Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quốc kỳ Việt Nam”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎[[Quốc gia Việt Nam]] và [[Việt Nam Cộng hòa]] (1949 - 1975): tên bài chính, replaced: Đỗ Mậu (Nam Việt Nam) → Đỗ Mậu using AWB
Liên kết hỏng
Dòng 21: Dòng 21:
| accessdate = 12/9/2011
| accessdate = 12/9/2011
| language = Tiếng Việt
| language = Tiếng Việt
}}</ref>
}}{{Dead link}}</ref> {{Dead link}}
__TOC__
__TOC__
==Những giả thuyết về tác giả==
==Những giả thuyết về tác giả==

Phiên bản lúc 12:42, ngày 5 tháng 6 năm 2013

Việt Nam
TênCờ đỏ sao vàng
Sử dụngDân sựcờ nhà nước
Tỉ lệ2:3
Ngày phê chuẩn2 tháng 7, 1976 (Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
Thiết kếMột ngôi sao vàng lớn chính giữa nền đỏ
Thiết kế bởiNguyễn Hữu Tiến (hoặc Lê Quang Sô)
Biến thể của Việt Nam
Sử dụngQuân kỳ
Tỉ lệ2:3
Thiết kếNhư trên, với một khẩu hiệu "quyết thắng" màu vàng ở góc trên phía trái.

Quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đại diện cho nước Việt Nam thống nhất từ 1976 đến nay. Lá cờ có hình chữ nhật, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.[1] Ý nghĩa là cờ thể hiện trong nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp , nông, công, thương, binh cùng đoàn kết.[2] Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng màu đỏ nền cờ tượng trưng dòng máu đỏ, màu vàng ngôi sao tượng trưng da vàng, và năm cánh tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp bao gồm , nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.[3] [liên kết hỏng]

Những giả thuyết về tác giả

Nguyên mẫu của quốc kỳ Việt Nam hiện nay được ghi nhận xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23 tháng 11 năm 1940. Tuy nhiên, dù đã tồn tại hơn 70 năm nhưng tác giả của lá cờ vẫn không được xác định một cách chính xác.

Từ năm 1976, theo tìm hiểu của nhà văn Sơn Tùng, lá cờ này đã được dùng lần đầu tiên trong cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 và tác giả là ông Nguyễn Hữu Tiến, lúc đó thường được gọi là "ông Hai Bắc Kỳ" [4]. Ông cũng ghi nhận hoàn cảnh ra đời của lá cờ là cáo cuối năm 1940, phong trào kháng chiến chống Thực dân PhápPhát xít Nhật diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh Nam kỳ. Từ 21 đến 23 tháng 9 năm 1940, Xứ ủy Nam kỳ họp mở rộng bàn kế hoạch khởi nghĩa. Để tiến tới khởi nghĩa, một vấn đề được đặt ra là cần có một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng. Một đảng viên Cộng sản là Nguyễn Hữu Tiến, được giao nhiệm vụ thể hiện và mẫu cờ được ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa gồm Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ... chuẩn y ngay sau đó [cần dẫn nguồn].

Tuy nhiên, trong công văn số 1393/VHTT-BTCM do Thứ trưởng Bộ Văn hóa - thông tin Lưu Trần Tiêu ký ngày 18 tháng 4 năm 2001 có ghi: "Tất cả các nguồn tài liệu hiện có tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, tại Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều không có tài liệu nào chứng minh đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ lá cờ Tổ quốc"[5].

Giả thuyết thứ hai mới đặt lại vấn đề tác giả lá cờ này trong thời gian gần đây và cho là ông Lê Quang Sô mới là tác giả [5][6] và do Tỉnh ủy Đảng CSVN tại Mỹ Tho đề nghị đầu tiên [7].

Các quốc kỳ trong lịch sử Việt Nam

Cho đến trước năm 1945 Việt Nam không có quốc kỳ chính thức. Phải đến năm 1945 cùng với việc thành lập Đế quốc Việt Nam Việt Nam mới có quốc kỳ chính thức đầu tiên được ban bố.

Trước thời Pháp thuộc

Quốc kỳ là lá cờ đại biểu cho chủ quyền quốc gia, xuất hiện trước tiên ở các quốc gia chủ quyền phương Tây cận đại. Trước thế kỷ 16 không tồn tại khái niệm "quốc gia dân tộc" và "chủ quyền", do đó không có quốc kỳ tượng trưng cho quốc gia chủ quyền dân tộc. Cho tới trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, các hoàng triều trong lịch sử Việt Nam đều không có và cũng không cần có quốc kỳ.

Tại Việt Nam trước đây các nhà cầm quyền đã có các hiệu kỳ thường mang màu phù hợp với "mạng" theo ngũ hành : người mạng kim thì cờ màu trắng, người mạng mộc mang màu xanh, mạng thủy thì màu đen, người mạng hỏa treo cờ màu đỏ, người mạng thổ dùng cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại thì được chọn theo thuyết của học phái Âm Dương Gia nhằm giúp triều đại hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ của triều đại, các nhà vua đều có thể có lá cờ riêng, chỉ để biểu tượng cho hoàng gia.

Từ khi giành được quyền tự chủ sau thời kỳ Bắc thuộc, các vương triều nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Hậu Lê đều dùng hiệu kỳ màu vàng. Vua Gia Long (1802-1820) cũng dùng màu vàng cho là cờ tiêu biểu của vương triều mình. Có nguồn cho là vua Khải Định (1916-1925), khi sang Paris dự hội chợ đấu xảo, cùng các quan Nam triều sáng chế tại chỗ cờ Long Tinh (thêm hai vạch đỏ tượng trưng cho hình rồng vào giữa lá cờ vàng) vì cần thiết cho nghi lễ; tuy nhiên, từ "cờ long tinh" có lẽ đã xuất hiện từ thời vua Gia Long. Cụ thể, cờ có tên Hán "Long Tinh Kỳ" với "Kỳ" là cờ; "Long" là rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng với râu tua màu xanh dương, tượng trưng cho Tiên và đại dương là nơi rồng cư ngụ; "Tinh" là ngôi sao trên trời, cũng là màu đỏ, biểu tượng cho phương Nam và cho lòng nhiệt thành, chấm ở giữa [cần dẫn nguồn]. Tóm lại "Long Tinh Kỳ" là cờ vàng có chấm đỏ viền tua xanh.

Khi Pháp mới tấn công Việt Nam, Việt sử toàn thư (trang 467) ghi "Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi"; có tác giả chú thích rằng cờ này chính là cờ long tinh của nhà Nguyễn.

Liên bang Đông Dương (1883 - 1945)

Cột cờ Huế, năm 1924
Long tinh kỳ tung bay trong Đại nội Huế, năm 1924 nhân lễ Tứ tuần Khánh thọ của vua Khải Định

Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ Pháp trên toàn Liên bang Đông Dương sử dụng lá cờ có nền vàng và ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp, từ năm 1923 đến khi bị Nhật lật đổ vào 9 tháng 3 năm 1945.

Tại từng vùng thuộc địa trên lãnh thổ Việt Nam, Nam kỳ dùng quốc kỳ Pháp (còn gọi là cờ tam sắc hay tam tài), Bắc kỳTrung kỳ dùng cờ biểu tượng cho vua nhà Nguyễn, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự. Cụ thể nó được treo ở kỳ đài ở quảng trường Phu Văn Lâu, cột cờ đàn Nam Giao ở ngoại ô kinh thành Huế, hay cột cờ Hành Cung ở các địa phương.

Từ khi Pháp tấn công lãnh thổ Việt Nam, cờ long tinh (nền vàng viền lam chấm đỏ) vẫn được dùng như biểu tượng quyền lực của nhà Nguyễn. Đến năm 1885, người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng Khánh dùng Long Tinh Kỳ nữa vì lá cờ này thể hiện sự chống đối Pháp (vua Hàm Nghi dùng lá cờ này khi chống Pháp). Triều đình Đồng Khánh dùng lá cờ mới cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ thì gồm hai chữ Hán Đại Nam, quốc hiệu của nước Việt Nam lúc đó, và lá cờ có tên Đại Nam Kỳ. Tuy nhiên, những chữ viết trên lá cờ không thực sự giống với các nét chữ Hán của quốc hiệu Đại Nam (大南).

Ngoài ra còn có các Tinh Kỳ, cờ Đại Hùng Tinh, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Hành, được dùng để biểu thị nghi vệ Thiên Tử trong các buổi thiết triều, các dịp tế lễ, hay theo loan giá những khi nhà vua xuất cung. Lá cờ ban cho các khâm sai đặc sứ, còn được gọi là cờ Mao Tiết, thì màu sắc tùy nghi, trên mặt thêu họ và chức vụ của vị khâm sai, chung quanh viền ngân tuyến (chỉ bạc). Các cờ xí treo thời này thường có tua viền xung quanh.

cờ long tinh trong giai đoạn cuối của thời Pháp thuộc lần đầu được ấn định làm quốc kỳ nước Đại Nam khi Nhật Bản dần thay chân Pháp ở Việt Nam. Dưới áp lực của quân Nhật, Pháp cố duy trì ảnh hưởng của họ bằng cách đàn áp các phong trào chống đối và nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương. Hoàng đế Bảo Đại nhân cơ hội này đã đưa ra một số cải cách, trong đó có ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam là cờ long tinh; được Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux chấp thuận. Cờ long tinh được dùng trên lãnh thổ Đại Nam (Bắc kỳ và Trung kỳ). Nam kỳ vẫn dùng cờ tam sắc của Pháp.

Việt Nam Đế quốc (1945)

Sau khi Đế quốc Nhật đảo chính thực dân Pháp, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập trên danh nghĩa, dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, ông tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Quý Mùi 1883Hòa ước Giáp Thân 1884. Chính phủ mới được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim. Quốc hiệu được đổi thành Đế quốc Việt Nam và, ngày 8 tháng 5 năm 1945, quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly là một trong 8 quẻ của bát quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền; bề rộng của các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.

Cờ quẻ Ly về danh nghĩa là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong thực tế Nhật vẫn cai trị Nam kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 16 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị (chiều ngày 30/8/1945). Nam Kỳ, trên thực tế, chưa bao giờ dùng cờ quẻ Ly.

Trong thời kỳ này, Long Tinh kỳ trở thành lá cờ của hoàng đế, chỉ treo ở Hoàng thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du, gọi là Long Tinh Đế kỳ. Long Tinh Đế kỳ có sửa đổi nhỏ so với Long Tinh kỳ trước đó : nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ quẻ Ly.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1976)

Ban đầu là hiệu kỳ của Việt Nam Độc lập Đồng minh, sau trở thành quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy mẫu từ hiệu kỳ Cờ đỏ sao vàng (hay còn gọi là cờ sao mai) của Mặt trận Việt MinhBắc kỳ từ trước tháng 8 năm 1945.

Theo Võ Nguyên Giáp, hiệu kỳ này do Hồ Chí Minh mang về từ nước ngoài và được chính thức treo lần đầu tiên vào ngày "19/5/1941, lá cờ được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc Hội nghị thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội"[4]. Vào năm 1944, Văn Cao sáng tác Tiến quân ca, tuy trong ca khúc có những câu như "...Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước,... Sao vàng phấp phới..." nhưng lúc đó ông cũng chưa thấy lá cờ mà chỉ tưởng tượng ra [4].

Lá cờ đỏ sao vàng được lực lượng Việt Minh sử dụng hiệu triệu nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tháng 8 năm 1945, Quốc dân Đại hội tại Tân Trào đã quyết nghị lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập. Trong thời gian Cách mạng tháng 8, tại Bắc Bộ và Trung Bộ, nhân dân hầu hết các nơi dưới sự lãnh đạo của Việt Minh sử dụng lá cờ này. Riêng tại một số nơi Nam Bộ, Thanh niên Tiền phong là tổ chức chính tham gia giành chính quyền, lúc này đã gia nhập Việt Minh nên tùy từng nơi sử dụng lá cờ đỏ sao vàng, hay sử dụng cả hai lá cờ (của Việt Minh và lực lượng Thanh niên tiền phong) hay sử dụng cờ vàng sao đỏ của Thanh niên tiền phong, hoặc kết hợp với cờ búa liềm của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau khi giành được chính quyền, thì cờ Việt Minh được sử dụng biểu tượng một nước Việt Nam mới. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, cờ đỏ sao vàng chính thức xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập tại quảng trường Ba Đình. Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký sắc lệnh quyết định quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng[8]. Trong cuộc họp Quốc hội khóa I quy định cụ thể về quốc kỳ ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca".

Theo cuốn Ho Chi Minh, của tác giả Yevgeny Kobelev, Progress Publishers (1989 Moscow) thì câu nói tương tự trên của Hồ Chí Minh tại kỳ họp lần thứ hai Quốc hội, trước đó tại kỳ họp thứ nhất các đại biểu Việt Quốc và Việt Cách có ý kiến thay đổi cờ vì nó quá giống với cờ Quốc tế cộng sản, trái với tinh thần dân tộc của người Việt Nam, và lặp lại tại kỳ họp thứ hai. Câu nói nguyên văn (tạm dịch từ bản tiếng Anh): "Đó là sự thật, một số thành viên chính phủ trước đó đã muốn thay đổi màu sắc cờ của quốc gia, và chúng tôi thực sự muốn để gửi câu hỏi này cho Ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, có nhiều thay đổi kể từ cơ thể con người. Đỏ của chúng ta với một ngôi sao vàng tượng trưng cho máu của hàng ngàn người chiến đấu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Nó đã được nhìn thấy ở châu Âu và trở lại tới châu Á và đã được chào mừng với sự tôn kính ở khắp mọi nơi. Và ngày hôm nay, không có một người Việt nào ngoài 25.000.000 đồng bào có quyền thay đổi lá cờ này".

Kỳ họp thứ I, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2 tháng 3 năm 1946 đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và xác nhận bởi Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946.

Sau năm 1954, Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959 cũng xác nhận lại cờ đỏ sao vàng là cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1976, lá cờ này được sử dụng làm quốc kỳ của chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến tận ngày nay.

Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (1946 - 1948)

Quốc kỳ Nam kỳ Cộng hòa quốc

Sau khi quân đội Đế quốc Nhật Bản đầu hàng lực lượng Đồng Minh, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống được tiếp quản bởi quân đội Liên hiệp Anh. Sau đó, Anh đã nhượng lại quyền kiểm soát cho Pháp. Chính quyền Pháp đã ra sức cổ súy một phong trào gọi là Nam kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Nam kỳ Cộng hòa quốc (tiếng Pháp : République de Cochinchine) đã thành lập. Từ ngày 1 tháng 6, quốc gia này dùng quốc kỳ nền vàng, với ba sọc xanh vắt ngang ở giữa. Hình dạng lá cờ có ý nghĩa biểu trưng cho ba con sông Đồng Nai, Tiền GiangHậu Giang trên đất Nam kỳ.[9]

Lá cờ này chỉ tồn tại được hai năm do chính quyền Nam kỳ quốc giải thể và sáp nhập vào Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu (ngày 2 tháng 6 năm 1948).

Quốc gia Việt NamViệt Nam Cộng hòa (1949 - 1975)

Nhà báo người Ý Tiziano Terani dựa theo lời kể một linh mục Công giáo tên là Trần Hữu Thanh cho rằng người thiết kế lá cờ này là ông Thanh do ông này đã có lần giải thích với ông Terzani vào tháng 6 năm 1975 khi Terzani viếng thăm Việt Nam sau sự kiện 30 tháng 4, năm 1975 rằng "ba sọc đỏ trên lá cờ tượng trưng cho ba miền của Việt Nam - Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), và Nam Kỳ (Conchin-China) - nhưng cũng là Ba Ngôi"[10] (Chúa cha, Chúa con, Chúa Thánh linh)[nghiên cứu chưa công bố?]. Sau này, thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, cũng dùng thông tin này của Terzani và viết thêm "Một linh mục đã nói ra tôi tin ông không nói dối và trong giai đoạn đó nói dối được cái gì. Linh-mục Thanh còn sống. Tác giả Terzani còn sống, chúng ta có thể kiểm chứng được. Như vậy, người vẽ ra lá cờ vàng ba sọc đỏ là Linh-mục dòng Tên Trần Hữu Thanh, người chấp nhận là Quốc Trưởng Bảo Đại, ông ta là con nuôi của Khâm-sứ Jean Charles."[11][cần số trang]

Thông tin khác cho rằng cờ này do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ và đã trình cho vua Bảo Đại chọn trong một phiên họp ở Hồng Kông năm 1947, với ý nghĩa màu vàng và đỏ của lá cờ vì người Việt Nam "da vàng máu đỏ"[cần dẫn nguồn] và ba sọc tượng trưng cho ba miền Bắc, Trung, Nam.[cần dẫn nguồn] Cờ có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho quẻ Càn trong Bát Quái, màu vàng thuộc hành thổ và ở vị trí trung ương thể hiện cho chủ quyền quốc gia, màu đỏ thuộc hành hỏa và chỉ phương nam. Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của lá cờ.

Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chính phủ lâm thời của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam. Lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ chính quyền Quốc gia Việt Nam (1949-1955), và sau đó là quốc kỳ cho suốt thời Đệ NhấtĐệ Nhị Việt Nam Cộng hòa (1955-1975).

Hiện nay, lá cờ này không được phép sử dụng tại Việt Nam và cũng không được Liên Hiệp Quốc công nhận. Tuy nhiên lá cờ này qua Chiến dịch Cờ Vàng đã được chính quyền của nhiều thành phố và tiểu bang thuộc Hoa Kỳ công nhận là "Lá Cờ Tự Do và Di Sản" (Heritage and Freedom Flag) và coi như là biểu tượng cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại địa phương[12].

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1969 - 1976)

Trước khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập, trong các phong trào đấu tranh của những người Cộng sản tại miền Nam Việt Nam chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa (tiêu biểu là phong trào Đồng khởi), hiệu kỳ cờ đỏ sao vàng thường được sử dụng để hiệu triệu dân chúng như một biểu tượng nhắc nhở về những thắng lợi trong cuộc Kháng chiến chống Pháp của Việt Minh.

Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động ở miền Nam Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ trang, chống Mỹ và tiến tới thống nhất đất nước, đã sử dụng hiệu kỳ cờ có nền gồm nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng.

Khi chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được thành lập năm 1969 để đối trọng với chính phủ Việt Nam Cộng hòa, hiệu kỳ này được dùng làm quốc kỳ cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Nó được sử dụng đến khi sáp nhập hai nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòaCộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Theo một số văn bản của Ban Bí thư TW Đảng Lao động Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975 và sau đó năm 1975 thì khi Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn sử dụng cờ Chính phủ CMLT, ngày mừng chiến thắng sử dụng hai cờ CPCMLT và VNDCCH; các ngày lễ sau đó cả 2 miền sử dụng treo hai cờ, miền bắc cờ Mặt trận treo các công sở, cơ quan, còn ngày thường miền nam sử dụng cờ MT.

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976 đến nay)

Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Quốc hội Việt Nam khóa VI đã lấy quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm quốc kỳ của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với vài thay đổi nhỏ so với mẫu cờ nguyên thủy. Đây chính là lá quốc kỳ chính thức đại diện cho nước Việt Nam thống nhất từ 1976 đến nay.

Cách vẽ Quốc kỳ

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Điều 141, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  2. ^ Nguyễn Hữu Tiến hay Lê Quang Sô?
  3. ^ “Quốc kỳ nước [[Việt Nam|Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam]]”. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp); Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  4. ^ a b c Thiên Sơn (2 tháng 7 năm 2005). “Nhà văn Sơn Tùng và hành trình đi tìm tác giả Quốc kỳ”. Báo Tiền Phong online. Truy cập 8 tháng 4 năm 2013.
  5. ^ a b Nguyễn Hữu Tiến hay Lê Quang Sô?
  6. ^ Tác giả quốc kỳ: vẫn là dấu chấm hỏi
  7. ^ Sự ra đời của lá cờ đỏ sao vàng ở Mỹ Tho
  8. ^ Sắc lệnh số 5, ngày 5/9/1945
  9. ^ Hoàng Cơ Thụy. Việt sử khảo luận. Paris: Nam Á, 2002.
  10. ^ Tiziano Terzani, The Fall and Liberation of Saigon, St. Martin’s Press, New York, 1976, trang 261. Nguyên văn: ”Father Tran Huu Thanh... An ideologue and adviser to Diem, it was who designed the “three banded” flag that flew over Saigon until the Liberation. “The three red stripes represent the three regions of Vietnam – Tonkin, Annam, and Cochin-China – but also the Trinity,” he once explained to me."
  11. ^ Tâm Thư Đỗ Mậu, Thiếu tướng Đỗ Mậu, NXB Đa Nguyên, Houston, Texas, Mỹ, 1995
  12. ^ Michigan, Tiểu bang thứ 12 công nhận Cờ Vàng, 2006
  • Viện Sử học (2001), Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội

Liên kết ngoài