Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Overlord (1944)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 7: Dòng 7:
|place=[[Normandie]], [[Pháp]]
|place=[[Normandie]], [[Pháp]]
|result=[[Thắng lợi quyết định]] nhưng đắt giá của quân lực [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]], mở ra công cuộc giải phóng [[Tây Âu]] của phe Đồng Minh.<ref name="debates576">''Debates of the Senate: official report (Hansard).'', Số phát hành 1-41, trang 576</ref> Nước [[Đức]] cận kề toàn bại.<ref name="badsley67"/>
|result=[[Thắng lợi quyết định]] nhưng đắt giá của quân lực [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]], mở ra công cuộc giải phóng [[Tây Âu]] của phe Đồng Minh.<ref name="debates576">''Debates of the Senate: official report (Hansard).'', Số phát hành 1-41, trang 576</ref> Nước [[Đức]] cận kề toàn bại.<ref name="badsley67"/>
|combatant1={{flagicon|Hoa Kỳ|1912}} [[Hoa Kỳ]]<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]]<br />{{flagicon|Canada|1921}} [[Canada]]
|combatant1={{flagcountry|Hoa Kỳ|1912}}<br />{{flagcountry|Vương quốc Anh}}<br />{{flagcountry|Canada|1921}}
|combatant2={{flagicon|Nazi Germany}} [[Đức Quốc Xã]]
|combatant2={{flagcountry|Nazi Germany}}
|commander1={{flagicon|Hoa Kỳ|1912}} [[Dwight D. Eisenhower]]<br />(Tổng tư lệnh quân Đồng minh)<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Bernard Montgomery]] (trên bộ)<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Bertram Ramsay]] (trên biển)<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Trafford Leigh-Mallory]] (trên không) <br />{{flagicon|Hoa Kỳ|1912}} [[Omar Nelson Bradley|Omar Bradley]] (Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ) <br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Miles Dempsey]] (Tập đoàn quân số 2 Anh quốc)<br />{{flagicon|Canada|1921}} [[Harry Crerar]] (Tập đoàn quân số 1 Canada)
|commander1={{flagicon|Hoa Kỳ|1912}} [[Dwight D. Eisenhower]]<br />(Tổng tư lệnh quân Đồng minh)<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Bernard Montgomery]] (trên bộ)<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Bertram Ramsay]] (trên biển)<br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Trafford Leigh-Mallory]] (trên không) <br />{{flagicon|Hoa Kỳ|1912}} [[Omar Nelson Bradley|Omar Bradley]] (Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ) <br />{{flagicon|Vương quốc Anh}} [[Miles Dempsey]] (Tập đoàn quân số 2 Anh quốc)<br />{{flagicon|Canada|1921}} [[Harry Crerar]] (Tập đoàn quân số 1 Canada)
|commander2={{flagicon|Nazi Germany}} [[Gerd von Rundstedt]] (Bộ chỉ huy Mặt trận phía Tây (''OB West''))<br />{{flagicon|Nazi Germany}} [[Erwin Rommel]] (Cụm tập đoàn quân B (''Heeresgruppe'' B))<br />{{flagicon|Nazi Germany}} [[Friedrich Dollmann]] (Tập đoàn quân số 7 Đức (''7.Armee Oberkommando''))
|commander2={{flagicon|Nazi Germany}} [[Gerd von Rundstedt]] (Bộ chỉ huy Mặt trận phía Tây (''OB West''))<br />{{flagicon|Nazi Germany}} [[Erwin Rommel]] (Cụm tập đoàn quân B (''Heeresgruppe'' B))<br />{{flagicon|Nazi Germany}} [[Friedrich Dollmann]] (Tập đoàn quân số 7 Đức (''7.Armee Oberkommando''))

Phiên bản lúc 13:52, ngày 26 tháng 1 năm 2019

Trận Normandie
Một phần của Mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Quân Hoa Kỳ đổ bộ vào bãi biển Omaha - hình do Robert F. Sargent. Đơn vị đổ bộ là Đại đội E, Trung đoàn 16, Sư đoàn 1 Bộ binh Hoa Kỳ.
Thời gian6 tháng 6 năm 194425 tháng 8 năm 1944
Địa điểm
Kết quả Thắng lợi quyết định nhưng đắt giá của quân lực Đồng Minh, mở ra công cuộc giải phóng Tây Âu của phe Đồng Minh.[1] Nước Đức cận kề toàn bại.[2]
Tham chiến
 Hoa Kỳ
 Anh Quốc
 Canada
 Đức
Chỉ huy và lãnh đạo
Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower
(Tổng tư lệnh quân Đồng minh)
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Bernard Montgomery (trên bộ)
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Bertram Ramsay (trên biển)
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Trafford Leigh-Mallory (trên không)
Hoa Kỳ Omar Bradley (Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ)
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Miles Dempsey (Tập đoàn quân số 2 Anh quốc)
Canada Harry Crerar (Tập đoàn quân số 1 Canada)
Đức Quốc xã Gerd von Rundstedt (Bộ chỉ huy Mặt trận phía Tây (OB West))
Đức Quốc xã Erwin Rommel (Cụm tập đoàn quân B (Heeresgruppe B))
Đức Quốc xã Friedrich Dollmann (Tập đoàn quân số 7 Đức (7.Armee Oberkommando))
Lực lượng
Ban đầu: 155.000 binh sĩ[3]
Vào ngày 24 tháng 7: 1.332.000 binh sĩ [4] Vào ngày 21 tháng 8 2,052,299 binh sĩ (chỉ tính riêng miền bắc Pháp)[5]
38 vạn binh sĩ (vào ngày 23 tháng 7)[6] 1.000.000 binh lính (chỉ tính riêng chiến dịch Normandy)
Thương vong và tổn thất
Hoa Kỳ: 29000 tử vong, 106000 bị thương hoặc mất tích;
Anh Quốc: 11000 tử vong, 54000 bị thương hoặc mất tích;
Canada: 5000 tử vong; 13000 bị thương hoặc mất tích;
Pháp: 12200 thường dân tử vong, bị thương hoặc mất tích;
Đức Quốc Xã: 23019 tử vong, 67060 bị thương, 198616 mất tích hay bị bắt[7]

Cuộc đổ bộ của quân đội khối Đồng minh vào các bãi biển vùng Normandie ngày 6 tháng 6 1944, còn gọi là Trận chiến vì nước Pháp[8], là một trong những mốc lịch sử quan trọng của Thế Chiến thứ Hai. Đây là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử[9], với hơn 150.000 quân lính của Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada cùng với quân kháng chiến Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam Anh Quốc kéo vào đất Pháp lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của quân Đức Quốc Xã. Ngay từ ngày đầu tiên, họ đã phá hủy các cầu và cắt đường liên lạc của quân Đức, và gặt hái thành công vang dội[10]. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân lực Đồng Minh giành được lợi thế vào tháng 7 năm ấy[10], đẩy được quân Đức Quốc Xã ra khỏi các căn cứ quân sự tại Normandie và trên đà thắng lợi đã tiến hành cuộc giải phóng Paris nói riêng[8], và cuộc tiến chiếm giải phóng châu Âu nói chung cũng như sự chấm dứt thắng lợi của cuộc chiến. Bất chấp sự kháng trả mãnh liệt của mình, quân Đức bị tổn thất lớn lao, lâm vào một thảm họa choáng váng.[2][11] Thắng lợi quyết định này đã làm nên một bước ngoặt lớn cho cả cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, góp phần dẫn tới sự sụp đổ của Nhà nước phát xít Đức và chấm dứt chiến tranh.[1][12][13] Để đạt được chiến thắng vang dội này, lực lượng Đồng Minh đã phải hứng chịu thiệt hại nặng nề,[11] và đại thắng cũng được xem là một trong những trận thắng vẻ vang và anh dũng nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.[1][14]

Thắng lợi này được xem là chiến thắng lớn nhất của Đại tướng AnhBernard Montgomery.[2] Chiến thắng điểm ngoặt của quân lực Đồng Minh tại Normandie được xem là thành quả của kế hoạch đồ sộ của các nhà lãnh đạo chính trị, cùng với muôn triệu người khác, trong đó có cả những người lính Đồng Minh, và cũng được xem là thành tựu lớn nhất của khối Đồng Minh trong cuộc chiến.[11][15] Và, thắng lợi ấy góp phần khiến cho quân đội Đức ở Tây Âu trở nên một đống tàn quân để mà phòng vệ miền Tây nước Đức sau đó.[16]

Tình hình trước cuộc chiến

Khối Đồng Minh

Eisenhower bàn chuyện cùng đại úy Wallace C. Strobel và Đại đội E, Trung đoàn 502, sư đoàn dù 101 - chiều ngày 5 tháng 6, 1944

Tại Hội nghị Tam cường ở Washington vào tháng 5 năm 1943, lãnh đạo ba nước Mỹ, AnhLiên Xô đã thảo luận với nhau về việc mở Mặt trận thứ hai. Thủ tướng Anh Churchill đề xuất mở một chiến dịch tấn công vào lãnh thổ Đức từ Địa Trung Hải, nhưng Tổng thống Mỹ Roosevelt phản đối kế hoạch này, do đó nó đã không được thực thi [17].

Vào tháng 02 năm 1943, chiến thắng của Hồng Quân ở trận Stalingrad đã đập tan tham vọng thôn tính Liên Xô của Đức Quốc xã. Mặc dù vậy Stalin vẫn tin rằng quân đội Liên Xô sẽ bị đánh bại nếu không có sự trợ giúp của Anh và Mỹ, do đó ông đã liên tục kêu gọi mở mặt trận thứ hai [18]. Thủ tướng Anh Churchill lại cho rằng ngay cả được sự trợ giúp của Mỹ thì Anh cũng không thể có đủ lực lượng để thực hiện một chiến dịch như vậy [19]. Tổng thống Mỹ Roosevelt ở hội nghị Tehran vào tháng 11 năm 1943 đã cam kết với Nguyên soái Stalin (Liên Xô) rằng một mặt trận thứ hai sẽ được mở. Thủ tướng Churchill tiếp tục phản đối quyết liệt do ông lo sợ việc mở một cuộc tấn công ở Tây Âu có thể dẫn đến tổn thất nặng nề cho phe Đồng Minh như đã từng xảy ra ở SommePasschendaele trong thế chiến I [20], thế nhưng ý kiến của ông đã bị bỏ ngoài tai bởi Roosevelt và việc mở mặt trận thứ hai vẫn sẽ được thực hiện.

Sau thành công của cuộc lấn chiếm bán đảo Ý phía Nam châu Âu, bộ chỉ huy Đồng Minh quyết định tạo thêm một mặt trận mới ở phía Tây để phân tán lực lượng của khối Trục đang phải đối phó với những khó khăn từ chiến trường Ngaphía Đông. Địa điểm để tạo mặt trận rõ rệt nhất là Pháp. Trong nhiều tháng đầu của 1944, quân Đồng Minh tăng cường quân số về vùng phía Nam của Anh Quốc.

Quân Đồng Minh thao dợt cho cuộc đổ bộ nhiều tháng trước nhưng giữ bí mật không để lộ cho Đức biết là sẽ đổ bộ lúc nào và vào khu nào. Các tình báo gián điệp hai bên ra sức đấu trí gài thông điệp láo để đánh lạc hướng đối phương. Tuy tổng thống lưu vong Pháp Charles de Gaulle có lên radio chính thức thông báo sẽ có cuộc đổ bộ tại Normandie nhưng tình báo Đức cho rằng đây là một trò bịp và cho tới ngày 6 tháng 6 vẫn đinh ninh rằng quân Đồng Minh sẽ đổ vào Pas-de-Calais. Do đó mà sức phòng thủ của quân Đức tại Normandie bị yếu đi nhiều. Mục đích chính của chiến dịch tấn công Normandie (Chiến dịch Overlord) là tạo một bước đầu chủ chốt để quân Đồng Minh lấy lợi thế tiến sâu vào châu Âu. Mục tiêu chiến lược đầu tiên là giành lấy thành phố Caen và tiếp theo là chiếm thành phố Cherbourg. Nếu đánh đuổi được quân Đức ra khỏi hai thành phồ này, quân Đồng Minh sẽ có đủ điều kiện để lập căn cứ làm hậu thuẫn cho các chiến dịch tại châu Âu.

Lực lượng gồm có:

Tổng tư lệnh quân Đồng minh: Đại tướng Dwight D. Eisenhower (Hoa Kỳ)

Cũng trong thời gian chuẩn bị đổ bộ này, quân dân Anh ra sức chế biến nhiều quân cụ khá khác thường như xe tăng lội nước, xe tăng có súng phun lửa, xe phá mìn, xe tăng làm cầu, làm đường hay còn gọi là ''Lũ Hề'' và loại súng cối có khả năng phá vỡ tường xi măng, bê tông.

Quân Đức Quốc Xã

Các vị trí bố phòng của quân Đức tại mặt trận Normandie

Bộ chỉ huy từ Berlin dư biết rằng quân Đồng Minh sớm muộn gì cũng sẽ xâm nhập vào châu Âu từ phía Tây. Hitler cử 3 tướng là Rundstedt, RommelDollmann sang thống lãnh các đội quân Đức phòng thủ các cứ điểm tại Pháp.

Rommel và tuyến phòng thủ bờ biển Đại Tây Dương

Ổ đại bác của Đức tại bãi biển Omaha

Ngày 22 tháng 4 1944, Rommel viết báo cáo tham quan tuyến phòng thủ bờ biển Đại Tây Dương:

Diễn tiến cuộc tấn công

Quân đoàn 2 bộ binh Anh nằm chờ để vượt qua bãi biển 'Queen White' khu SWORD
Xe tăng Cromwell từ tàu chiến đổ bộ vào khu bờ biển Arromanches

Bình minh ngày 6 tháng 6 năm 1944, binh sĩ các nước Mỹ, Anh, Pháp, Canada, ScotlandBa Lan đồng loạt đổ bộ lên bãi biển ở Normandie, bắt đầu chiến dịch giải phóng Châu Âu khỏi Đức Quốc Xã. Quân Đồng Minh chọn Normandie nhằm tránh hệ thống phòng thủ quá kiên cố của Đức ở các cảng HavreCherbourg. Cuộc đổ bộ lên Normandie tương đối thuận lợi vì trước đó quân Đồng minh đã dùng kế lừa quân Đức tập trung quân lực ở Pas-de-Calais. Erwin Rommel đã nhận ra điều đó nhưng Hitler vẫn không tin Normandie sẽ là nơi quân Đồng Minh đổ bộ nên quân lực của Đức ở đây tương đối mỏng. Việc đổ bộ vào lúc bình minh cho phép quân Đồng Minh có thể nhận biết những vật cản mà quân Đức giăng sẵn: chĩa ba bằng gỗ cứng có chứa chất nổ, chĩa ba bằng bê-tông có khả năng chọc thủng thân các xà lan đổ bộ. Để vượt qua các chướng ngại vật ấy, quân Anh và Mỹ đã sử dụng những chiến xa A2VE và DD có tác dụng rà mìn, phá nổ các vật cản bằng betong, lấp các hào sâu chuẩn bị đường đổ quân cho các xà lan đang lao đến từ biển Manche. Theo kế hoạch Overlord thì trong ngày đầu tiên quân đồng minh phải chuyển được đến Normandie 50.000 quân với 15.000 chiến xa, 2500 xe quân sự dùng trong mọi địa hình, tiếp theo sẽ là 3000 khẩu pháo và 10.000 xe các loại. Đồng thời sau 2 ngày đổ bộ sẽ có 5 sư đoàn tác chiến và sau 10 ngày sẽ có 18 sư đoàn. Những đơn vị khác, tổng cộng là 39 sư đoàn với 2 triệu quân sẽ tiếp tục đổ bộ trong 2 tháng đầu của chiến dịch Overlord. Ở phía Tây, Sư đoàn Bộ binh số 4 của Mỹ cập vào bờ biển Utah, sau 2 tiếng họ đã liên lạc được với lính dù đổ bộ xuống làng St. Mère-Église. Ở bờ biển Omaha gần đó, thế trận căng thẳng hơn, bờ biển này thích hợp để phòng thủ, với vách đá cao, ít đường vào đất liền. Khi Sư đoàn Bộ binh số 1 của Mỹ tiến lên, súng máy của Đức đã bắn hạ họ, tình hình càng xấu đi khi xe tăng lội nước của Mỹ bị lún, đội quân mắc kẹt ở bờ biển, thảm kịch dần hiện ra. Nhưng cuối cùng, một vài quân lính đã trèo được lên vách đá, quân Mỹ cố thủ ở vị trí đổ bộ bất chấp mọi nguy hiểm. Ở mạn Đông, giữa khu vực đổ bộ, Sư đoàn Bộ binh số 50 của Anh đổ bộ ở bờ biển Gold, họ cũng vấp phải hỏa lực dữ dội, nhưng giờ quân Anh đã triển khai các cỗ máy ''Lũ Hề'', đội quân nhanh chóng tiến vào đất liền. Tại điểm đổ bộ kế bên trên bờ biển Juno, Sư đoàn Bộ binh số 3 của Canada cũng gặp tình huống tương tự, ở đây các cỗ máy ''Lũ Hề'' của Anh đã giúp đưa đội quân vào bờ. Cuối cùng, ở cánh trái trên bãi biển Sword, Sư đoàn Bộ binh 3 của Anh chỉ gặp sức kháng cự lẻ tẻ. Vài tiếng sau, lực lượng đổ bộ đã gặp đội lính dù ở kênh Caen. Đầu giờ chiều, quân Đồng Minh đã thiết lập thành công tất cả các vị trí đổ bộ

Nhiệm vụ của hải quân Đồng Minh

Xe tăng của quân đội Anh Quốc tại bãi biển Dieppe

Để vận chuyển quân và hỏa lực lên các bãi biển Normandie đòi hỏi sự đóng góp cực kì quan trọng của hải quân Đồng minh. 8 nhóm chiến đấu đầu tiên có trang bị chiến xađại bác được chở trên 4000 con tàu và xà lan đổ bộ và ra đi từ các cảng PlymouthNewhaven của Anh. 1 nửa số tàu này có khả năng tự động, số còn lại phải có trục kéo. Chiến dịch này có tên gọi là Neptune và có vai trò cực kì quan trọng trong chiến dịch Overlord. Điểm tập trung ngoài khơi được đặt tên là Picadilly Circus giống như tên 1 ngã tư lớn ở Luân Đôn và các tàu từ mọi cảng đều hội tụ về đây. Và từ 4 tuyến chính ấy, các xà lan sẽ tỏa ra 10 kênh và nhắm thẳng vào bờ. Một phần của hạm đội sẽ có nhiệm vụ cảnh giác sự tấn công của tàu chiến Đức. Bộ phận hỗ trợ trực tiếp được chia thành 2 nhóm: Lực lượng đặc nhiệm (Task Force) của đô đốc Kirk, hải quân Mỹ với 3 thiết giáp hạm, 10 tuần dương hạm, 35 khu trục hạm và nhiều tàu chiến cỡ nhỏ khác có trang bị đại bác và hỏa tiễn. Lực lượng hỗ trợ tác chiến thứ 2 thuộc quyền chỉ huy của đô đốc hoàng gia Anh Sir Phillip Vian với 3 thiết giáp hạm, 13 tuần dương hạm và 44 khu trục hạm.

Hải quân Đồng Minh còn có 1 nhiệm vụ quan trọng nữa là tiếp tế quân lực lẫn lương thực, xăng dầu, quân trang, quân dụng, vũ khí cho tất cả các đơn vị chiến đấu đặt chân lên đất Pháp. Nhiên liệu thì được chuyển riêng trong những ống dẫn khổng lồ dưới biển ngoài khơi đảo Wight và rẽ ra hai nhánh hướng về QuerquevillePort-en-Bessin (Pháp). Ống dẫn được đặt tên là Pluto, huyết mạch quan trọng nhất cho sự thành công của chiến dịch Overlord.

Không quân, lính dù tham gia trận chiến

Để đảm bảo làm chủ được bầu trời khu vực đổ bộ, 7500 phi cơ của tướng chỉ huy không quân Hoàng gia Anh Leigh Mallory đã được phái đến. Các sư đoàn 3 Anh, sư đoàn 3 Canada và sư đoàn 50 Anh trong bình minh ngày 6/6 phải đổ bộ lên 3 bãi Sword, JunoGold dưới quyền chỉ huy của tướng Dempsey, tư lệnh Tập đoàn quân số 2 Anh quốc trong khi các sư đoàn 1 và sư đoàn 4 của Mỹ thì đổ bộ lên các bãi Omaha, Utah thuộc quyền chỉ huy của tướng Bradley, tư lệnh Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ. 4000 tấn bom đã được trút xuống các tuyến phòng thủ của quân Đức. Bộ chỉ huy ném bom chiến lược (Bomber Command) của không quân Mỹ, tạm ngưng đánh bom các thành phố lớn của Đức và chuyển sang chiến dịch Overlord. 3.500 pháo đài bay của Bomber Command sẽ rải thảm bom ngăn cản đường tiến lui và đường tiếp viện của quân Đức.

Cùng ngày hôm đó, các sư đoàn nhảy dù của quân Đồng minh cũng đổ bộ lên Normandie. Nếu như lính nhảy dù Anh thành công trong việc chiếm các cây cầu trên sông Ornevùng Troarn thì sư đoàn 101 của Mỹ phải chịu tổn thất nặng nề khi đổ bộ lên đầm lầy bãi Utah. Sư đoàn không kị 802 của Mỹ cũng nguy khốn không kém. 822 vận tải cơ quân sự (18 lính dù/1 chiếc) để đưa được các sư đoàn không kị Mỹ Anh đến trận địa. Những phi cơ này bay ở vận tốc 200 km/giờ và độ cao 320 mét. Mỗi lính dù phải mang 1 trọng lượng gấp đôi cơ thể. Mỗi máy bay chất đầy đạn pháo 75 li, đạn cối 60 li, đạn bazooka. 500 vận tải cơ này cất cánh từ nhiều sân bay khác nhau của miền nam nước Anh vào đêm 5 tháng 6 và bay ở đội hình tam giác 9 chiếc một, số phi cơ này dự định tiến hành thả dù từ 1 đến 2 giờ sáng ngày 6 tháng 6. Nhưng do mây mù ập đến bất chợt nên đội hình bay bị xáo trộn, nhiều phi cơ bay chệch hướng và thả dù rất thấp gây tử vong cho lính dù rất nhiều ở Cotentin và các vùng thung lũng ngập nước DouveMerderet. Chỉ có 2 trong số 6 trung đoàn nhảy dù xuống vùng tương đối thuận lợi nên kế hoạch nhảy dù của tấn công bất ngờ quân Đức đã không được kết quả như mong muốn.

Nếu như việc nhảy dù không mấy thành công thì việc đổ bộ tại 4 trong 5 bãi tiến hành tương đối khá tốt. Quân Đức hoàn toàn bất ngờ về việc quân Đồng minh đổ bộ lúc nửa triều nên không thực hiện được chiến thuật tác xạ đã bàn giao trước đó. Quân Đức phải mất một thời gian để chỉnh lại góc tác xạ của đại liên, cối, pháo tạo điều kiện cho quân Đồng minh tìm được chỗ ẩn náu để mở cuộc tiến công. Việc đánh bom chuẩn bị dọn đường cho quân đổ bộ với việc thả hơn 5000 tấn bom từ 1036 phóng pháo cơ Mỹ tuy có hiệu quả nhưng lại không dứt điểm được các công sự bằng bêtong của quân Đức. Ngược lại ca nông bắn đi từ các tàu chiến phe Đồng minh lại đạt hiệu quả rất cao. Các thiết giáp hạm Nelson, Ramillies, Roberts, Erebus liên tục nã đại pháo 406 mm và 380 mm chính xác vào phòng tuyến đối phương chẳng hạn như các khẩu pháo của Đức đặt tại Houlgate có khả năng bắn trả vào cuộc đổ bộ của quân Anh. Nhưng tại mũi Hoc, với những đại pháo với tầm bắn bao trùm cả cửa ngõ sông Douve, trong khu vực đổ bộ của quân Mỹ thì hoàn toàn không hề hấn gì sau những trận mưa bom và hải pháo. Tiểu đoàn 2 biệt động quân Mỹ được lệnh phải hạ các lô cốt và thiệt mất 1135 binh sĩ.

Hoạt động của ba sư đoàn dù, sư đoàn 6 không kị Anh, sư đoàn 82 và sư đoàn 101 không kị Mỹ - cũng đã phần nào tạo thuận lợi cho 4 sư đoàn bộ binh Mỹ tại các đụn cát giữa VarevilleMadeleine, phía nam Cotentin. Các đơn vị đã có thể tiến dọc theo những lộ trình đã được vạch sẵn và giải toả mọi mìn bẫy. Các đoàn quân này ngay trong chiều ngày 6 tháng 6 năm 1944 đã đến được khu vực làng Sainte-Mere-Eglise mà mới sáng hôm đó là điểm nhảy dù của sư đoàn không kị 82 của Mỹ. Trong lúc đó, quân Đức chuẩn bị cho 1 cuộc phản công do đó quân Mỹ đổ bộ lên bãi Omaha đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức. Những tràng đại liên và pháo của sư đoàn bộ binh 352 của Đức khiến quân Mỹ gặp rất nhiều tổn thất trước khi đến được Isigny ở phía Tây và liên lạc với quân Anh ở hướng Đông. Cơn tắm máu ở bãi Omaha không chỉ do sức kháng cự của quân Đức mà còn do sai lầm của quân Đồng Minh khi không sử dụng các chiến xa vô hiệu hóa các công sự phòng thủ trên bãi. Ngược lại, quân Anh và Canada lại sử dụng triệt để các chiến xa phá mìn trong khu vực bãi Goldbãi Juno. Quân Canada nhanh chóng giải phóng Bayeux và mãi đến chiều tối Đức mới phản công lần nữa bằng việc đưa sư đoàn thiết xa Panzer 21 ra trận. Đến chiều ngày 8 tháng 6 thì đầu cầu đổ bộ đã hình thành rõ ràng và vững chắc, quân Đồng minh đã bắt liên lạc được với nhau giữa năm bãi đổ bộ, chiếm đóng 56 km bờ biển với chiều sâu từ 8 đến 16 km. Chiến dịch Overlord xem như thành công và quân Đức quá bất ngờ nên trở tay không kịp. Gần 1 ngày sau, quân Đức mới tổ chức phòng ngự và chuyển quân tiếp viện đến gần bờ biển với hi vọng đánh bật quân Đồng Minh ra khỏi bờ biển. Nhưng quân Đức phải xung trận trong điều kiện hoàn toàn bất lợi: không quân Đồng minh đã kiểm soát toàn bộ bầu trời, quân Đức phải sử dụng địa hình Normandie để tổ chức phòng ngự. Trận chiến Normandie phải tiếp tục kéo dài vì trong suốt tháng 6 quân Đồng minh chỉ lo củng cố đầu cầu đổ bộ hơn là tiếp tục tấn công.

Với bàn đạp vững chắc tại Normandie, chiến dịch của quân Đồng minh Mỹ - Pháp - Canada đã đại thắng. Phe Đồng minh hứng chịu ít tổn thất hơn dự đoán. Trong khi sức kháng cự của quân Đức cũng yếu ớt hơn dự đoán, quân Đồng minh đã tỏ ra nhanh chân hơn quân Đức trong việc bố trận.[10] Dẫu sao đi chăng nữa, tổn hại của quân Đồng Minh trong ngày đầu rất nặng nề, trong đó có 1074 binh sĩ Canada bị thương. Nhưng, thắng lợi quyết định của họ đã góp phần đánh đổ hoàn toàn Nhà nước phát xít Đức.[1]

Giai đoạn 2 của cuộc chiến

Ngày 27 tháng 6 1944 mở đầu giai đoạn 2 của trận chiến Normandie, sau khi quân Đồng minh chiếm được cảng Cherbourg dù quân Đức đã gài mìn rất kĩ khu vực này. Cho đến ngày 25 tháng 7 1944 lực lượng Đồng minh ngày càng đông và mạnh nhưng đều bị cầm chân trong vùng đầm lầy tại Normandie. Tuy nhiên không quân Đồng minh đã hoàn toàn làm chủ bầu trời với 12000 phi vụ so với 319 phi vụ của quân Đức. Quân Đức cũng đã chỉnh đốn lại hàng ngũ và tinh thần chiến đấu: trong đêm 6 và 7 tháng 6, 12 sư đoàn Panzer SS đã lên vị trí chiến đấu cạnh sư đoàn 21 bộ binh. Pháo binh Đồng minh tiến hành mưa đại pháo và tiêu diệt được 31 xe tăng, chặn đứng cuộc tiếp quân của quân Đức. Nhưng quân tiếp viện của Đức tiếp tục được tung ra do tướng Bayerlein chỉ huy sư đoàn Panzer Lehr tại khu vực quân Anh-Canada ở Caen. Sư đoàn 2 bọc thép SS Das Reich rời Toulouse đến Normandie tham chiến cùng với sư đoàn 17 Panzer ở phía nam sông Loire, sư đoàn 77 bộ binh ở Saint Malo và sư đoàn 3 dù tại Brest. Về phía tướng Erwin Rommel thì quyết định hành quân chiếm lại Caen khi tung ra các sư đoàn 21, sư đoàn 112 và sư đoàn Panzer Lehr và ngày 8/6. Nhưng nhờ máy giải mã Ultra, quân Đồng minh biết được ý đồ của quân Đức và đưa máy bay đến oanh tạc chặn đường hành quân của chúng. 300 xe tăng của sư đoàn 7 thiết kị Anh, từng tham chiến tại Bắc Phi, được điều về cho tướng Anh Montgomery. Cùng với số tăng của sư đoàn 51 Anh, sư đoàn 7 thiết kị Anh có trách nhiệm đập tan kế hoạch phản công của quân Đức. Nhiều trận đánh tăng đã diễn ra vô cùng ác liệt giữ

a xe tăng Tiger, Panther của Đức và Sherman của Anh.

Lợi thế đã nghiêng dần về cho phe Đồng Minh trong tháng 7 năm 1944.[10]

Quân Mỹ tổng tấn công

Các tướng Mỹ chỉ huy việc đổ bộ lên bãi Omaha, tướng Omar Bradley là người thứ hai từ trái sang.

Dù số quân được đưa vào tác chiến tại khu vực Caen khá đông và đều có kinh nghiệm chiến trường như sư đoàn 11, sư đoàn 43 và sư đoàn 15 Scotland, cộng chung là 60.000 người và 600 chiến xa nhưng kế hoạch Epsom của tướng Montgomery tung ra ngày 22 tháng 6 đã thất bại vì quân Đức núp trong các giao thông hào đào liên tục sử dụng đại liênPanzerfaust và những thứ vũ khí này thể hiện tính hiệu quả rất cao. Quân Scotland thiệt hại 2500 người chỉ trong 4 ngày chiến đấu nên tướng Montgomery hủy bỏ kế hoạch Epsom và thay vào đó là cuộc tấn công của quân Mỹ.

Tập đoàn quân số 1 của Mỹ có nhiệm vụ thọc sâu xuống hướng Nam: 4 quân đoàn của tập đoàn quân 1 sẽ trải rộng từ La Haye-du-Puits (quân đoàn 8) và Carentan (quân đoàn 7) đến Caumont-L'Evente (quân đoàn 19 và quân đoàn 5). Quân Đức tại khu vực rộng lớn này gồm quân đoàn 34 của tướng Von Choltitz vừa được bổ sung thêm sư đoàn Das Reich và quân đoàn 2 dù của tướng Meindl. Cả 1 triệu quân Mỹ chỉ có thể tiến từng bước một trước sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức. Tướng Mỹ Bradley rất bực tức đã dành 10 ngày để chuẩn bị cho chiến dịch Cobra, chiến dịch mang đến chiến thắng cho quân Mỹ tại khu vực này. Một lần nữa để kìm chân quân Đức tại Caen, tướng Montgomery quyết định tiến hành chiến dịch Goodwood trước chiến dịch Cobra. Trong khi đó tướng Đức Von Kluge, người nắm quyền thay thế tướng Rundstedt đã đưa tướng Eberbach lên làm chỉ huy tập đoàn quân thiết giáp phía tây. Từ Caumont-L'Evente đến cửa ngõ sông Orne, tướng Eberbach nắm trong tay 3 quân đoàn bọc thép thiện chiến và các sư đoàn xuất sắc như 47, 1 và 2 SS. Quân đoàn 86 ở lại trấn giữ mạn đông sông Orne. Ngày 15 tháng 7 năm 1944, chiến dịch Goodwood mở màn với cuộc tấn công của 3 quân đoàn tập trung vào dòng Odon và dựa vào hỏa lực xung kích của 3 sư đoàn thuộc quân đoàn 8. Các sư đoàn Đồng minh thực hiện cuộc tấn công gồm những đơn vị thiện chiến nhất của khinh kị Anh. Thế nhưng nhóm tác chiến của tướng Von Luck, sư đoàn 21 Panzer cũng gây thiệt hại lớn cho quân Anh khi dùng đại bác 88 ly cao xạ bắn trực tiếp. Những chiếc xe tăng Tiger của tiểu đoàn 505 Đức sau khi thoát khỏi trận oanh kích của máy bay Đồng minh đã gây nhiều tổn thất cho sư đoàn tăng Sherman của Anh. Sư đoàn 1 Panzer SS Adolf Hitler cho xung trận thêm 45 chiến xa và đại bác xung kích và tiêu diệt các chiến xa của trung đoàn 3 Anh vào ngày 18 tháng 7. Quân Anh mất 500 chiến xa trên tổng số 1000 chiếc tham chiến vào chiến dịch. Tuy nhiên kế hoạch này đã phần nào cầm chân và giảm sức kháng cự của quân Đức để cho quân Mỹ có thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch quan trọng nhất, chiến dịch Cobra.

Chiến dịch Rắn đuôi chuông

Chiến dịch Rắn đuôi chuông là chiến dịch quyết định. Ngày 28 tháng 7, tướng Patton xua quân chiếm được Coutances rồi lần lượt giải phóng Granville, Avranches. Từ Pontaubault, Patton kiểm soát được Mont-saint-Michel, cửa ngõ của Bretagne. Sau khi chọc thủng thành công phòng tuyến quân Đức, Patton xua quân đánh sâu xuống miền Nam về hướng thành phố Manssông Loire. Gần 1 tháng sau, ngày 21 tháng 8, quân Đồng minh chiếm Falaise, loại được 40 ngàn binh sĩ Đức ra khỏi vòng chiến, thế nhưng 5 vạn quân Đức đã trốn thoát được.[8] Dù sao đi chăng nữa, trận Falaise cũng là một thất bại nặng nề và choáng váng của người Đức[2]. Thắng lợi của Chiến dịch Normandie đã chứng tỏ tiềm lực của Quân đội Hoa Kỳ.[22] Mặc dầu thảm bại này vẫn chưa phải là thất bại to lớn nhất của quân lực Đức trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai,[16] đây vẫn được xem là thắng lợi lớn nhất của quân Đồng Minh khi ấy[23]Hitler xem như mất quyền kiểm soát lãnh thổ Pháp vì không lâu sau đó quân Đồng minh tiếp tục thành công trong 1 cuộc đổ bộ khác tại Provence.

Hậu quả

Trong khi cuộc đổ bộ Normandie là thành công của quyết định táo bạo của Eisenhower,[24] với tổn thất to lớn, Tập đoàn quân thứ 7 và phần lớn Tập đoàn quân xe tăng thứ năm của quân Đức đã bị tiêu diệt trong trận Falaise.[10] Như thế là, cụm Tập đoàn quân B đã bị "hoàn toàn chết trụi", bất ngờ đem lại thảm kịch cho Hitler và nền Đệ Tam Đế chế.[2] Trên đà thắng lợi, phe Đồng Minh đã giải phóng Paris vào ngày 25 tháng 8 năm 1944.[25] Song, ngay cả sau khi thua trận chiến vì nước Pháp này rồi, Quân đội Đức Quốc Xã vẫn là một trong những đội quân hùng mạnh nhất trên thế giới thời bấy giờ. Vốn chỉ còn là một đống tàn quân sau thất bại, họ vẫn sẽ tiếp tục quyết liệt trong Trận chiến vì nước Đức.[8][16] Nhưng mặt khác, mọi hy vọng thắng lợi của họ đã tiêu tùng sau thất bại trong trận Normandie.[22]

Để giành được thắng lợi quyết định này, không ít binh sĩ Đồng Minh đã ngã xuống hy sinh.[1] Theo Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, tầm trọng đại của "Chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong lịch sử" này được thể hiện qua khả năng hợp tác vững chắc giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ.[23]

Dựng lại bối cảnh trận Normandy

Trận Normandy là chủ đề của nhiều bộ phim, các TV show, bài hát, trò chơi điện tử và sách. Đây là một số ví dụ:

Phim:

  • Bataillon du ciel (sky's battalion), Một bộ phim của Pháp năm 1947 đạo diễn bởi Alexandre Esway dựa trên cuốn sách của Joseph Kessel: Lực lượng SASBrittany từ 5 tháng 6 đến tháng 8 năm 1944.
  • Saving Private Ryan, một bộ phim Mỹ năm 1998 đạo diễn bởi Steven Spielberg với sự góp mặt của Tom HanksMatt Damon
  • Un jour avant l'aube (One day before dawn), một bộ phim của Pháp năm 1994 đạo diễn bởi Jacques Ertaud: lực lượng SAS ở Brittany.
  • Band of Brothers, phim bộ nhiều tập năm 2001 sản xuất bởi Steven SpielbergTom Hanks dựa trên cuốn sách cùng tên viết bởi Stephen Ambrose.
  • The Longest Day, một bộ phim năm 1962 dựa trên cuốn sách cùng tên của Cornelius Ryan.
  • D-Day 6.6.1944, một bộ phim tài liệu năm 2004 của BBC/Discovery. Bộ phim dài 2 giờ bao gồm những cuộc phỏng vấn với các cựu chiến binh đã từng tham gia trận chiến.

Trò chơi điện tử:

  • Company of heroes: Một trò chơi game dàn trận sản xuất bởi THQ
  • Call of duty 2: Một trò chơi thể FPS do studio game Infinity Ward phát triển và nhà phát hành Activision ra mắt vào năm 2005.
  • Call Of Duty WWII: Phần mới nhất của trò chơi trên
  • Medal of honor series: Một số phần trong loạt trò chơi có dựng lại trận Normandy
  • Soldiers: Heroes of WWII: Phần chiến dịch của người Đức trong trò chơi, tựa đề "Hunter", diễn ra sau cuộc đổ bộ và cho phép người chơi điều khiểu chỉ huy xe tăng Đức Michael Wittmann.
  • 1944 D-Day Operation Overlord: Trò chơi dựng lại toàn bộ cuộc chiến. Người chơi có thể trở thành phi công, một thủy thủ, một chỉ huy tăng, hoặc bất cứ ai thuộc cả hai phe.
  • Commandos 3 Destination Berlin
  • Frontline Commando: D-Day
  • Call Of Duty: World War II do Activision phát hành và Sledgehammer Games phát triển năm 2017

Chú thích

  1. ^ a b c d e Debates of the Senate: official report (Hansard)., Số phát hành 1-41, trang 576
  2. ^ a b c d e f Stephen Badsey, Arnhem 1944: Operation Market Garden, các trang 6-7.
  3. ^ "By midnight, 155.000 Allied troops were already ashore" The Second World War. 1989. tr. 534. ISBN 9-780805-017885. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  4. ^ Tamelander, M, Zetterling, N (2004), Avgörandes Ögonblick: Invasionen i Normandie. Norstedts Förlag, p. 295
  5. ^ Zetterling, Niklas (2000). Normandy 1944: German Military Organisation, Combat Power and Organizational Effectiveness. J.J. Fedorowicz Publishing Inc.. ISBN 0-921991-56-8. trang 341
  6. ^ Zetterling, p. 32: "When Operation Cobra was launched, the Germans had brought to Normandy about 410.000 men in divisions and non-divisional combat units. If this is multiplied by 1.19 we arrive at approximately 490.000 soldiers. However, until July 23, casualties amounted to 116.863, while only 10.078 replacements had arrived."
  7. ^ Zetterling, p.77: "The following casualties were recorded during the summer of 1944 for OB West", followed by a table for the months of June, July and August, previously he also noted casualty ratings as reported in "British literature" he assumes to be based on wartime estimates; "210.000 prisoners and 240.000 killed and wounded"
  8. ^ a b c d Donald L. Miller, Masters of the air: America's bomber boys who fought the air war against Nazi Germany, trang 310
  9. ^ Ian Holm. (Documentary). UK: BBC. Sự kiện xảy ra vào lúc 49:45. The fleet of ships now embarking on the 24 hour journey to France is the greatest armada the world has ever seen. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  10. ^ a b c d e Ken Ford, Howard Gerrard, Falaise 1944: death of an army, các trang 7-8.
  11. ^ a b c Martin Gilbert, D-Day
  12. ^ Muriel R. Gillick, Once They Had a Country: Two Teenage Refugees in the Second World War, trang 124
  13. ^ Thomas J. Cutler, The Battle of Leyte Gulf: 23-ngày 26 tháng 10 năm 1944, trang XIV
  14. ^ Congressional Record: Proceedings and Debates of the 105th Congress, First Session Vol. 143 Part 5, trang 6295
  15. ^ John Keegan, Six armies in Normandy: from D-Day to the liberation of Paris, trang 368
  16. ^ a b c John Keegan, Six armies in Normandy: from D-Day to the liberation of Paris, trang XVII
  17. ^ Ford & Zaloga 2009, tr. 10.
  18. ^ http://spartacus-educational.com/RUSsecond.htm
  19. ^ Ford & Zaloga 2009, tr. 8–10.
  20. ^ Churchill 1951, tr. 582.
  21. ^ Omaha Beach: D-Day, ngày 6 tháng 6 năm 1944 - Joseph Balkoski. Trang 37.
  22. ^ a b Jeremy Black, The Age of Total War, 1860-1945, các trang 145-146.
  23. ^ a b Jack Godwin, The Arrow and the Olive Branch: Practical Idealism in U.S. Foreign Policy, trang 75
  24. ^ Michael A. Genovese, Encyclopedia of the American Presidency, trang 166
  25. ^ John Keegan, Six armies in Normandy: from D-Day to the liberation of Paris, trang 308

Đọc thêm

  1. Robert W. Coakley and Richard M. Leighton, Global Logistics and Strategy (1968);
  2. Martin Blumenson, Breakout and Pursuit (1961);
  3. Forrest C. Pogue, The Supreme Command (1954);
  4. Roland G. Ruppenthal, Logistical Support of the Armies (1953); and
  5. Graham A. Cosmas and Albert E. Cowdrey, The Medical Department: Medical Service in the European Theater of Operations (1992).
  • The Historical Division of the War Department produced three volumes on the event. All have been reprinted by the Center of Military History. Classified as the American Forces in Action series, they are:
  1. OMAHA Beachhead (1989);
  2. UTAH Beach to Cherbourg (1990); and
  3. St. Lo (1984).
  • The British Government following the war also issued an official history of the British involvement in the war to be researched and published, the final result being the massive series known as History of the Second World War. The following cover the Normandy Campaign:
  1. L.F. Ellis, Victory in the West: The Battle of Normandy, Official Campaign History v. I (History of the Second World War: United Kingdom Military), Naval & Military Press Ltd; New Ed edition (Sep 2004)., 1-84574-058-0
  2. Michael Howard, British Intelligence in the Second World War: Volume 5, Strategic Deception, Cambridge University Press (ngày 26 tháng 10 năm 1990). ISBN 0-52140-145-3 (Series edited by F. H. Hinsley)
  3. Grand Strategy, Volume 5: August 1943 – September 1944, 1956
  • Numerous abbreviated histories have been written. Among the most useful are:
  1. Charles MacDonald, The Mighty Endeavor: American Armed Forces in the European Theater in World War II (1969); and
  2. Charles MacDonald and Martin Blumenson, "Recovery of France", in Vincent J. Esposito, ed., A Concise History of World War II (1965).
  • Memoirs by Allied commanders contain considerable information. Among the best are:
  1. Omar N. Bradley, A Soldier's Story (1951);
  2. Omar N. Bradley and Clay Blair, A General's Life (1983);
  3. Dwight D. Eisenhower, Crusade in Europe (1948);
  4. Sir Bernard Law Montgomery of Alamein, Normandy to the Baltic (1948);
  5. Sir Bernard Law Montgomery of Alamein, The Memoirs of Field Marshal the Viscount Montgomery of Alamein, K.G., Collins (1958). and
  6. Sir Frederick Edgeworth Morgan, Overture to Overlord (1950).
  • Memoirs by Allied soldiers of various ranks also give a good insight into the campaign.
  1. Kurt Meyer, Grenadiers, Stackpole Books,U.S., New Ed edition (ngày 15 tháng 5 năm 2005)., ISBN 0-81173-197-9
  2. Stuart Hills, By Tank Into Normandy, Cassell military; New Ed edition (ngày 11 tháng 9 năm 2003)., 0-30436-640-4
  3. Hans von Luck, Panzer Commander: The Memoirs of Colonel Hans von Luck, Cassell military; New Ed edition (ngày 9 tháng 3 năm 2006)., ISBN 0-30436-401-0
  4. B.H. Liddell-Hart, The Rommel Papers (section on Normandy wrote by Lt.Gen Fritz Bayerlein)
  • Almost as useful are biographies of leading commanders. Among the most prominent are:
  1. Stephen E. Ambrose, The Supreme Commander: The War Years of General Dwight D. Eisenhower (1970), and Eisenhower, Soldier, General of the Army, President-Elect, 1890–1952 (1983);
  2. Nigel Hamilton, Master of the Battlefield: Monty's War Years, 1942–1944 (1983);
  3. Richard Lamb, Montgomery in Europe, 1943–1945: Success or Failure (1984);
  4. Hamilton, Nigel. "Montgomery, Bernard Law" in Oxford Dictionary of National Biography. Oxford; New York: Oxford University Press, 2004. ISBN 019861411X, ISBN 0198613512.
  5. Ronald Lewin, Rommel as Military Commander (1968).
  • Numerous general histories also exist, many centering on the controversies that continue to surround the campaign and its commanders. See, in particular:
  1. John Colby, War From the Ground Up: The 90th Division in World War II (1989);
  2. Carlo D'Este, Decision in Normandy: The Unwritten Story of Montgomery and the Allied Campaign (1983);
  3. Max Hastings, Overlord, D-Day, ngày 6 tháng 6 năm 1944 (1984);
  4. John Keegan, Six Armies in Normandy: From D-Day to the Liberation of Paris (1982);
  5. Robin Neillands, The Battle of Normandy 1944 (2002);
  6. Stephen T. Powers, "Battle of Normandy: The Lingering Controversy", Journal of Military History 56 (1992):455–71.
  7. Russell F. Weigley, Eisenhower's Lieutenants: The Campaign of France and Germany, 1944–45 (1981);
  8. Cornelius Ryan, The Longest Day, (1959);
  9. Stephen Ambrose, D-Day: ngày 6 tháng 6 năm 1944, The battle for the Normandy beaches, (1994);
  10. Milton Shulman, Defeat in the West, (New Ed edition 2003)
  11. Richard Holmes, The D-Day Experience: From the Invasion to the Liberation of Paris with Other and Map and CD,(2004);
  12. Chester Wilmot, The Struggle for Europe, (New Ed edition 1997), and
  13. Stephen Ashley Hart, Colossal Cracks: Montgomery's 21st Army Group in Northwest Europe, 1944–45, (2007)
  • Journalists were among the foremost observers of the invasion. Two studies of their work that stand out are:
  1. Barney Oldfield, Never a Shot in Anger (1956); and
  2. Richard Collier, Fighting Words: The Correspondents of World War II (1989). CMH Pub 72–18