley có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Anh trong trận thắng 6–0 trước San Marino tại vòng loại Euro 2016 ngày 5 tháng 9 năm 2015.[76] Ngày 25 tháng 3 năm 2019, anh lập một cú đúp và có một đường chuyền thành bàn giúp Anh thắng ngược 5-1 trên sân của Montenegro tại vòng loại Euro 2020.[77] Đến ngày 14 tháng 10 năm 2019, anh có thêm một cú đúp nữa trong màu áo "Tam Sư", lần này là trong chiến thắng đậm Bulgaria 6-0 cũng tại vòng loại Euro 2020.[78]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 17 tháng 9 năm 2024.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia[a] | Cúp liên đoàn[b] | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Everton | 2010–11[79] | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 0 | 0 | ||
2011–12[80] | 6 | 0 | 1 | 0 | 2 | 0 | — | — | 9 | 0 | ||||
2012–13[81] | 7 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | — | — | 9 | 0 | ||||
2013–14[82] | 34 | 6 | 3 | 1 | 1 | 0 | — | — | 38 | 7 | ||||
2014–15[83] | 29 | 2 | 2 | 0 | 0 | 0 | 5[c] | 0 | — | 36 | 2 | |||
2015–16[84] | 38 | 8 | 4 | 2 | 6 | 2 | — | — | 48 | 12 | ||||
2016–17[85] | 36 | 5 | 1 | 0 | 2 | 1 | — | — | 39 | 6 | ||||
2017–18[86] | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | ||||
Tổng cộng | 150 | 21 | 12 | 3 | 12 | 3 | 5 | 0 | — | 179 | 27 | |||
Sheffield Wednesday (mượn) | 2012–13[81] | Championship | 13 | 4 | — | — | — | — | 13 | 4 | ||||
Leeds United (mượn) | 2012–13[81] | 4 | 0 | — | — | — | — | 4 | 0 | |||||
Chelsea | 2017–18[86] | Premier League | 2 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | — | 4 | 0 | |
2018–19[87] | 27 | 3 | 3 | 0 | 5 | 0 | 12[c] | 2 | 1[d] | 0 | 48 | 5 | ||
2019–20[88] | 21 | 1 | 5 | 3 | 1 | 1 | 3[e] | 0 | 1[f] | 0 | 31 | 5 | ||
2020–21[89] | 2 | 0 | — | 1 | 1 | — | — | 3 | 1 | |||||
2021–22[90] | 6 | 1 | 2 | 0 | 3 | 0 | 3[e] | 0 | 0 | 0 | 14 | 1 | ||
Tổng cộng | 58 | 5 | 11 | 3 | 11 | 2 | 18 | 2 | 2 | 0 | 100 | 12 | ||
Aston Villa (mượn) | 2020–21[89] | Premier League | 24 | 3 | 0 | 0 | — | — | — | 24 | 3 | |||
Nice | 2022–23[91] | Ligue 1 | 27 | 4 | 1 | 0 | — | 0 | 0 | — | 28 | 4 | ||
Luton Town | 2023–24[92] | Premier League | 32 | 5 | 4 | 0 | 1 | 0 | — | — | 37 | 5 | ||
Aston Villa | 2024–25[93] | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1[e] | 0 | — | 4 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 201 | 28 | 16 | 3 | 19 | 4 | 18 | 2 | 2 | 0 | 256 | 37 |
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 14 tháng 10 năm 2019.[94]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Số lần ra sân | Số bàn thắng |
---|---|---|---|
Anh | 2013 | 3 | 0 |
2014 | 7 | 0 | |
2015 | 9 | 2 | |
2016 | 3 | 0 | |
2018 | 3 | 0 | |
2019 | 7 | 4 | |
Tổng cộng | 33 | 6 |
Bàn thắng quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 5 tháng 9 năm 2015 | Sân vận động San Marino, Serravalle, San Marino | San Marino | 3–0 | 6–0 | Vòng loại Euro 2016 |
2. | 12 tháng 10 năm 2013 | Sân vận động LFF, Vilnius, Litva | Litva | 1–0 | 3–0 | Vòng loại Euro 2016 |
3. | 25 tháng 3 năm 2019 | Sân vận động Podgorica City, Podgorica, Montenegro | Montenegro | 2–0 | 5–0 | Vòng loại Euro 2020 |
4. | 3–0 | |||||
5. | 14 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Quốc gia Vasil Levski, Sofia, Bulgaria | Bulgaria | 2–0 | 6–0 | Vòng loại Euro 2020 |
6. | 3–0 |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Chelsea
[sửa | sửa mã nguồn]- FA Cup: 2017–18
- UEFA Europa League: 2018–19
- FIFA Club World Cup: 2021
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-16 Anh
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải đấu Montaigu (1): 2009
U-17 Anh
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu (1): 2010
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Barclays Premier League Squad Numbers 2013/14”. Premier League. ngày 16 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2013.
- ^ “Player Profile: Ross Barkley”. Premier League. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2013.
- ^ Doyle, Ian (ngày 28 tháng 4 năm 2011). “Bank on Barkley to shine at Blues says boss Moyes”. Liverpool Daily Post. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Everton's Ross Barkley breaks leg on England U19 duty”. BBC Sport. ngày 14 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
- ^ Lewis, Andy (ngày 20 tháng 8 năm 2011). “Barkley handed debut”. Everton F.C. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Transfer deadline quotes of the day”. BBC Sport. ngày 31 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Teenager Ross Barkley signs long-term Everton contract”. BBC Sport. ngày 16 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Sheffield Wednesday sign Everton's Ross Barkley on loan”. BBC Sport. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.
- ^ "Brighton 3–0 Sheff Wed" BBC Sport. 14 tháng 9 năm 2012. Truy cập: 27 tháng 12 năm 2012.
- ^ "Sheffield Wed 1–2 Bolton" BBC Sport. 22 tháng 9 năm 2012. Truy cập: 22 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Barkley To Return To Blues”. Evertonfc.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Norwich 2–2 Everton”. BBC Sport. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Premier League: Everton draw 2–2 with Norwich at Carrow Road”. Sky Sports. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Everton 3 Newcastle 2 match report: Romelu Lukaku and Ross Barkley on target for Toffees as Magpies nearly stage comeback”. The Independent. ngày 1 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Swansea 1–2 Everton”. BBC Sport. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ Reddy, Luke (ngày 4 tháng 1 năm 2014). “Everton 4-0 QPR”. BBC Sport. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Newcastle 0–3 Everton”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2014.
- ^ “PFA Player of the Year award shortlist: Gerrard and Lallana nominated”. The Guardian. ngày 18 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Everton 2 Manchester City 3”. BBC Sport. ngày 3 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Seamus Coleman is Toffees' player of the season while Ross Barkley wins best goal for Man City strike at Everton awards”. Mail Online. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Ross Barkley signs £65,000 four-year deal to stay at Everton until 2018”. Mail Online. ngày 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Roberto Martínez: Ross Barkley may make Everton return in eight weeks”. The Guardian. ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Everton 3-0 Aston Villa: Ross Barkley makes his big comeback as Toffees defeat Paul Lambert's men at Goodison Park”. Mail Online. ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Everton 3-1 QPR”. BBC. ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Everton 3-0 Newcastle United”. BBC. ngày 15 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Everton 1–1 Tottenham Hotspur”. BBC Sport. ngày 13 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Ross Barkley bỏ ý định tới Chelsea trong lúc... kiểm tra y tế”. TTVH Online. ngày 1 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Chelsea chuẩn bị chiêu mộ Ross Barkley từ Everton”. VNExpress. ngày 5 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Ross Barkley: Chelsea sign midfielder from Everton for £15m”. BBC Sport. ngày 5 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Chelsea mua được người kế tục Frank Lampard với giá rẻ”. VNExpress. ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
- ^ “Ross Barkley's Chelsea debut against Arsenal assessed”. Sky Sports. ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Chelsea Suffer Shock 3–0 Defeat to Bournemouth in Premier League Action”. Bleacher Report. ngày 1 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Ross Barkley takes chance as Blues pose mount title threat: five things we learned from Chelsea vs Southampton”. The Independent. ngày 8 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Man Utd rơi chiến thắng trước Chelsea ở phút bù giờ thứ sáu”. VnExpress. ngày 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Burnley 0-4 Chelsea: Ross Barkley stars for Blues as they brush Clarets aside”. Sky Sports. ngày 28 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Malmo 1-2 Chelsea: Ross Barkley scores first European goal in Europa League last-32 first leg”. Sky Sports. ngày 15 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Chelsea 3-0 Malmo (5-1 aggregate): Maurizio Sarri's side ease into Europa League last 16 first leg”. Sky Sports. ngày 21 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ Burt, Jason; Tyers, Mike (ngày 24 tháng 2 năm 2019). “Manchester City take the honours after Kepa Arrizabalaga antics overshadow otherwise drab League Cup final”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Chelsea 2-0 West Ham: Eden Hazard shines to send Blues third in Premier League”. Sky Sports. ngày 9 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Chelsea 4-1 Arsenal: Eden Hazard scores twice in Europa League final”. Sky Sports. ngày 22 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Chelsea 0-1 Valencia: Ross Barkley misses costly penalty in Champions League opener”. Sky Sports. ngày 20 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea 7-1 Grimsby: Michy Batshuayi strikes twice and Callum Hudson-Odoi nets on Blues return”. Sky Sports. ngày 26 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Lampard mắng xối xả Barkley vì thác loạn ở Dubai”. Bóng Đá +. ngày 27 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea 2-0 Nottingham Forest, FA Cup third round”. BBC Sport. ngày 5 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea loại Liverpool”. VnExpress. ngày 4 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea vào bán kết Cup FA”. VnExpress. ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea thắng dễ Watford”. VnExpress. ngày 5 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Chelsea 6-0 Barnsley”. BBC Sports. ngày 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Ross Barkley: Aston Villa sign Chelsea midfielder on loan”. Sky Sports. ngày 30 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Aston Villa 7-2 Liverpool”. BBC Sports. ngày 4 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Leicester City 0-1 Aston Villa: Late Ross Barkley winner maintains perfect start”. Sky Sports. ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Arsenal 0-3 Aston Villa: Ollie Watkins scores twice to sink dreadful Gunners”. Sky Sports. ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Aston Villa fans go wild over 'amazing' Manchester City reveal”. Birmingham Mail. ngày 20 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Southampton 0-1 Aston Villa”. BBC Sports. ngày 30 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ “Chelsea 0-0 Liverpool (5-6 on pens): Kostas Tsimikas clinches FA Cup for Reds after Mason Mount's penalty saved in shoot-out”. Sky Sports. ngày 14 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Ross Barkley gives Chelsea victory in final game of Roman Abramovich era”. Belfast Telegraph. 22 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Ross Barkley: Midfielder becomes free agent after leaving Chelsea”. BBC Sport. 29 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Ross Barkley released by Chelsea after agreeing early exit from contract”. Independent. 29 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Barkley bị Chelsea cắt hợp đồng, gia nhập Nice theo dạng miễn phí”. Bóng Đá +. 5 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Ross Barkley: Former Everton and Chelsea midfielder to leave French club Nice”. BBC Sport. 9 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Ross Barkley: Luton Town sign former Everton, Chelsea and England midfielder on free transfer”. Sky Sports. 9 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Chelsea 3-0 Luton Town: Raheem Sterling double helps Blues see off Hatters”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2024.
- ^ “Luton 3-4 Arsenal: Gunners 'showing spirit' with another late winner”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). 5 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2024.
- ^ Club, Aston Villa Football (1 tháng 7 năm 2024). “Aston Villa confirm Barkley signing”. Aston Villa Football Club. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2024.
- ^ “Ross Barkley: Why the Everton star is more than the new Gazza”. BBC Sport. ngày 12 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “England retain Montaigu title”. The Football Association. ngày 13 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Three years after becoming kings of Europe, only one of England's brilliant Under 17 team, Everton's Ross Barkley, is playing regularly in the Premier League. So, where did it all go wrong for the golden boys?”. Mail Online. ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Barkley makes U-21 bow”. Toffe Web. ngày 6 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ "Final squad named" TheFA.com. 28 tháng 5 năm 2013. Truy cập 17 tháng 6 năm 2013.
- ^ "England Under-21s thrash Scotland 6–0 in friendly" BBC Sport. 13 tháng 8 năm 2013. Truy cập 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ "Andros Townsend and Ross Barkley in England squad" BBC Sport. 27 tháng 8 năm 2013. Truy cập 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ "England 4–0 Moldova" BBC Sport. 6 tháng 9 năm 2013. Truy cập 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Ross Barkley learns from mistakes to give his all for Everton”. The Guardian. ngày 20 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “World Cup 2014: England name Ross Barkley in squad”. BBC Sport. ngày 12 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
- ^ “England 1-2 Italy” Kiểm tra giá trị
|url=
(trợ giúp). BBC Sport. ngày 14 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2014. soft hyphen character trong|url=
tại ký tự số 12 (trợ giúp)[liên kết hỏng] - ^ McNulty, Phil (ngày 5 tháng 9 năm 2015). “San Marino 0–6 England”. BBC Sport. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Anh ghi 5 bàn trận thứ hai liên tiếp”. VnExpress. ngày 26 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Anh đè bẹp Bulgaria ở vòng loại Euro 2020”. VnExpress. ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2010/2011”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2011/2012”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ a b c “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2012/2013”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2013/2014”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2014/2015”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2015/2016”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2016/2017”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ a b “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2017/2018”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2018/2019”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2019/2020”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ a b “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2020/2021”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2021/2022”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2022.
- ^ “R. Barkley: Summary”. Soccerway. Perform Group. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2023/2024”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2024.
- ^ “Trận thi đấu của Ross Barkley trong 2024/2025”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
- ^ Barkley.html “Ross Barkley” Kiểm tra giá trị
|url=
(trợ giúp). National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2014.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Thông tin về Ross Barkley Lưu trữ 2014-02-18 tại Wayback Machine trên trang web của Everton F.C.
- Ross Barkley – Thành tích thi đấu tại UEFA
- Ross Barkley tại Soccerbase
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/>
tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref>
bị thiếu
- Sinh năm 1993
- Nhân vật còn sống
- Người Liverpool
- Cầu thủ bóng đá Anh
- Cầu thủ bóng đá Everton F.C.
- Cầu thủ bóng đá Leeds United F.C.
- Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
- Cầu thủ bóng đá Sheffield Wednesday F.C.
- Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
- Cầu thủ bóng đá OGC Nice
- Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
- Tiền vệ bóng đá
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh