USS Kennedy (DD-306)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Kennedy (DD-306)
Tàu khu trục USS Kennedy (DD-306)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Kennedy (DD-306)
Đặt tên theo John P. Kennedy
Xưởng đóng tàu Bethlehem Shipbuilding Corporation, Union Iron Works, San Francisco
Đặt lườn 25 tháng 9 năm 1918
Hạ thủy 18 tháng 1 năm 1919
Người đỡ đầu bà Eugene F. Essner
Nhập biên chế 5 tháng 8 năm 1920
Xuất biên chế 20 tháng 2 năm 1930
Xóa đăng bạ 18 tháng 11 năm 1930
Số phận Bán để tháo dỡ, 23 tháng 4 năm 1932
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Clemson
Trọng tải choán nước
  • 1.215 tấn Anh (1.234 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.308 tấn Anh (1.329 t) (đầy tải)
Chiều dài 314 ft 5 in (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft 9 in (9,68 m)
Mớn nước 9 ft 10 in (3,00 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Westinghouse;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 26.500 hp (19.800 kW)
Tốc độ 35 kn (65 km/h)
Tầm xa 4.900 nmi (9.070 km; 5.640 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 122 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Kennedy (DD-306) là một tàu khu trục lớp Clemson được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ mang cái tên USS Kennedy, và là chiếc thứ hai được đặt theo tên Bộ trưởng Hải quân John P. Kennedy (1795-1870). Kennedy ngừng hoạt động năm 1930 và bị tháo dỡ năm 1932 nhằm tuân thủ quy định hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Kennedy được đặt lườn vào ngày 25 tháng 9 năm 1918 tại xưởng tàu Union Iron Works của hãng Bethlehem Shipbuilding CorporationSan Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 2 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà Eugene F. Essner; và được đưa ra hoạt động vào ngày 16 tháng 8 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Charles Jefferson Parrish.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Kennedy đi đến cảng nhà của nó tại San Diego, California vào ngày 7 tháng 10 năm 1920, và gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương cho các cuộc thực tập và cơ động dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ, trải rộng từ vùng Tây Bắc Thái Bình Dương cho đến Nam Mỹ. Các hoạt động thường xuyên của nó bao gồm thực tập tác xạ, thực hành ngư lôi, canh phòng máy bay, tập trận hạm đội và cơ động chiến trận phối hợp với Lục quân.

Vào mùa Xuân năm 1924, Kennedy băng qua kênh đào Panama tham gia cuộc tập trung hạm đội tại vùng biển Caribe. Nó quay trở về San Diego vào ngày 22 tháng 4 để tiếp nối các hoạt động thường lệ, rồi lại lên đường vào ngày 13 tháng 6 năm 1925 tham gia tập trận Vấn đề Hạm đội, rồi tham gia các cuộc thực tập ngoài khơi quần đảo Hawaii. Trong chuyến đi này, nó tháp tùng Hạm đội Chiến trận trong chuyến đi viếng thăm Pago Pago, Samoa và các cảng ở AustraliaNew Zealand, quay trở về San Diego vào ngày 26 tháng 9. Đến năm 1927, nó lại đi sang vùng biển Caribe để thực tập, lần này được kéo dài bằng chuyến viếng thăm Norfolk, VirginiaNew York trước khi quay trở về San Diego vào ngày 22 tháng 5. Nó lại lên đường vào ngày 9 tháng 4 năm 1928 cho một cuộc cơ động hạm đội quy mô lớn tại vùng biển Hawaii, và quay trở lại các hoạt động thường lệ tại San Diego hai tháng sau đó.

Sau các chuyến đi huấn luyện quân nhân dự bị vào mùa Hè năm 1929, Kennedy đi đến San Diego vào ngày 27 tháng 9, và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 1 tháng 5 năm 1930. Chiếc tàu khu trục bị bán để tháo dỡ vào ngày 19 tháng 3 năm 1931 nhằm tuân thủ các điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]