USS Meyer (DD-279)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Meyer (DD-279)
Đặt tên theo George von Lengerke Meyer
Xưởng đóng tàu Bethlehem Shipbuilding Corporation, Squantum Victory Yard
Đặt lườn 6 tháng 2 năm 1919
Hạ thủy 18 tháng 7 năm 1919
Người đỡ đầu bà C. R. P. Rodgers
Nhập biên chế 17 tháng 12 năm 1919
Xuất biên chế 15 tháng 5 năm 1929
Xóa đăng bạ 25 tháng 11 năm 1930
Số phận Bán để tháo dỡ, 25 tháng 2 năm 1932
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Clemson
Trọng tải choán nước
  • 1.215 tấn Anh (1.234 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.308 tấn Anh (1.329 t) (đầy tải)
Chiều dài 314 ft 5 in (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft 9 in (9,68 m)
Mớn nước 9 ft 10 in (3,00 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Westinghouse;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 26.500 hp (19.800 kW)
Tốc độ 35 kn (65 km/h)
Tầm xa 4.900 nmi (9.070 km; 5.640 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 130 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Meyer (DD-279) là một tàu khu trục lớp Clemson được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên Bộ trưởng Hải quân George von Lengerke Meyer (1858-1918). Meyer ngừng hoạt động năm 1929 và bị tháo dỡ năm 1932 nhằm tuân thủ quy định hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Meyer được đặt lườn vào ngày 6 tháng 2 năm 1919 tại xưởng tàu Squantum Victory Yard của hãng Bethlehem Shipbuilding CorporationSquantum, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 7 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà C. R. P. Rodgers, con gái Bộ trưởng Meyer; và được đưa ra hoạt động vào ngày 17 tháng 12 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân W. E. Clarke.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy tại vùng bờ Đông, Meyer khởi hành từ Boston, Massachusetts vào ngày 9 tháng 2 năm 1920 để đi sang vùng bờ Tây. Nó đi đến San Diego, California vào ngày 1 tháng 4, chỉ để nhanh chóng lên đường không lâu sau đó cho chuyến đi đến San Francisco, California và nhiều cảng ở Alaska. Quay trở về San Diego vào ngày 18 tháng 8, nó tiếp tục hoạt động dọc theo vùng bờ Tây, trải dài từ Alaska đến tận Panama, xen kẻ với những chuyến đi đến vùng quần đảo Hawaii, trong suốt tám năm rưỡi tiếp theo. Trong thời gian này, vào tháng 8 năm 1927, nó phục vụ như cột mốc dẫn đường hỗ trợ các phi công tham gia cuộc đua Dole từ lục địa Hoa Kỳ đến Hawaii.

Vào đầu năm 1929, chiếc tàu khu trục được cho đại tu chuẩn bị ngừng hoạt động, và nó được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 5 năm 1929 tại San Diego. Đến ngày 17 tháng 6, nó được cho kéo đến Xưởng hải quân Mare Island để tháo dỡ. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 25 tháng 11 năm 1930 và vật liệu của nó bị bán vào ngày 25 tháng 2 năm 1932.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]