Bước tới nội dung

Sally Hawkins

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sally Hawkins
SinhSally Cecilia Hawkins
27 tháng 4, 1976 (48 tuổi)
Dulwich, Luân Đôn, Anh
Quốc tịchAnh
Trường lớpHọc viện Kịch nghệ Hoàng gia
Nghề nghiệpDiễn viên
Nhà sản xuất
Biên kịch
Phát thanh viên
Năm hoạt động1998 đến nay
Tác phẩm nổi bậtNgười đẹp và thủy quái

Paddington (phim)
Happy-Go-Lucky

Blue Jasmine
Quê quánAnh
Chiều cao1,57 m (5 ft 2 in)
Cha mẹ
Giải thưởngGiải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất
Giải Gấu bạc cho nữ diễn viên xuất sắc nhất

Sally Cecilia Hawkins (sinh ngày 27 tháng 4 năm 1976) là một nữ diễn viên người Anh. Cô nhận được rất nhiều giải thưởng trong sự nghiệp của mình, bao gồm cả giải Quả cầu vànggiải Gấu bạc cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, và nhận được hai đề cử giải Oscar.

Sau khi tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Sân khấu Hoàng gia, Sally bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nữ diễn viên sân khấu trong các tác phẩm như Romeo và Juliet (đóng vai Juliet), Có gì đâu mà rộnGiấc mộng đêm hè. Vai diễn điện ảnh chính đầu tiên của cô là trong All or Nothing của Mike Leigh vào năm 2002. Cô tiếp tục hợp tác với Mike, với một vai phụ trong Vera Drake (2004) và đảm nhận vai chính trong Yêu đời lên bạn nhé (2008), bộ phim đã giúp cô giành được một số giải thưởng, bao gồm Giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim ca nhạc và hài kịch xuất sắc nhấtGiải Gấu bạc cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.

Sally cũng xuất hiện trong hai bộ phim của Woody Allen, Cassandra's Dream (2007) và Blue Jasmine (2013) - bộ phim đã mang lại cho cô một đề cử cho hạng mục Giải Oscar cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Cô tiếp tục đóng vai chính trong Made in Dagenham (2010), hai phần phim Gấu Paddington (2014) và Gấu Paddington 2 (2017), Tình yêu của Maudie (2016) và đồng thời cô tham gia diễn xuất trong MonsterVerse với hai phim là Quái vật Godzilla (2014) và Chúa tể Godzilla: Đế vương bất tử (2019). Năm 2017, với vai diễn nữ lao công bị câm "Elisa Esposito" trong bộ phim giả tưởng lãng mạn Người đẹp và thủy quái (2017), Sally đã được ca ngợi và nhận được một đề cử cho hạng mục Giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.

Sally cũng đã xuất hiện trong các vở kịch tại Nhà hát Royal CourtLondon, và vào năm 2010, cô đã xuất hiện lần đầu trên sân khấu Broadway trong vở nhạc kịch Mrs. Warren's Profession. Năm 2012, cô đóng vai chính trong Constellations tại Nhà hát Royal Court, sau đó được chuyển đến Nhà hát Duke of YorkWest End. Trên truyền hình, cô xuất hiện trong các bộ phim chuyển thể của BBC bao gồm Tipping The Velvet (2002) với vai Zena Blake, và Kẻ Móc Túi (2005) với vai Sue Trinder. Cô cũng xuất hiện với vai Anne Elliot trong Persuasion (2007), bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Jane Austen từ ITV.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sally Cecilia Hawkins sinh ra tại Dulwich, London vào ngày 27 tháng 4 năm 1976, là con gái của Jacqui Hawkins (nhũ danh Jacqueline Sinfield) và Colin Hawkins, tác giả và họa sĩ minh họa cho sách thiếu nhi.[1] Cha mẹ cô đều có tổ tiên là người Ireland.[2] Cô có một người anh trai, Finbar Hawkins, một nhà sản xuất phim điện ảnh và truyền hình.[3] Sally lớn lên ở Blackheath trong một ngôi nhà bánh gừng được National Trust bảo vệ do Patrick Gwynne thiết kế. Sally lần đầu cảm nhận được sự hứng thú với diễn xuất từ năm ba tuổi khi cô đi xem một chương trình xiếc.[4] Lúc đầu, cô dự định sẽ trở thành một diễn viên hài kịch nhưng cuối cùng thì cô lại trở thành một diễn viên sân khấu kịch.[4] Sally Hawkins theo học tại Trường Nữ sinh James Allen ở Dulwich, và sau đó tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Sân khấu Hoàng gia năm 1998. Cô mắc hội chứng khó đọc[5], hội chứng mệt mỏi mãn tính lupus ban đỏ hệ thống.[6][7]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Sally Hawkins bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình với vai trò là một nữ diễn viên sân khấu kịch. Cô tham gia trong các vở kịch nổi tiếng như là Accidental Death of an Anarchist, Tình yêu và thù hận, The Cherry Orchard, Có gì đâu mà rộn, Giấc mộng đêm hè. Cô cũng có một vài lần xuất hiện trong những bộ phim truyền hình như Casualty (mùa 14)Doctors. Năm 1998 khi còn là học sinh, Sally Hawkins nhận được một vai quần chúng trong loạt phim ăn khách Star Wars - Chiến tranh giữa các vì sao: Tập I - Hiểm họa bóng ma[8]

Năm 2002, Sally Hawkins chạm ngõ điện ảnh lần đầu tiên với vai diễn "Samantha" trong bộ phim All or Nothing của đạo diễn nổi tiếng Mike Leigh. Đây đồng thời cũng là bộ phim đầu tiên trong số ba bộ phim mà Sally và Mike hợp tác cùng nhau, bộ phim thứ hai họ hợp tác cùng nhau là Vera Drake (2004). Cùng năm đó, Cô cũng xuất hiện với vai "Slasher" trong bộ phim hành động Layer Cake cùng nam tài tử Daniel Craig. Vai diễn truyền hình lớn đầu tiên của cô đến vào năm 2005, khi cô đóng vai "Susan Trinder" trong bộ phim truyền hình BBC được đề cử giải BAFTA, bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên Fingersmith của Sarah Waters, trong đó cô đóng chung với nữ minh tinh Imelda Staunton. Sau đó, cô tiếp tục nhận các vai chính trong một bộ phim phiên bản chuyển thể khác của BBCTwenty Thousand Streets Under the Sky của Patrick Hamilton. Từ năm 2003 đến 2005 Sally đã xuất hiện trong bốn tập của loạt phim hài quốc dân của BBC - Little Britain.

Cô cũng đã cho góp giọng của mình cho nhiều chương trình phát thanh như Concrete Cow, Ed Reardon's Week, Think the Unthinkable, Cash Cows, War With The NewtsThe Party Line – Và Sally cũng tham gia với vai trò biên kịch trong những chương trình đó. Năm 2006, Sally trở lại sân khấu, xuất hiện tại Nhà hát Hoàng gia trong vở kịch The Winterling của Jez Butterworth.

Năm 2007, cô thủ vai nàng "Anne Elliot" trong bộ phim truyền hình Persuasion của nữ nhà văn Jane Austen.[9]  Màn trình diễn của cô đã được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt và xuất sắc đoạt được giải Golden Nymph. Cùng năm đó, Sally cũng có một vai phụ trong bộ phim của đạo diễn nổi tiếng Woody Allen, Cassandra's Dream, với sự tham gia của Colin FarrellEwan McGregor.

Năm 2008, Sally đã có bước đột phá lớn khi tái hợp với đạo diễn lừng danh Mike Leigh lần thứ ba trong bộ phim hài kịch năm 2008 mang tên Happy-Go-Lucky, thủ vai "Poppy Cross", một giáo viên mầm non tốt bụng. Nhà phê bình Roger Ebert đã cho rằng bộ phim này là một trong bốn ngôi sao ca ngợi sự hài hước, sâu sắc và diễn xuất của Sally và ông nói rằng "Sally Hawkins là một niềm vui để đón xem."[10] Peter Bradshaw từ tờ The Guardian đã viết rằng "Sally Hawkins thủ vai "Poppy" là một điều tuyệt vời". Trong khi Tom Long của The Detroit News gọi là màn trình diễn của cô " xứng đáng với giải Oscar".[11] Vai diễn này của Sally đã đem về cho cô nhiều giải thưởng, bao gồm cả Giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim hài kịch, nhạc kịch xuất sắc nhấtGiải Gấu bạc cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất.[12][13]

Năm 2010, Sally Hawkins tham gia diễn xuất trong ba bộ phim bao gồm Made in Dagenham, SubmarineNever Let Me Go và cả ba bộ phim đều được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto năm 2010.[14] Tất cả đều nhận được đánh giá tích cực và màn trình diễn của Sally trong những phim này đều được khen ngợi. Về màn trình diễn của cô trong Made in Dagenham, Roger Ebert đã viết rằng "Sally Hawkins cho thấy được một sự nhẹ nhàng nhưng không mệt mỏi".[15] Trong khi Xan Brooks của The Guardian đã nhận xét rằng "Sally mang đến một màn trình diễn đầy sự chiến thắng".[16] Vào tháng 10 cùng năm, cô xuất hiện trên sân khấu với vai "Vivie" trong vở kịch nổi tiếng Mrs. Warren’s Profession tại Nhà hát American Airlines.[17] Năm 2011, Sally đã có một vai phụ trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên Jane Eyre và có một vai nữ chính trong bộ phim hài lãng mạn Love Birds. Năm 2012, cô và Rafe Spall kết hợp với nhau trong vở kịch Constellations tại Nhà hát Tòa án Hoàng gia và sau đó là Nhà hát Công tước xứ York. Vở kịch đã được khen ngợi với những đánh giá tích cực và giành chiến thắng hạng mục Vở kịch hay nhất tại Lễ trao giải Evening Standard Theatre.[18] Cô cũng có một vai nhỏ là "bà Joe" trong bộ phim Great Expectations bản 2012.

Năm 2013, Sally tiếp tục hợp tác đạo diễn Woody Allen lần thứ hai trong bộ phim Blue Jasmine đóng cùng Cate Blanchett, vai diễn "Ginger" của cô trong phim đã giúp cô nhận được đề cử giải Oscar đầu tiên với hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, cũng như những giải thưởng quan trọng khác như giải BAFTA, giải Quả cầu vàng và nhận được nhiều giải thưởng khác, đặc biệt là giải Empire.[19][20] Cùng năm cô đóng vai chính trong All Is Bright, cùng với Paul GiamattiPaul Rudd và có một vai cameo trong bộ phim The Double của đạo diễn Richard Ayoade. Năm 2014, Sally xuất hiện trong phim điện ảnh Quái vật Godzilla, đánh dấu cột mốc lần đầu tiên Sally chính thức tham gia vào một Vũ trụ Điện ảnh lớn MonsterVerse, với vai diễn "Tiến sĩ Vivienne Graham", một nhà khoa học hỗ trợ Tiến sĩ Ishiro Serizawa do Ken Watanabe thủ vai. Quái vật Godzilla đã nhận được những đánh giá tích cực và thu về hơn 529 triệu đô la để trở thành bộ phim được xem nhiều nhất của Sally Hawkins cho đến thời điểm đó. Cô đã thể hiện lại vai diễn trong phần tiếp theo của loạt phim là Chúa tể Godzilla: Đế vương bất tử và thu về 177 triệu đô la vào ngày đầu công chiếu và sau đó trở thành một trong những bộ phim có doanh thu cao nhất năm 2019.[21] Cô cũng đóng chung với John HawkesMichael Cera trong bộ phim truyền hình How and Why của Charlie Kaufman.[22]

Sally đóng vai mẹ của nhân vật của Asa Butterfield thủ vai trong bộ phim truyền hình X+Y được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2014.[23] Vào tháng 11 năm 2014, cô đóng vai "Bà Brown" trong Gấu Paddington được giới phê bình đánh giá cao. Bộ phim dựa trên những cuốn sách thiếu nhi của Michael Bond, nói về Paddington, một con gấu "có thể nói và suy nghĩ như con người" di cư từ những khu rừng tối nhất ở Peru đến đường phố London, được gia đình Brown nhận nuôi.[24] Sally đã quay trở lại vai diễn "Bà Brown" trong phần tiếp theo là Gấu Paddington 2 (2017), phim cũng đã nhận được sự tán dương.[25][26]

Năm 2017, cô hợp tác lần đâu tiên với đạo diễn người Mexico nổi tiếng, Guillermo del Toro trong bộ phim điện ảnh Người đẹp và thủy quái, với vai chính "Elisa Esposito", một người lao công bị câm làm việc tại một phòng thí nghiệm bí ẩn, bơi đang giam giữ một sinh vật lưỡng cư kì dị (do Doug Jones thủ vai). Sally đã nhận được sự nhiều khen ngợi cho màn trình diễn của cô. Matthew Norman của tòa soạn London Standard gọi đó là màn trình diễn xác định nghề nghiệp.[27] Mark Kermode của tờ The Guardian gọi cô là "siêu phàm",[28] Mihir Fadnavis từ Firstpost cho rằng đó là "màn trình diễn của sự chiến thắng",[29] trong khi Ann Horaday viết cho tờ The Washington Post nói rằng "Sally Hawkins đã mang đến một màn trình diễn tuyệt đẹp".[30] Sally đã tiếp tục nhận được đề cử trong các giải thưởng nổi tiếng như giải Oscars, giải Quả cầu vàng, giải BAFTAgiải SAG cho hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất và bộ phim đồng thời cũng đã giành được giải Oscar cho Phim hay nhất tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 90.

Các tác phẩm đã tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Đạo diễn Ghi chú
1999 Chiến tranh giữa các vì sao: Tập I – Hiểm họa bóng ma Dân làng George Lucas Vai diễn không được công nhận[31]
2002 All or Nothing Samantha Mike Leigh
2004 Vera Drake Susan Wells Mike Leigh
Layer Cake Slasher Matthew Vaughn
2007 Cassandra's Dream Kate Woody Allen
WΔZ Elly Carpenter Tom Shankland
2008 Yêu đời lên bạn nhé Poppy Cross Mike Leigh
2009 An Education Sarah Goldman Lone Scherfig
Desert Flower Marylin Sherry Hormann
Happy Ever Afters Maura Stephen Burke
2010 It's a Wonderful Afterlife Linda / Gitali Gurinder Chadha
Never Let Me Go Cô Lucy Mark Romanek
Made in Dagenham Rita O'Grady Nigel Cole
Submarine Jill Tate Richard Ayoade
2011 Love Birds Holly Paul Murphy
Jane Eyre Bà Reed Cary Joji Fukunaga
2012 Great Expectations Bà Joe Mike Newell
2013 All Is Bright Olga Phil Morrison
Blue Jasmine Ginger Woody Allen
The Double Nhân viên lễ tân Richard Ayoade Diễn viên khách mời
2014 Quái vật Godzilla Tiến sĩ Vivienne Graham Gareth Edwards
X+Y Julie Ellis Morgan Matthews
Gấu Paddington Mary Brown Paul King
2016 Tình yêu của Maudie Maud Lewis Aisling Walsh
2017 Người đẹp và thủy quái Elisa Esposito Guillermo Del Toro
Gấu Paddington 2 Mary Brown Paul King
2019 Chúa tể Godzilla: Đế vương bất tử Tiến sĩ Vivienne Graham Michael Dougherty
Eternal Beauty Jane Craig Roberts
2021 Spencer Maggie Pablo Larraín
The Phantom of the Open Jean Flitcroft Craig Roberts
A Boy Called Christmas Mẹ Vodol Gil Kenan
2022 The Lost King Philippa Langley Stephen Frears
2023 Wonka Paul King Đang quay phim
TBA Kensuke's Kingdom Người mẹ Neil Boyle, Kirk Hendry Lồng tiếng, đang sản xuất
Paddington 3 Mary Brown Paul King Đang chờ xác nhận

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Đạo diễn Ghi chú
1999 Casualty (mùa 14) Emma Lister Dominic Lees Tập: "To Have And To Hold"
2000 Doctors Sarah Carne Neil Adams Tập: "Pretty Baby"
2002 Tipping The Velvet Zena Blake Geoffrey Sax 2 tập (tập 2, 3)
2003 Little Britain (mùa 1) Cathy Steve Bendelack Tập 1
Promoted To Glory Lisa Richard Spence Phim dài
The Young Visiters Rosalind David Yates Phim dài
Bryon Mary Shelley Julian Farino Phim dài
2004 Little Britain (mùa 2) Cathy Matt Lipsey Tập 5
The Bunk Bed Boys Helen Gareth Carrivick Phim dài
2005 Little Britain (mùa 3) Olivia Declan Lowney Tập 3
Kẻ Móc Túi Susan Trinder Aisling Walsh 3 tập
Twenty Thousand Streets Under The Sky Ella Simon Curtis 3 tập
2006 Shiny Shiny Bright New Hole In My Heart Nathalie Marc Munden Phim dài
HG Wells' War With The World Rebecca West James Kent Phim dài
Man To Man With Dean Learner Nhiều nhân vật 3 tập
2007 Thuyết Phục Anne Elliot Adrian Shergold Phim dài
The Everglades Nick Wood Phim ngắn, diễn viên kiêm biên kịch
2011 Little Crackers (mùa 2) Người mẹ Paul King Tập: "Barbara Windsor's Little Cracker: My First Brassiere"
2012 Room On The Broom Chim xanh (lồng tiếng) Jan Lachauer, Max Lang Phim hoạt hình ngắn
2014 How And Why Yvonne Hesselman Charlie Kaufman
2015 Stick Man Quý cô Khúc củi Jeroen Jaspaert, Daniel Snaddon Phim hoạt hình ngắn
2016 The Hollow Crown: The Wars Of The Roses Eleanor, Công tước phu nhân xứ Gloucester Dominic Cooke Tập: "Henry VI, Phần 1"
2019 The Snail And The Whale Ốc biển (lồng tiếng) Max Lang, Daniel Snaddon Phim hoạt hình ngắn
2022 Mammals Lue Stephanie Laing 5 tập

Sân khấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Nơi trình diễn
1998 Romeo và Juliet Juliet Capulet Nhà hát Hoàng gia York
Accidental Death of an Anarchist Trung tâm Nghệ thuật Battersea
1999 The Cherry Orchard Anya Ranevskaya Nhà hát Hoàng gia York
Svejk Nhà hát Gate
The Dybbuk Leah Trung tâm Nghệ thuật Battersea
2000 Giấc mộng đêm hè Hermia Nhà hát Ngoài trời của Công viên Regent
Có gì đâu mà rộn Hero Nhà hát Ngoài trời của Công viên Regent
2001 Misconceptions Zoe Nhà hát Octagon
2004 Country Music Lynsey Sargeant Nhà hát Tòa án Hoàng gia
2005 The House Of Bernarda Alba Adela Alba Nhà hát Quốc gia Hoàng gia
2006 The Winterling Lue Nhà hát Tòa án Hoàng gia
2010 Mrs. Warren's Profession Vivie Warren Nhà hát Hàng không Hoa Kỳ
2012 Constellations Marianne Nhà hát Tòa án Hoàng gia

Nhà hát của Công tước xứ York

2015 Letters Live Người đọc Hội trường của Freemasons

Phát thanh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
2002 Concrete Cow Nhiều nhân vật Đài BBC 4, phát thanh viên kiêm biên kịch
2004 Think The Unthinkable Đài BBC 4
The Cenci Family Beatrice Cenci Đài BBC 4
2005 Ed Reardon's Week (mùa 1) Ping Đài BBC 4
Cash Cows Kerry Đài BBC 4
War With The Newts Olga Đài BBC 4
The Party Line Đài BBC 4
Afternoon Romancers[32] Liz Đài BBC 4
2006 Salome Joanna Đài BBC 3
2007 Ed Reardon's Week (mùa 3) Ping Đài BBC 4
Ed Reardon's Week (mùa 4) Ping Đài BBC 4
Cut To The Heart Alice Đài BBC 4
Demonstrating Grace Người dẫn chuyện Đài BBC 4
2010 Greed All About It Alice Đài BBC 4
2011 Revolution Therese Đài BBC 4
2015 Book At Bedtime: The Girl On The Train Người dẫn chuyện Đài BBC 4

Phim ngắn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Đạo diễn Ghi chú
1996 Mirror, Mirror... Jenny Baillie Walsh
2006 Hollow China Terry Matt Platts-Mills
2013 The Phone Call Heather Mat Kirkby

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tác phẩm Giải thưởng Kết quả
2007 Persuasion Giải Nymph Award cho Nữ diễn viên chính phim truyền hình có màn trình diễn xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Royal Television cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
2008 Yêu đời lên bạn nhé Giải Liên minh các nữ nhà báo hoạt động về điện ảnh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Liên minh các nữ nhà báo hoạt động về điện ảnh cho Màn trình diễn đột phá nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Boston cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải International Cinephile Society cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất[33] Đoạt giải
Giải Evening Standard British Film Peter Sellers cho Phim hài kịch Đoạt giải
Giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên chính phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất [34] Đoạt giải
Giải Hollywood Film cho Nữ diễn viên đột phá của năm Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Los Angeles cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Quốc gia cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim New York cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim trực tuyến New York cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim trực tuyến New York cho Màn trình diễn đột phá nhất Đoạt giải
Giải của Hiệp hội phê bình phim San Francisco cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Vệ tinh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất phim chính kịch Đoạt giải
Giải Gấu bạc cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Cuộc thăm dò ý kiến Village Voice Film – Nữ diễn viễn xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Liên minh các nữ nhà báo hoạt động về điện ảnh cho Dàn diễn viên xuất sắc nhất Đề cử
Giải Phim độc lập của Anh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Chicago cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Dallas–Fort Worth cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải European cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Luân Đôn cho Nữ diễn viên người Anh của năm Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim trực tuyến cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Vancouver cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
2010 Made in Dagenham Giải Phim độc lập của Anh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Vệ tinh cho Nữ diễn viên chính phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất Đề cử
Giải Evening Standard British Film cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Submarine Giải Phim độc lập của Anh cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
2013 Blue Jasmine Giải Empire cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Quốc gia cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Á quân
Giải Oscar cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải AACTA International cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Alliance of Women Film Journalists cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải BAFTA cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Dallas–Fort Worth Film Critics Association cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Detroit cho Dàn diễn viễn xuất sắc nhất Đề cử
Giải Georgia Film Critics Association cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phụ phim điện ảnh xuất sắc nhất Đề cử
Giải Tinh thần độc lập cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải International Cinephile Society cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải London Film Critics' Circle cho Nữ diễn viên phụ của năm Đề cử
Giải London Film Critics' Circle cho Nữ diễn viên người Anh của năm Đề cử
Giải Online Film Critics Society cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải San Diego Film Critics Society cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Vệ tinh cho Nữ diễn viên phụ phim điện ảnh xuất sắc nhất Đề cử
2014 X+Y Giải Phim độc lập của Anh cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Đề cử
Giải Glamour cho Nữ diễn viên phim Đoạt giải
2016 Tình yêu của Maudie Giải Màn ảnh Canada cho Nữ diễn viên chính phim điện ảnh có màn trình diễn xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải San Diego Film Critics Society cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Quốc gia cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải London Film Critics' Circle cho Nữ diễn viên người Anh của năm Đoạt giải
Giải Irish Film & Television cho Nữ diễn viên phim quốc tế xuất sắc nhất Đề cử
2017 Người đẹp và thủy quái Giải Hiệp hội Phê bình phim Boston cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Dallas–Fort Worth cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Dorian cho Nữ diễn viên phim có màn trình diễn của năm Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Houston cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Luân Đôn cho Nữ diễn viên người Anh của năm Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Los Angeles cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim Quốc gia cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim trực tuyến cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Hiệp hội Phê bình phim cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Á quân
Giải Vệ tinh cho Nữ diễn viên chính phim điện ảnh xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải St. Louis Gateway Film Critics Association cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Á quân
Giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải BAFTA cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải AACTA cho Nữ diễn viên chính phim điện ảnh quốc tế xuất sắc nhất Đề cử
Giải Austin Film Critics Association cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Chicago cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Critics' Choice Movie cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Detroit cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Evening Standard British Film cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Florida cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên chính phim chính kịch xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Luân Đôn cho Nữ diễn viên của năm Đề cử
Giải của Hiệp hội phê bình phim San Francisco cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Sao Thổ cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Screen Actors Guild cho Nữ diễn viên chính có màn trình diễn nổi bật nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Toronto cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Vancouver cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Hiệp hội Phê bình phim Washington D.C. cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Gấu Paddington 2 Giải Hiệp hội Phê bình phim Luân Đôn cho Nữ diễn viên người Anh của năm Đoạt giải
2019 The Snail And The Whale Giải British Animation cho Màn lồng tiếng xuất sắc nhất Đoạt giải
Eternal Beauty Giải Phim độc lập của Anh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
2020 Giải Raindance Icon[35] Đoạt giải

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Gilbey, Ryan (ngày 5 tháng 8 năm 2017). “Sally Hawkins: low-key star with plenty to smile about”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2020.
  2. ^ “Children's Books – Articles – Authorgraph No.116: Colin and Jacqui Hawkins | BfK No. 116”. Booksforkeeps.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  3. ^ Berman, Nat (ngày 22 tháng 7 năm 2017). “Sally Five Things You Didn't Know About Sally Hawkins”. TV Overmind. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2020.
  4. ^ a b Galloway, Stephen; Guider, Elizabeth (ngày 8 tháng 12 năm 2008). “Oscar Roundtable: The Actresses”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2014.
  5. ^ Hoggard, Liz (ngày 10 tháng 11 năm 2012). “Sally Hawkins: 'You only do good work when you're taking risks'. The Independent. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  6. ^ Lubin, Rhian (ngày 3 tháng 2 năm 2018). “British Oscar hopeful Sally Hawkins reveals how she overcame crippling shyness by acting”. MSN. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2020.
  7. ^ 'Shape of Water' star Sally Hawkins reveals she has Lupus
  8. ^ Ramin Setoodeh (ngày 16 tháng 12 năm 2013). “Sally Hawkins on her secret 'Star Wars' role and "Blue Jasmine". Variety. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  9. ^ “The Week UK | The best of British & international news, opinion, sport, people & business”. Thefirstpost.co.uk. ngày 9 tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  10. ^ Ebert, Roger. “Happy-Go-Lucky Movie Review & Film Summary (2008) | Roger Ebert”. www.rogerebert.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
  11. ^ Happy-Go-Lucky (2008) (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019
  12. ^ Silverman, Stephen (ngày 11 tháng 12 năm 2008). “Angelina Jolie, Brad Pitt Score Golden Globe Nods”. People. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2008.
  13. ^ “Nominations & Winners”. Golden Globes. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2008.
  14. ^ Brad Frenette (ngày 27 tháng 7 năm 2010). “Toronto International Film Fest announces 2010 lineup”. National Post. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2010.
  15. ^ Ebert, Roger. “Made in Dagenham Movie Review (2010) | Roger Ebert”. www.rogerebert.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
  16. ^ Brooks, Xan (ngày 20 tháng 9 năm 2010). “Made in Dagenham | Film review | Xan Brooks”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
  17. ^ “Theater Review: A Friendly Clash of Charms in Mrs. Warren's Profession”. Vulture. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  18. ^ Matilda Battersby (ngày 2 tháng 1 năm 2013). “Lift off for the writer with stars in his eyes | Culture”. The Independent. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  19. ^ “Oscars 2014 Winners: The Complete List”. The Hollywood Reporter. ngày 2 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014.
  20. ^ “Golden Globes Nominations: The Full List”. Variety. ngày 11 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
  21. ^ “Sally Hawkins Joins 'Godzilla' Cast”. Deadline Hollywood. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  22. ^ “FX's Charlie Kaufman Pilot Not Going Forward”. Deadline Hollywood. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  23. ^ “X+Y”. TIFF.net. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  24. ^ Bradshaw, Peter (ngày 27 tháng 11 năm 2014). Paddington review – charming and cheeky”. The Guardian. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  25. ^ Lodge, Guy (ngày 26 tháng 10 năm 2017). “Film Review: 'Paddington 2'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2017.
  26. ^ “Hugh Grant at world premiere of 'Paddington 2' (VIDEO)”. Malay Mail. ngày 7 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2017.
  27. ^ The Shape of Water (2017) (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019
  28. ^ Kermode, Mark; critic, Observer film (ngày 18 tháng 2 năm 2018). “The Shape of Water review – a seductively melancholy creature feature”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019.
  29. ^ “The Shape of Water movie review: Guillermo Del Toro's film is a visual spectacle and an emotional triumph- Entertainment News, Firstpost”. Firstpost (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019.
  30. ^ “Review | 'The Shape of Water' is a '50s-style creature feature, as modern-day allegory”. Washington Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019.
  31. ^ “Sally Hawkins với vai diễn bí mật của cô ấy trong chuỗi phim "Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao".
  32. ^ “Afternoon Romancers của Nick McCarty”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2021.
  33. ^ “2009 ICS AWARD WINNERS”. International Cinephile Society. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010.
  34. ^ Elsworth, Catherine (ngày 12 tháng 1 năm 2009). “Golden Globes 2009: Sally Hawkins wins best actress in musical or comedy – Telegraph”. The Telegraph. London. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2013.
  35. ^ “Sally Hawkins và Jude Law nhận giải thưởng Raindance Icon năm 2020”.