USS Doyen (DD-280)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
AlternateTextHere
Tàu khu trục USS Doyen (DD-280)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Doyen (DD-280)
Đặt tên theo Charles A. Doyen
Xưởng đóng tàu Bethlehem Shipbuilding Corporation, Squantum Victory Yard
Đặt lườn 24 tháng 3 năm 1919
Hạ thủy 26 tháng 7 năm 1919
Người đỡ đầu cô F. E. Doyen
Nhập biên chế 17 tháng 12 năm 1919
Tái biên chế 26 tháng 9 năm 1923
Xuất biên chế
Xóa đăng bạ 12 tháng 7 năm 1930
Số phận Bán để tháo dỡ, 20 tháng 12 năm 1930
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Clemson
Trọng tải choán nước
  • 1.215 tấn Anh (1.234 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.308 tấn Anh (1.329 t) (đầy tải)
Chiều dài 314 ft 5 in (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft 9 in (9,68 m)
Mớn nước 9 ft 10 in (3,00 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Westinghouse;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 26.500 hp (19.800 kW)
Tốc độ 35 kn (65 km/h)
Tầm xa 4.900 nmi (9.070 km; 5.640 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 130 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Doyen (DD-280) là một tàu khu trục lớp Clemson được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên Thiếu tướng Thủy quân Lục chiến Charles A. Doyen (1859-1918). Doyen ngừng hoạt động và bị tháo dỡ năm 1930 nhằm tuân thủ quy định hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Doyen được đặt lườn vào ngày 24 tháng 3 năm 1919 tại xưởng tàu Squantum Victory Yard của hãng Bethlehem Shipbuilding CorporationSquantum, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 7 năm 1919, được đỡ đầu bởi cô F. E. Doyen, con gái Thiếu tướng Doyen; và được đưa ra hoạt động vào ngày 17 tháng 12 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân J. H. Klein, Jr..

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Doyen đi đến San Diego, California vào ngày 15 tháng 3 năm 1920 để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Được đặt trong tình trạng bán-dự bị vào ngày 17 tháng 8, với một nửa biên chế thành phần nhân sự, nó tham gia các hoạt động thực tập và huấn luyện dự bị cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 8 tháng 6 năm 1922.

Doyen được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 26 tháng 9 năm 1923, và tiếp nối các hoạt động huấn luyện và thực tập dọc theo vùng bờ Tây, vùng kênh đào Panamaquần đảo Hawaii. Nó khởi hành từ San Diego vào ngày 20 tháng 8, để hộ tống cho chiếc tàu tuần dương Nhật Bản Tama, và đã phục vụ dẫn đường và liên lạc cho chuyến bay thẳng đầu tiên từ lục địa đến Hawaii. Việc thực tập lại được tiến hành tại vùng kênh đào và vùng biển Caribe vào năm 1926, và vào cuối năm đó, nó đi đến Bremerton, Washington để đại tu rồi viếng thăm Ketchikan, Alaskavịnh Duncan, British Columbia.

Doyen lên đường vào ngày 26 tháng 4 năm 1927 đi sang vùng bờ Đông để tham gia cuộc tập trận phối hợp Hải-Lục quân tại Newport, Rhode Island. Nó quay trở về vùng bờ Tây vào ngày 25 tháng 6, tiếp nối các hoạt động huấn luyện và thực tập chiến thuật cùng Hạm đội Chiến trận tại vùng bờ Tây, ngoài khơi Trân Châu Cảng và vùng kênh đào Panama. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 25 tháng 2 năm 1930 và bị tháo dỡ vào ngày 20 tháng 12 năm 1930 nhằm tuân thủ các điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]