Khác biệt giữa bản sửa đổi của “A Lưới”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n fix link Đa Krông --> Đakrông (via JWB)
Thẻ: Đã bị lùi lại Liên kết định hướng
Dòng 1: Dòng 1:
{{ethnic group|
{{Thông tin đơn vị hành chính Việt Nam | huyện
|group=Người Tà Ôi
| tên = A Lưới
|image=
| hình =
|poptime= 122.000<sup>+</sup> <ref name =joshuaprj-Ta-oi >[[Joshua Project]].[https://joshuaproject.net/countries/LA Country: Laos, Ethnic People Group: Lower and Upper Ta Oi], 2019. Truy cập 12/12/2020.</ref>
| ghi chú hình =
|popplace=
| vị trí lấy tọa độ =
|region1 = {{VNM}}
| vĩ độ = 16
|pop1 = 52.356 @2019 <ref name =Dso2019 >[https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2019/12/Ket-qua-toan-bo-Tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-2019.pdf Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số 2019]. p. 44. Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê, Tổng cục Thống kê, 19/12/2019. Truy cập 1/09/2020.</ref>
| kinh độ = 107
|region2 = {{LAO}}
| vĩ phút = 17
|pop2 = 70.000 @2019 <ref name =joshuaprj-Ta-oi />
| vĩ giây = 23
|rels=[[Thuyết vật linh|Vật linh]], [[Phật giáo]]
| kinh phút = 13
|langs=[[Tiếng Tà Ôi]], [[tiếng Việt|Việt]], [[tiếng Lào|Lào]], khác
| kinh giây = 52
|related=
| bản đồ 1 = {{maplink|frame=yes|plain=yes|type=shape|frame-width=280|frame-align=center|stroke-width=3}}
}}
| diện tích = 1.232,7 km²
'''Người Tà Ôi''', gồm có 3 nhóm địa phương còn gọi là ''kan tua, [[Người Pa Kô|Pa Cô]], Ba Hi hay Pa Hi'', là một dân tộc cư trú ở miền trung [[Việt Nam]] và nam [[Lào]]. Tại [[Việt Nam]] người Tà Ôi là một [[dân tộc]] trong số [[Các dân tộc Việt Nam|54 dân tộc tại Việt Nam]] <ref name =dtvn-cttcp >[http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop?articleId=10001505&categoryId=920 Các dân tộc Việt Nam]. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam, 2016. Truy cập 01/04/2019.</ref><ref name =cttcp-Taoy >[http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop?categoryId=920&articleId=3358 Dân tộc Tà Ôi]. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam, 2016. Truy cập 01/04/2019.</ref>. Theo Điều tra dân số Việt Nam năm 2019 có 52.356 người <ref name =Dso2019 />, thuộc nhóm Tà Ôi Thượng (Upper Ta Oi) theo [[Joshua Project]].<ref name =joshuaprj-VM >[[Joshua Project]]. [https://joshuaproject.net/countries/VM Country: Vietnam, Ethnic People Group: Upper Ta Oi], 2019. Truy cập 12/12/2020.</ref> Tại Lào theo [[Joshua Project]] năm 2019 có 48 ngàn người Tà Ôi Thượng (Upper Ta Oi), 22 ngàn người Tà Ôi Hạ (Lower Ta Oi)<ref name =joshuaprj-Ta-oi />. Người Tà Ôi nói ''[[tiếng Tà Ôi]]'', một ngôn ngữ thuộc [[ngữ chi Ka Tu]] trong [[ngữ tộc Môn-Khmer]], [[ngữ hệ Nam Á]].
| dân số = 56.370 người
| thời điểm dân số = 2019
| dân số thành thị =
| dân số nông thôn =
| mật độ dân số = 46 người/km²
| dân tộc = [[người Tà Ôi|Tà Ôi]], [[người Cơ Tu|Cơ Tu]], [[Người Bru - Vân Kiều|Vân Kiều]], <br>[[người Pa Kô|Pa Kô]], [[người Kinh|Kinh]]
| vùng = [[Bắc Trung Bộ]]
| tỉnh = [[Thừa Thiên Huế]]
| chủ tịch UBND = Nguyễn Mạnh Hùng
| chủ tịch HĐND = Hồ Đàm Giang
|bí thư = Huỳnh Công Quảng
| huyện lỵ = thị trấn [[A Lưới (thị trấn)|A Lưới]]
| thành lập = 1976
| phân chia hành chính = 1 thị trấn, 17 xã
| trụ sở UBND = 195 Hồ Chí Minh, thị trấn A Lưới
| mã hành chính = 481<ref>[https://danhmuchanhchinh.gso.gov.vn/ Tổng cục Thống kê]</ref>
| web = {{url|http://aluoi.thuathienhue.gov.vn/ }}
|biển số xe=75-L1}}


== Dân số và phân bố ==
'''A Lưới''' là một [[huyện]] miền núi biên giới thuộc tỉnh [[Thừa Thiên Huế]], [[Việt Nam]].


== Địa ==
=== Tại Việt Nam ===
Tại Việt Nam, theo số liệu điều tra dân số năm 1999 thì người Tà Ôi có số dân khoảng 34.960 người<ref>[http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=407&idmid=4&ItemID=1346 Điều tra dân số 1999], tập tin 47.DS99.xls</ref> sinh sống tập trung ở khu vực miền núi phía Tây miền trung Việt nam, trong địa phận các huyện [[A Lưới]] thuộc tỉnh [[Thừa Thiên Huế|Thừa Thiên-Huế]] và hai huyện [[Hướng Hóa]] và [[Đakrông]] thuộc tỉnh [[Quảng Trị]]. Theo ước tính của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân số năm 2003 khoảng 38.946 người.<ref>{{Chú thích web |url=http://cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=viewcat&mcid=124&page=3 |ngày truy cập=2009-06-01 |tựa đề=Website của Ủy ban dân tộc |archive-date = ngày 15 tháng 11 năm 2009 |archive-url=https://web.archive.org/web/20091115115002/http://cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=viewcat&mcid=124&page=3 }}</ref>
Địa giới huyện A Lưới được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 16<sup>0</sup> 00<nowiki>'57''</nowiki> đến 16<sup>0</sup>27’ 30<nowiki>''</nowiki> vĩ độ Bắc và từ 107<sup>0</sup> 0' 3’ đến 107<sup>0</sup> 30<nowiki>' 30''</nowiki> kinh độ Đông, có vị trí địa lý:
*Phía bắc giáp huyện [[Đa Krông]], tỉnh [[Quảng Trị]] và huyện [[Phong Điền, Thừa Thiên Huế|Phong Điền]]
*Phía nam giáp huyện [[Tây Giang]], tỉnh [[Quảng Nam]]
*Phía đông giáp huyện [[Nam Đông]] và các thị xã [[Hương Trà]], [[Hương Thủy]]
*Phía tây giáp nước [[CHDCND Lào]].


Theo [[điều tra dân số|Tổng điều tra dân số và nhà ở]] năm [[2009]], người Tà Ôi ở Việt Nam có dân số 43.886 người, có mặt tại 39 trên tổng số 63 [[tỉnh (Việt Nam)|tỉnh]], [[thành phố (Việt Nam)|thành phố]]. Người Tà Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh:
Huyện A Lưới nằm trên trục đường Hồ Chí Minh chạy qua địa phận 14 xã, thị trấn trong huyện đã phá thế ngõ cụt, nối liền A Lưới thông suốt với hai miền Bắc-Nam đất nước; cách không xa quốc lộ 9- trục đường xuyên Á, có thể thông thương thuận lợi với các nước trong khu vực qua cửa khẩu Lao Bảo-Quảng Trị; đồng thời, Quốc lộ 49 nối đường Hồ Chí Minh với quốc lộ 1A, đây là trục giao thông Đông-Tây quan trọng kết nối A Lưới với quốc lộ 1A, thành phố Huế và các huyện đồng bằng. Có 85&nbsp;km đường biên giới giáp với nước CHDCND Lào và là huyện duy nhất trong tỉnh có 2 khẩu quốc tế A Đớt-Tà Vàng (tỉnh Sê Kông) và cửa khẩu Hồng Vân-Kutai (tỉnh SaLavan) liên thông với CHDCND Lào, đây là các cửa ngõ phía Tây quan trọng, là lợi thế để huyện mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa với nước bạn Lào và các nước trong Khu vực.
[[Thừa Thiên Huế|Thừa Thiên-Huế]] (29.558 người, chiếm 67,35% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam),
[[Quảng Trị]] (13.961 người, chiếm 31,81% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam),
[[Thanh Hóa]] (37 người),
[[Quảng Nam]] (33 người)<ref name="TK">Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. [http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=10798 Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ.] Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.</ref>...


=== Tại Lào ===
Huyện A Lưới tiếp giáp với [[Lào]] ở phía tây, cách thành phố Huế 70&nbsp;km về phía đông.
Tại Lào, theo ước tính của [[Ethnologue]]<ref>[http://www.ethnologue.com/show_country.asp?name=LA Languages of Laos]. Ethnologue.</ref> thì có khoảng 30.876 người Tà Ôi ([[Ethnologue]] ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của Lào) sinh sống tại các [[muang|mường]] (huyện) [[Sa Mouay]], [[Ta Oy]],... tỉnh [[Saravane|Saravan]], và [[muang|mường]] [[Nong, Savannakhet|Nong]] tỉnh [[Savannakhet]].


== Tổ chức cộng đồng ==
Về mặt [[giao thông]], nó được nối với [[huế|thành phố Huế]] bằng [[quốc lộ 49]], là một [[quốc lộ]] rất hiểm trở có ba [[đèo]] cao và [[vực]] sâu, trong đó [[đèo A Co]] dài 16 [[kilômét|km]].
Làng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộng kiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoài rìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung.


Từng dòng họ người Tà Ôi có riêng tên gọi, có kiêng kỵ nhất định, có truyền thuyết lý giải về tên gọi và điều kiêng cữ ấy. Con cái đều lấy họ theo cha, chỉ con trai được thừa hưởng gia tài. Trưởng họ đóng vai trò quan trọng trong cả việc làng.
A Lưới là vùng đất có nhiều người [[dân tộc Việt Nam|dân tộc thiểu số]] sinh sống như: [[người Tà Ôi|Tà Ôi]], [[người Cơ Tu|Cơ Tu]], [[Người Bru - Vân Kiều|Vân Kiều]],...


Người Tà Ôi trước đây làm [[rẫy]] là chính, gần đây ở một số nơi họ làm ruộng nước, có vườn cây ăn quả, đào ao thả cá.
Các địa danh được biết đến ở A Lưới trong [[Chiến tranh Việt Nam]] gồm: đèo Mẹ Ơi, suối Máu, đồi A Bia (người Mỹ gọi là Hamburger Hill - đồi Thịt Băm, nơi xảy ra [[trận Đồi Thịt Băm]]),...


==== Địa hình ====
=== Hôn nhân gia đình ===
Thanh niên nam nữ Tà Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C.
A Lưới là huyện miền núi, nằm trong khu vực địa hình phía Tây của dãy Trường Sơn Bắc, có độ cao trung bình 600–800 m so với mặt nước biển, độ dốc trung bình 20-25<sup>0</sup>.


=== Tục lệ ma chay ===
Địa hình A Lưới gồm hai phần:
[[Tập tin:Nhà mồ người Tà ôi.JPG|nhỏ|phải|250px|[[Mộ|Nhà mồ]] người Tà Ôi tại [[A Lưới]]]]
*Phần phía Đông Trường Sơn, địa hình hiểm trở, độ dốc lớn, có các đỉnh cao là Động Ngai 1.774 m ở giáp giới huyện Phong Điền, đỉnh Cô Pung 1.615 m, Re Lao 1.487 m, Tam Voi 1.224 m v.v. Đây là vùng thượng nguồn của ba con sông lớn là sông Đa Krông, sông Bồ và sông Tả Trạch đổ về vùng đồng bằng của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Người Tà Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cải táng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờ rào mồ.
*Phần phía Tây Trường Sơn, địa hình có độ cao trung bình 600 m so mặt nước biển, bao gồm các đỉnh núi thấp hơn và một vùng thung lũng với diện tích khoảng 78.300 ha. Thung lũng A Lưới có địa hình tương đối bằng phẳng với chiều dài trên 30&nbsp;km, đây là địa bàn tập trung đông dân cư của huyện.


==== Khí hậu ====
== Văn hóa ==
Người Tà Ôi có nhiều [[tục ngữ]], [[ca dao]], câu đố, có nhiều truyện cổ kể các chủ đề phong phú: nguồn gốc tộc người, nguồn gốc dòng họ, cuộc đấu tranh giữa kẻ giàu với người nghào, giữa [[thiện|cái thiện]] với [[ác|cái ác]], tình yêu chung thủy v.v... Dân ca có các điệu Ka-lơi, Ba-boih, Rơin và đặc biệt là điệu Lum Tang Wai ([[Tiếng Lào]]: ລຳຕັ່ງຫວາຍ, [[Tiếng Thái]]: ลำตั่งหวาย,đọc là '''lăm tăng vải''')
A Lưới nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam.
trữ tình. [[Cồng chiêng|Chiêng]], [[cồng chiêng|cồng]], [[đàn]], [[sáo]], [[kèn]], [[trống]], [[khèn]] là những loại [[nhạc cụ]] thường gặp ở vùng của người Tà Ôi.


=== Nhà cửa ===
Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 22&nbsp;°C- 25&nbsp;°C. Nhiệt độ cao nhất khoảng 34&nbsp;°C- 36&nbsp;°C, nhiệt độ thấp nhất trong khoảng 7&nbsp;°C- 12&nbsp;°C.
Nhà ở của người Tà Ôi là nhà sàn dài phổ biến tại nhiều vùng [[Dãy Trường Sơn|Trường Sơn]] - [[Tây Nguyên]]. Nhìn bề ngoài, nhà Tà Ôi kể cả nhà sàn và nhà đất đều có nó hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình hai đầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dân tộc.


Tổ chức mặt bằng sinh hoạt của nhà ở thống nhất trong toàn dân tộc. Trung tâm của ngôi nhà là căn mong: nơi thờ tự, tiếp khách, hội họp chung của mọi thành viên trong nhà. Diện tích còn lại được ngăn thành từng buồng, chỗ ở và sinh hoạt của các gia đình. Thông thường thì các buồng được bố trí thành hai hàng theo chiều dọc. Ở giữa là hành lang dành để đi lại. Đến nay ở những nhà đất người ta vẫn duy trì bố cục bên trong nhà như vậy.
Lượng mưa các tháng trong năm từ 2900– 5800&nbsp;mm.


=== Trang phục ===
Độ ẩm tương đối trung bình các tháng trong năm 86-88%.
Cá tính tộc người không rõ nét, nổi bật mà có sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hóa khác trên trang phục. Đồ trang sức bằng [[đồng]], [[bạc]], hạt cườm, xương là phổ biến. Tục cà răng, căng tai, xăm mình, để tóc lá bài trước trán đã phai nhạt đi.


* Trang phục nam: Nam giới đóng khố, mặc áo hoặc ở trần.
Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt:
* Trang phục nữ: Phụ nữ có áo, váy, có nơi dùng loại váy dài kéo lên che ngực thay áo.
*Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, trong đó lượng mưa lớn tập trung vào 10 đến tháng 12, thường gây lũ lụt, ngập úng.
*Mùa khô kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8, mưa ít, chịu ảnh hưởng gió Tây khô nóng, lượng bốc hơi lớn gây ra khô hạn kéo dài.


==== Thủy văn ====
=== Nhà dài ===
Sau năm 1975 nhà nước Việt Nam có chủ trương xóa bỏ nhà dài, tách thành những hộ riêng biệt vì vậy cho tới nay nhà dài ở vùng người Tà Ôi không còn nữa. Vào năm 1973 khi chuyển cư về Việt Nam làng A Hươr có 3 ngôi nhà dài. Theo lời kể của những người trong làng: trước đây mỗi họ ở một ngôi nhà dài, những họ đông có tới trên 20 hộ sinh sống trong một nhà dài. Mỗi hộ có tới 5-6 người có bếp lửa riêng.
A Lưới là khu vực thượng nguồn của năm con sông lớn, trong đó có 2 sông chảy sang Lào là sông A Sáp và sông A Lin; 3 sông chảy sang phía Việt Nam là sông Đa Krông, sông Bồ và sông Tả Trạch (nhánh tả của sông Hương).  Ngoài ra A Lưới còn có mạng lưới các suối phân bố hầu khắp trên địa bàn huyện. Phần lớn sông suối có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh, lòng sông hẹp, thường bị sạt lở vào mùa mưa, gây khó khăn cho xây dựng cầu, đường và đi lại.


Gian khách được bố trí ở giữa nhà dài, gọi là moong. Hai đầu hồi của nhà đều có cầu thang chính bắc lên nhà. Cầu thang chính thường được dùng để đón khách. Ở mỗi hộ có các cầu thang phụ nhỏ bắc vào sườn nhà đi vào từng hộ. Mỗi hộ có một bếp (apoh) riêng. Tại gian khách cũng bố trí một bếp lửa. Trước đây khi nhà dài có khách đến thăm thì 4 hộ ở xung quanh gian khách là những hộ tiếp khách đầu tiên, sau đó mới đến các hộ tiếp theo lần lượt mang thức ăn đến phòng khách mời khách ăn uống. Đây còn là nơi để cho khách ngủ đêm lại. Những hộ ở gần gian khách có nhiệm vụ thông báo cho các hộ khác để tiếp khách. Khách đến được mời hút thuốc, uống rượu, được mời ăn mía, chuối, lạc, được mang chiếu và gối để ở. Khách ăn cơm có các hộ xung quanh nhà lần lượt mang cơm đến, khách ngủ dậy được mang bầu nước để rửa mặt, sau đó được mời ăn sáng.
=== Các nguồn tài nguyên ===


Tại những cột nhà dài người ta treo sừng trâu, sừng bò sau mỗi lần gia đình nào đó tổ chức hiến tế. Trước đây người Tà Ôi tại làng có quy định rằng nếu trường hợp một đôi vợ chồng đến thăm làng và nghỉ đêm ở lại chỉ có người chồng được nghỉ ở gian khách còn người vợ sẽ đựợc gửi đến một hộ nào đó để nghỉ. Gian khách của ngôi nhà dài còn là nơi diễn ra các hoạt động chung của làng. Trong phòng khách còn có cây cột to (âr rông mông), nơi để chum rượu lớn buộc vào đó cho chắc chắn.
==== Tài nguyên đất ====
''Hiện trạng đất đang sử dụng'': Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện A Lưới là 1.224,63&nbsp;km², trong đó:
*Đất nông nghiệp: Diện tích 114.052,58 ha, chiếm 93,1% tổng diện tích tự nhiên, được sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
*Đất phi nông nghiệp: Diện tích 4.997,99 ha, bao gồm đất ở, đất chuyên dùng, đất tôn giáo-tín ngưỡng, đất nghĩa trang-nghĩa địa và sông suối, mặt nước chuyên dùng.
*Đất chưa sử dụng: Toàn huyện còn 3.413,03 ha đất chưa sử dụng, chiếm 2,78% diện tích tự nhiên, chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng phân bố ở những vùng ít có điều kiện thuận lợi về tưới và giao thông đi lại khó khăn.


Tất cả của cải như chum, trống, thanh la, v.v. đều để ở gian khách, không bao giờ xảy ra trường hợp mất hay cầm nhầm. Nếu có việc lớn như tổ chức lễ aja cũng đưa khách về ở gian khách. Gian khách cũng là chỗ thanh niên, ở chỗ đó có chăn chiếu riêng cho thanh niên. Tổ chức việc uống rượu vào dịp khánh thành nhà, cưới xin, mừng con rể, đàn ông vui chơi... đều diễn ra ở gian giữa, đàn bà nấu nướng ở các nơi.
''Đặc điểm thổ nhưỡng:'' Đất đai, thổ nhưỡng trên địa bàn A Lưới khá đa dạng, một số nhóm đất chiếm diện tích lớn bao gồm: 1) Nhóm đất feralit đỏ vàng trên đá sét và biến chất (Fs), chiếm 63% diện tích của huyện; 2) Nhóm đất feralit vàng trên đá cát (Fc), chiếm 28%; 3) Các nhóm đất khác, chiếm diện tích 9%.


Khi trong nhà có người chết người ta đưa người chết ra bằng lối cửa phụ, không đưa ra lối hành lang vì sợ xui xẻo, bệnh tật ảnh hưởng đến các hộ khác. Khi khách sẽ dọn dẹp đồ đạc trong từng hộ gia đình.
==== Tài nguyên nước ====
''Nguồn nước mặt:'' Nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bàn huyện A Lưới là hệ thống các sông và mạng lưới các khe suối. Trong phạm vi huyện A Lưới có các sông chính là sông A Sáp, A Lin, Tà Rình, Đakrông, sông Bồ.


Ở giữa nhà dài là hành lang (ka nang) đi lại dọc theo ngôi nhà dẫn đến từng hộ gia đình. Đây là chỗ thông thoáng không để bất cứ đồ đạc gì trên khoảng không đó, kể cả việc ngồi trên hành lang cũng không được phép, ông già làng là người thường xuyên nhắc nhở công việc đó. Khi một hộ gia đình có con trai lớn lấy vợ mà chưa có điều kiện nối thêm nhà dài thì đôi vợ chồng đó vẫn ở chung với bố mẹ. Ở với cha mẹ chừng một năm khi đã có con cái thì tách khỏi bố mẹ và nối thêm chiều dài của ngôi nhà sau khi xin ý kiến của tập thể. Ví dụ ở ngôi nhà dài hộ A có con lấy vợ, sau đó đôi vợ chồng đó sinh con. Làng sẽ làm thêm một gian ở phía đầu hồi và xin cho hộ kế tiếp với hộ A chuyển dịch ra phía đầu hồi, cứ như thế đối với các hộ tiếp theo. Phụ nữ không được đi theo lối hành lang của ngôi nhà khi vào gian khách trừ khi mang thức ăn cho khách, và không được ăn tại nhà khách.
''Nguồn nước ngầm:'' Mực nước ngầm của các khu vực trong huyện khá cao. Qua khảo sát thực tế cho thấy các giếng đào của dân cho thấy mực nước ngầm có ở độ sâu từ 4 m trở lên.


Ở giữa ngôi nhà dài người Tà Ôi thường làm một cái thang đi lên gian khách. Cầu thang này chỉ có đàn ông và khách mời mới được đi lại, phụ nữ không được phép sử dụng cầu thang này như lối lên.
==== Tài nguyên rừng ====
A Lưới có diện tích đất lâm nghiệp lớn 107.849,63 ha, trong đó diện tích đất rừng sản xuất có 45.903,28 ha, đất rừng phòng hộ 46.322,34 ha, rừng đặc dụng 15.489,10 ha; đất rừng tự nhiên là 86.647,16 ha, đất rừng trồng là 15.858,79 ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 đạt 75%. Trữ lượng gỗ khoảng 6-7 triệu m<sup>3</sup>, với nhiều loại gỗ quí như lim, gõ, sến, mun, vàng tâm, dổi, kiền, tùng v.v. và nhiều loại lâm sản khác như tre, nứa, luồng, lồ ô, mây... Động vật rừng đa dạng và có một số loài như sao la, chồn hương, mang, nai...thuộc nhóm động vật quý hiếm cần được bảo vệ.


Phụ nữ khi sinh nở được làm một cái lán nhỏ bằng cách đan một cái sạp bằng tấm liếp quây xung quanh để che chắn gió. Sau khi sinh khoảng một tuần đó cũng là nơi tắm giặt cho sạch sẽ.
==== Tài nguyên khoáng sản ====
Trên địa bàn huyện A Lưới tài nguyên khoáng sản khá phong phú, trữ lượng lớn có thể khai thác theo quy mô công nghiệp, trong đó đáng kể nhất là các mỏ cao lanh, đá xây dựng, vàng, nước khoáng nóng v.v.


Mặt bằng sinh hoạt ngôi nhà dài
==== Tài nguyên du lịch ====
A Lưới là vùng núi cao mang trong mình nhiều cảnh đẹp thiên nhiên hoang sơ nhưng kỳ vỹ. Thác A Nô là một thắng cảnh nổi tiếng nằm trên địa phận xã Hồng Kim. Cách trung tâm huyện 30&nbsp;km là những cánh rừng nguyên sinh và suối nước nóng rất cuốn hút và độc đáo thuộc địa phận xã A Roàng. Đây là khu rừng nguyên sinh còn khá nguyên vẹn, với diện tích khoảng 3.000 ha kéo dài từ A Lưới đến tận Quảng Nam với nhiều thác cao, vực sâu, rất hấp dẫn đối với loại hình du lịch sinh thái và dành cho những người yêu thích phiêu lưu, mạo hiểm. A Lưới còn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch khác như động Tiến Công, núi Ta Lơng Ai, sông Tà Rình v.v.  


Bếp của mỗi hộ sẽ được làm ở giữa nhà, phía trên có một giàn treo, chỗ ngủ của gia đình là sàn nhà. Khi ngủ người ta xoay chân về phía bếp lửa. Cho đến năm 1972 khi làng chuyển về Việt Nam định cư thì cách nằm ngủ của phần lớn người Tà Ôi vẫn như vậy. Củi dùng để nấu nướng hay sưởi ấm được người phụ nữ Tà Ôi kiếm, lượm mỗi khi đi nương rẫy hoặc đi rừng, một vài bó củi đun để xung quanh bếp, phần lớn số củi còn lại để dưới gầm sàn. Sàn nhà cao 1,50 m. Phía dưới sàn người ta quây các chuồng nhỏ để nuôi gia cầm. Kho thóc không được làm gần nhà dài mà được làm ở ngoài bìa rừng, người Tà Ôi sợ hỏa hoạn sẽ làm cho kho thóc cháy sẽ mất nguồn lương thực. Thóc ăn hàng ngày được để trên gác mái nhà dài. Đồ đạc quý hiếm được để trong các Krúh - một loại gùi đan hình trụ có nắp - được đặt gần vách nhà hoặc treo trên mái.
Bên cạnh những tiềm năng du lịch thiên nhiên sinh thái hấp dẫn, A Lưới còn có nhiều di tích lịch sử cách mạng ghi dấu các chiến công anh dũng của dân và quân A Lưới cùng cả nước. Toàn huyện có 72 di tích lịch sử, trong đó có 7 điểm di tích cấp quốc gia với những cái tên quen thuộc như sân bay A So, địa đạo A Đon, địa đạo Động So, đồi A Biah, đường Hồ Chí Minh huyền thoại v.v.


=== Nhà ở ===
A Lưới được nhắc đến như là một vùng đất còn lưu trữ nhiều giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc. Đặc biệt là các lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó đậm nét nhất là lễ hội A Riêu Ping của người Pa Cô và lễ Aza. Các điệu múa, hát cha Chấp, dân ca cổ, cồng chiêng, khèn và cùng các món ăn đặc sản truyền thống như cơm nếp nương, bánh nếp A Coác, rượu đoác, rượu cần, cá suối v.v. tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc đặc sắc nơi đây; làm cho A Lưới càng trở nên hấp dẫn để có thể khai thác phát triển du lịch văn hóa, lịch sử và du lịch cộng đồng v.v.                    
Nhà ở theo theo lối truyền thống hiện nay rất hiếm, kiểu nhà truyền thống được người Tà Ôi gọi là doang.


Khi chọn được một mảnh đất ưng ý với các tiêu chí như sau: đất bằng phẳng, gần nguồn nước, gần chỗ ở người dân cùng làng, chủ nhà tiến hành việc xem các thần có cho phép mình ở chỗ đất đó hay không. Người ta chọn từ 6 đến 10 hạt gạo rồi đào trên mảnh đất đó một lỗ nhỏ, bỏ gạo vào lỗ đó và thắp hương. Khi hương cháy hết, chủ nhà lấy hạt gạo ra xem. Nếu các thần cho phép dựng nhà ở chỗ đó thì hạt gạo không bị gãy, bị hỏng, trường hợp không được phép hạt gạo sẽ thành bột, bị gãy, vụn.
== Hành chính ==
Huyện A Lưới có 18 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn [[A Lưới (thị trấn)|A Lưới]] (huyện lỵ) và 17 xã: [[A Ngo, A Lưới|A Ngo]], [[A Roàng]], [[Đông Sơn, A Lưới|Đông Sơn]], [[Hồng Bắc]], [[Hồng Hạ]], [[Hồng Kim]], [[Hồng Thái, A Lưới|Hồng Thái]], [[Hồng Thượng]], [[Hồng Thủy, A Lưới|Hồng Thủy]], [[Hồng Vân, A Lưới|Hồng Vân]], [[Hương Nguyên]], [[Hương Phong, A Lưới|Hương Phong]], [[Lâm Đớt]], [[Phú Vinh, A Lưới|Phú Vinh]], [[Quảng Nhâm]], [[Sơn Thủy, A Lưới|Sơn Thủy]], [[Trung Sơn, A Lưới|Trung Sơn]].


Nhà người Tà Ôi được dựng ở phía chếch Mặt Trời, khi Mặt Trời lên cao ánh sáng chiếu thẳng vào hướng cửa nhà là không tốt. Trước đây nhà người Tà Ôi được làm trước tháng 6 để tránh mưa gió. Khi dựng cột nhà phải xem giờ, khoảng 4-5 giờ sáng, lúc Mặt Trời chưa mọc, chưa có chim hoặc hoẵng kêu, người Tà Ôi quan niệm thần nhà không thích nhiều tiếng động của chim thú sẽ gây ra rủi ro.
==Lịch sử==


Ngày dựng cột chính, hương được thắp theo lối dân tộc, người ta dùng một cái giỏ có chân bỏ vào: 6 chén, thịt gà. Khi cúng già làng sẽ là người chủ tế, mọi người đứng ở xung quanh. Các trường hợp chuyển nhượng nhà sau khi mua cũng phải làm lễ cúng, ví dụ: nhà Kê Văn Tham mua của Hồ Viên Pả, khi chuyển về ở phải tổ chức lễ cúng, đồ cúng có: gà sống, tấm rèng, chén rượu.
=== Hình thành và phát triển ===
A Lưới là căn cứ địa cách mạng của cả tỉnh, cả nước trong hai cuộc [[Chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]] và Mỹ. Qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, đồng bào các dân tộc A Lưới đã có nhiều tấm gương tiêu biểu như: Anh hùng liệt sỹ A Vầu, xã Hồng Kim; Anh hùng liệt sỹ Cu Lối, xã Hồng Nam; Anh hùng Cu Trip, Anh hùng Hồ Vai, Kăn Lịch, Kăn Đơm, Bùi Hồ Dục, Hồ A Nun và nhiều tấm gương tiêu biểu khác; đồng thời, đã đóng góp 33.837 tấn lương thực, thực phẩm, 4.560 lượt dân công hỏa tuyến, 7.850 lượt công dân lên đường nhập ngũ, 1,5 triệu ngày công phục vụ chiến đấu; 577 liệt sỹ, 1.086 thương binh, hàng ngàn gia đình có công, gần 10 nghìn người và 5.000 hộ gia đình tham gia cách mạng. Nhờ những đóng góp to lớn cho cách mạng mà đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương, phong tặng huyện A Lưới danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 16 xã, thị trấn được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 8 cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 12 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 19 tập thể anh hùng lực lượng vũ trang.


Nhà được làm theo lối cổ truyền có chiều dài 5,40 m [[chiều rộng]] 4,20 m, tổng diện tích của nhà là 22,68 mét vuông. Trên một đơn vị diện tích mặt bằng đó bố trí các công năng của nhà như sau: Hai đầu hồi nhà phía đông và phía tây là phía cửa ra vào với cầu thang (kpong) đi lên, cửa chính có [[chiều cao]] 1m30 [[chiều rộng]] 70&nbsp;cm. Phía tây có một bếp lửa hình vuông có [[chiều rộng]] 1m vuông làm chỗ nấu nướng, trên bếp có để một gác để ngô, sắn và các loại thức ăn. Đối diện với bếp lửa là chỗ nằm của ông chủ nhà có dải một chiếc chiếu làm nơi nằm ngủ. Nhà có 3 cửa sổ (a loang a be) có [[chiều cao]] dài 93&nbsp;cm [[chiều rộng]] 66&nbsp;cm. Nhà ở có 6 cột chính (non) các xà gắn kết với cột chính theo nguyên tắc ngòam, khi dựng nhà người Tà ôi cũng dựng những cột chính này đầu tiên. Sau đó là các xà dọc liên kết tạo thành khung nhà. Tiếp theo là các bộ kèo cột, các đòn tay (ploi). Mái nhà được lợp tranh, vách nhà (ner) được đan bằng lồ ô đập dập đan vào nhau. Nhà ông Quỳnh Vâng làm năm 1997 tại làng là ngôi nhà duy nhất tính đến thời điểm hiện nay được làm theo phương pháp cổ truyền.
Đồng thời, huyện A Lưới là địa bàn sinh sống, tụ cư lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số anh em: Pa Kô, Tà Ôi, Ka Tu, Pa Hy trong các thung lũng dọc Trường Sơn, sát với nước bạn Lào anh em, đến năm [[1976]], huyện A Lưới được thành lập và có thêm 3 xã kinh tế mới Sơn Thủy, Phú Vinh, Hương Phong là đồng bào kinh lên xây dựng quê hương mới tại A Lưới.


== Tín ngưỡng ==
Đến nay, sau 38 năm (1976- 2014) trưởng thành và phát triển, huyện A Lưới hôm nay đã thay da đổi thịt, bộ mặt nông thôn miền núi đã có nhiều khởi sắc, kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển và đã đạt được những kết quả quan trọng: Thu nhập bình quân đầu người 14 triệu đồng/người/năm; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 15%; tỷ lệ hộ nghèo còn 13,64%; cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư, xây dựng, như: Điện, đường, trường, trạm, thủy lợi, nước sinh hoạt,… nhờ vậy, đã có 100% thôn, bản có đường giao thông, 90% hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh, 100% xã, thị trấn có điểm bưu điện văn hóa xã (số liệu năm 2013).


=== Lịch sử hành chính ===
=== Hồn vía các siêu linh ===
Người Tà Ôi quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tín ngưỡng đa thần chi phối hầu hết các mặt trong cuộc sống của họ. Trong thế giới thần linh của người Tà Ôi trước tiên phải kể đến hồn.
Sau năm [[1975]], huyện A Lưới thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, gồm 20 xã: A Đớt, A Ngo, A Roàng, Bắc Sơn, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Tiến, Hồng Trung, Hồng Vân, Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Phong và Nhâm.


Trước tiên là hồn, hồn được nằm ở khoảng từ ngực cho đến đầu khi người còn sống. Khi người chết rồi thì cũng chỉ có một hồn (avai ving) và hồn đó lang thang ở nghĩa địa. Khi người chết không bằng lòng với gia đình thì hồn này về quấy phá người sống. Trong các dịp cúng lễ hồn của người chết cũng thường về thông qua những giấc mơ (am bo) của người sống. Theo người Tà Ôi thì hồn được hóa thân như tiếng nói, hoặc hồn có thể tạo ra một sức mạnh tác động đến vật thể khác, ví dụ như hồn có thể về gõ cửa. Người Tà Ôi còn cho rằng người chết sau 3 ngày thì có thể quay trở về đòi của cải nếu không được người sống chia cho. Cũng từ cách suy nghĩ trên mà người Tà Ôi còn dùng cách rải tro ở trước cửa để nhìn thấy dấu chân của hồn về sau khi có người nhà chết. Năm 2003 khi ông Võ Dậu mất, bà Ka Dậu là vợ dùng tro rải trước thềm và thấy ông bước chân của ông in trên tro, đúng là ông đã về. Có nhiều người còn thấy hồn về với tiếng động như rót nước hoặc lấy thức ăn trong nồi. Người Tà Ôi nói sau khi chết 3 ngày, người chết mới thật sự biết mình mất, trước đó thì không biết, như một người mơ ngủ không tỉnh không say. Hồn xấu là những người chết thiêng, nhất là đàn bà chết do sinh nở, chết bị hổ vồ, người chết ở dạng này hay hiện ra mộ kêu khóc và trêu chọc người sống. Người chết có thể về xin các đồ vật như quần áo, gùi, dao... Lúc này gia đình của người chết có thể dùng lá chuối cắt thành hình chữ T thay cho áo, cắt hình chữ V thay cho quần. Người giàu có thì dùng 2 tấm vải vứt ra ngoài và nói tôi đã cho, đừng xin thêm và phải phù hộ cho tôi. Trường hợp không bằng lòng hồn có thể về làm cho người sống đau ốm, hoặc làm các công việc bị mắc nợ, không trôi chảy.
Ngày [[13 tháng 3]] năm [[1979]], thành lập 2 xã Phú Vinh và Sơn Thủy thuộc vùng kinh tế mới.<ref>{{Chú thích web|url=https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Quyet-dinh-102-CP-phan-vach-dia-gioi-xa-phuong-Tinh-Binh-Tri-Thien/57685/noi-dung.aspx|tựa đề=Quyết định 102-CP năm 1979 về việc phân vạch địa giới một số xã và phường thuộc tỉnh Bình Trị Thiên|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>


Ma (brau briêu) đây là loại ma rừng có thể phù hộ cho người sống tuy nhiên cũng có thể gây ra ốm đau bệnh tật. Theo người Tà Ôi thì ma brau briêu có thể sai khiến được hổ, rắn, muông thú để làm hại người.
Ngày [[18 tháng 5]] năm [[1981]], chuyển xã [[Hồng Tiến]] về huyện Hương Trà quản lý (nay là thị xã [[Hương Trà]])<ref>{{Chú thích web|url=https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/quyet-dinh-187-cp-dieu-chinh-dia-gioi-xa-thi-tran-thuoc-tinh-binh-tri-thien-43075.aspx|tựa đề=Quyết định 187-CP năm 1981 về việc điều chỉnh địa giới một số xã và thị trấn thuộc tỉnh Bình Trị Thiên|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>. Huyện A Lưới có 21 xã: A Đớt, A Ngo, A Roàng, Bắc Sơn, Đông Sơn, Hồng Bắc, Hồng Hạ, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Thủy, Hồng Trung, Hồng Vân, Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Phong, Nhâm, Phú Vinh, Sơn Thủy.


Trước đây hàng năm người Tà Ôi có tổ chức cúng các giàng: trời (abang), thần đất (katek) thần rừng (krúm kaek). Tổ chức cúng trời đất phải 10-12 năm một lần, vì khi cúng phải có trâu. Khi làng giàu có, không có người chết, làng được bội thu tổ chức cúng tạ ơn. Các trường hợp làng bị bão lụt, thiên tai cũng tổ chức cúng thần trời, đất, nhà rông, nhà ở. Khi tổ chức đâm trâu cúng cho trời có 12 loại thức ăn, cúng đất là tám loại thức ăn, cúng cho giàng kmưk là năm loại thức ăn: trâu, lợn, gà, tiết canh, món nướng, món thái, làm canh làm xôi. Cơm được để trong chén và rót nước đót, có chum nhỏ và chén nhỏ rồi thắp hương.
Ngày [[30 tháng 6]] năm [[1989]], tỉnh [[Thừa Thiên Huế]] được tái lập từ tỉnh [[Bình Trị Thiên]], huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.<ref>[https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-phan-vach-dai-gioi-hanh-chinh-cua-cac-tinh-Nghia-Binh-Phu-Khanh-va-Binh-Tri-Thien-42792.aspx Nghị quyết phân vạch địa giới hành chính của các tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh và Bình Trị Thiên]</ref>
Ngày [[22 tháng 11]] năm [[1995]], thành lập thị trấn A Lưới (thị trấn huyện lỵ huyện A Lưới) trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hồng Nam.<ref>Nghị định 80-CP về việc thành lập thị trấn huyện lỵ các huyện Phong Điền, A Lưới và phân chia các phường thuộc thành phố Huế.</ref>


=== Thần nước (giàng đak) ===
Ngày [[1 tháng 1]] năm [[2020]], sáp nhập xã A Đớt và xã Hương Lâm thành xã Lâm Đớt, sáp nhập xã Hồng Quảng và xã Nhâm thành xã Quảng Nhâm, sáp nhập xã Bắc Sơn và Hồng Trung thành xã Trung Sơn.<ref>{{Chú thích web|url=https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-834-NQ-UBTVQH14-2019-sap-xep-don-vi-hanh-chinh-cap-xa-thuoc-tinh-Thua-Thien-Hue-432104.aspx|tựa đề=Nghị quyết số 834/NQ-UBTVQH14 năm 2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
Thần nước được người Tà Ôi hình dung là một người đàn ông thấp, bé nhỏ có râu tóc bạc phơ. Thần nước còn có thể ban cho người dân nhiều cá ăn, trong truyền thuyết người Tà Ôi kể rằng thần nước tạo ra cá bằng cách bỏ hạt gạo vào lá chuối rồi đưa chỗ suối, những hạt gạo sẽ biến thành cá và người ta sẽ bắt được nhiều cá. Khi ở bên Lào các ông Quỳnh Say, Quỳnh Chay đã từng nhìn thấy thần nước ở chỗ đầu ngọn thác, gọi là Avó còn có nghĩa là bác thể hiện tôn trọng của người Tà Ôi (có thể họ chỉ hình dung như vậy). Thần nước có mối liên hệ đặc biệt với lễ khánh thành bến nước, lần đầu tiên khi làm bến nước, nước được dẫn về làng qua các ống lồ-ô, lúc này không người nào được sử dụng nước. Các trưởng họ và già làng đem con gà còn sống cầu mong cho nước ăn không đau bụng, nguồn nước không bao giờ tắt. Sau khi cúng xong giết gà bên nhà rông và lấy máu [[chôn cất|chôn]] ở chỗ có nước. Chỗ cột cuối cùng có vòi nước được làm rất đẹp và chôn máu gà (sôl rtang dak) được làm và sửa hàng năm. Nước lần đầu tiên khi sử dụng dân làng phải làm một con gà, một con lợn, một con dê không cho người làng khác được sử dụng. Lúc đó già làng sẽ làm lễ cúng mời thần nước (aul –avó dak).


=== Thần chỗ ở gia đình (giàng an teng) ===
Huyện A Lưới có 1 thị trấn và 17 xã như hiện nay.
Trước đây người Tà Ôi ở trong những ngôi nhà dài, mỗi gia đình sở hữu một gian trong ngôi nhà dài. Trong khoảng không gian đó người Tà Ôi đều thờ thần chỗ ở gia đình của mình. Thần chỗ ở gia đình thường xuất hiện từ giấc mơ của chủ nhà, khi ngủ người Tà Ôi mơ thấy thần chỗ ở gia đình nhập vào tấm khố, tấm rèng hay bất cứ đồ vật nào thì người ta sẽ bỏ đồ vật đó vào cái kang (một loại gùi được đan đặc biệt) và để ở góc nhà. Chủ nhà sẽ làm một con gà để làm lễ cúng nhập giàng an teng vào hộ gia đình mình. Kể từ thời điểm đó, bất cứ gia đình có công việc gì như đám ma, đám cưới, cúng thần rừng, thần nước thì đều tiến hành cúng thần nhà. Đặc biệt trong mỗi dịp gia đình có hoàn thành một công việc gì người ta đều cho rằng có sự trợ giúp của thần chỗ ở gia đình, trong các dịp bình thường khi cúng thì không cần mở kang có đồ vật mà giàng đã nhập vào. Trong năm chỉ có dịp dân làng tổ chức aja thì hộ gia đình đó mới mở kang để lấy đồ vật ra cúng, thường đồ vật này được mang ra nhà rông để làm lễ cúng. Khi kang-chỗ ngự trị của thần chỗ ở gia đình được đặt ở góc nhà khi làm lễ cúng, chủ nhà thường để cơm, gạo, thịt phía trước kang để cúng.


=== Thần nhà dài (giàng đanh) ===
==Giáo dục==
Trong ngôi nhà dài có nhiều hộ gia đình sinh sống thì thần nhà dài (giàng đeng) ngự ở gian khách. Chủ nhà dài sẽ làm một cái nhà nhỏ để thần nhà ngự ở trong đó và treo ở dưới nóc nhà. Trong gia đình có người bị đau ốm hay xảy ra bất cứ công việc gì người ta cúng thần gia đình xong thì đều cúng thần nhà dài. Khi làng có dịp gì chủ nhà dài đều cúng thần nhà dài, trước đây có quy định các hộ trong nhà dài khi ăn dê, trâu, bò đều phải cầu cúng cho thần nhà dài được biết.


=== Thần hổ (giàng avó) ===
Trên địa bàn huyện có 3 trường THPT công lập là:
{{Chính|Hổ trong văn hóa đại chúng}}
Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng. Việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng. Xuất phát từ giấc mơ ngẫu nhiên, trong làng có người làm loại bẫy to (tì hò), người chủ bẫy về đến nhà mơ thấy con hổ (a vó bok) báo mộng, khi đó người chủ bẫy mơ thấy hổ xin ở lại với làng. Khi hổ mắc bẫy người ta tổ chức cúng thần rừng với các đồ vật hiến tế như sôl, leo, chuẩn bị hạt mã não, tấm rèng. Việc tổ chức cúng tạ ơn thần rừng được làm chu đáo, sau đó người ta mới cắt đầu hổ rồi mang về làng. Một nhóm thanh niên làm nhà mồ cho hổ (ping a vó), khi làm xong nhà mồ thì chưa đặt đầu hổ vào bên trong. Làng tổ chức lễ hiến sinh bằng cách giết thịt một con dê, một con gà, một con lợn để khánh thành ngôi nhà mồ đó. Các đồ cúng được đặt trong mâm để trong nhà mồ. Chủ làng sẽ nói: hổ muốn ở lại làng phải bảo vệ làng không được để cho người chết, khi có xung đột, chiến tranh giữa các làng khác phải thông báo sớm qua giấc mơ. Nếu có người phá phách hoặc đốt làng, phải phạt người đó. Khi tiến hành việc cúng đầu hổ không cho phụ nữ mang thai vào nhà mồ, người khách lạ cũng không được vào. Nếu khách ở làng khác đến chơi phải báo trước cho chủ làng.


Hàng năm người ta vẫn đến tiến hành thăm nhà mồ có đầu hổ. Trong các thôn của xã Nhâm chỉ có làng Nhâm I còn có tục thờ thần hổ, làng Ka Linh, Tà Kêu trước đây ở bên Lào cũng có. Từ chiến tranh chống Mỹ cho đến nay người ta không còn giữ thủ tục này.
* Trường THPT A Lưới (đóng tại thị trấn A Lưới).
* Trường THCS & THPT Trường Sơn (trên cơ sở hợp nhất trường THCS Hương Lâm và trường THPT Hương Lâm từ ngày 01/12/2021) (đóng tại xã Lâm Đớt).
* Trường THCS và THPT Hồng Vân (đóng tại xã Hồng Vân).


Vị trí của ngôi nhà mồ dành riêng cho hổ được [[chôn cất|chôn]] ở phía trên nhà mồ của người, không ai có quyền vào khu nhà mồ của hổ. Nhà mồ của hổ được rào bằng đá xung quanh. Ở giữa ngôi nhà mồ người ta để hòn đá, trên hòn đá người ta đặt chiếc đầu hổ, người ta cũng chia cho hổ các vật dụng như: vòng tay, bát đựng thức ăn, tấm rèng, sừng trâu, bò, hàm răng lợn. Các loại đồ thờ cúng này ông già làng phải phân bổ cho các hộ chuẩn bị.
Ngoài ra, còn có Trung tâm GDNN-GDTX huyện A Lưới.


Hàng năm khi người Tà Ôi tiến hành tổ chức ăn năm mới, hay cúng khánh thành nhà rông, thần hổ đều được chia phần, khi tuốt lúa mới phải thổi cơm dành phần cho thần hổ ăn. Một năm tổ chức vệ sinh cho khu nhà mồ hổ một lần, khách ngoài làng không được phép vào trong khu nhà mồ đó. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin rằng hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp chuyện chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong làng. Trước đây ở bên Lào có nhiều trường hợp một làng thờ đến 2 đầu hổ.
Ở các xã, thị trấn đều có các trường THCS, Tiểu học, Mầm non.


== Những người Tà Ôi có danh tiếng ==
== Dân số ==
{|class= "sortable wikitable"
Theo số liệu thống kê năm 2013, dân số toàn huyện có 46.417 nghìn người, mật độ dân số 38 người/km², trong đó trên 80% là dân tộc thiểu số, bao gồm chủ yếu là các dân tộc [[Pa Kô]], [[Người Tà Ôi|Tà Ôi]], Ka Tu, Pa Hy và [[Người Việt|dân tộc Kinh]]. Chính vì thế, nơi đây hội tụ đa dạng những truyền thống văn hóa dân tộc rất đặc sắc, giá trị.
|+ Những người Tà Ôi Việt Nam có danh tiếng
!width= 110px |Tên !! Sinh thời !! Hoạt động
|-
| '''[[Hồ Đức Vai]] || 1940-... || Còn gọi là '''Hồ Vai''', [[Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân|anh hùng LLVTND Việt Nam]] <ref>[http://congly.vn/phong-su/anh-hung-ho-duc-vai-va-5-lan-gap-bac-98330.html Anh hùng Hồ Đức Vai và 5 lần gặp Bác]. Công lý Online, 19/5/2015. Truy cập 15/05/2018.</ref>, đại biểu [[Quốc hội Việt Nam]] <ref>[http://quochoi.vn/hoatdongdbqh/Pages/danh-sach-dai-bieu.aspx?ItemID=4061 Hoạt động đại biểu Quốc hội. Hồ Đức Vai], 2015. Truy cập 15/05/2018.</ref>. Quê thôn Lê Lốc, xã [[Hồng Bắc]], huyện [[A Lưới]], tỉnh [[Thừa Thiên Huế]].
|-
| '''[[Hồ Kan Lịch]]''' || 1943-... || [[Người Pa Kô]], nữ [[Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân|Anh hùng LLVTND Việt Nam]] người dân tộc đầu tiên, được ca ngợi trong bài hát "''Cô gái Pa Kô''" của nhạc sỹ [[Huy Thục]]. Tên nguyên của bà là ''Kăn Lịch'', sinh tại bản A Lê Nôc, nay thuộc [[thị trấn A Lưới]], huyện [[A Lưới]], tỉnh [[Thừa Thiên Huế]] <ref>[http://phunutoday.vn/kham-pha/nu-anh-hung-kan-lich-cua-dan-toc-pa-co-13158.html Nữ anh hùng Kan Lịch của dân tộc Pa Kô]. Phunutoday, 06/05/2012. Truy cập 15/10/2015.</ref><ref>[http://phapluattp.vn/thoi-su/chinh-tri/nu-anh-hung-cua-nguoi-pa-ko-135144.html Nữ anh hùng của người Pa Kô]. Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh, 10/4/2011. Truy cập 15/10/2015.</ref>.
|-
| '''[[Mai Hoa Sen]]''' || 1943-... || [[Người Pa Kô]], [[nghệ nhân]] ưu tú được công nhận năm 2015. Ông hiện sống tại xã [[Tà Rụt]], huyện [[Đakrông]], tỉnh [[Quảng Trị]] <ref>[http://vov4.vov.vn/Cotu/video-online/mai-hoa-sen-ma-nuih-pa-trooi-rau-chap-kieng-trcoo-xa-nul-ma-nuih-pa-co-c1464-132464.aspx Nghệ nhân Mai Hoa Sen]. VOV4, 2015. Truy cập 22/11/2017</ref>. Ông là người chế tác các loại nhạc cụ dân tộc Pa Kô <ref name =danviet >[http://danviet.vn/que-nha/nghe-nhan-gia-giu-dieu-hon-dan-toc-pa-ko-503772.html Nghệ nhân già giữ điệu hồn dân tộc Pa Kô]. Dân Việt Online, 17/11/2014. Truy cập 22/11/2017</ref><ref name =congly >[http://congly.vn/xa-hoi/doi-song/nguoi-nghe-sy-cua-dai-ngan-122836.html Người nghệ sỹ của đại ngàn]. Công Lý Online, 07/11/2015. Truy cập 22/11/2017.</ref>.
|}


== Thủy điện ==
== Xem thêm ==
* [[Người Pa Kô]]


== Tham khảo ==
* '''[[Thủy điện A Lưới]]''' có công suất 170 MW với 2 tổ máy, xây dựng với hồ nước ở thượng nguồn dòng [[Sekong|sông A Sáp]] (hay [[Sekong|Sê A Sáp]]) <ref name=Asap group="note">Các văn liệu thủy điện gọi là "sông A Sáp". Theo Bản đồ tỷ lệ 1:50.000 tờ E-48-95C, Cục Đo đạc và Bản đồ (2004), tên đoạn sông này bên Lào là Sê Asap.</ref> chuyển nước về nhà máy điện xả nước ra [[sông Bồ]] <ref name=pecc1Aluoi>[http://www.pecc1.com.vn/Thuy-dien_33/Thuy-dien-A-Luoi_103.aspx Thủy điện A Lưới] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20161127220112/http://www.pecc1.com.vn/Thuy-dien_33/Thuy-dien-A-Luoi_103.aspx |date = ngày 27 tháng 11 năm 2016}}. Cty Pecc1, 2011. Truy cập 30/11/2017.</ref>, khởi công tháng 06/2007 hoàn thành tháng 6/2012 <ref>[http://dhd.com.vn/d4/news/Hai-to-may-Nha-may-Thuy-dien-A-Luoi-chinh-thuc-hoa-luoi-dien-Quoc-gia-1-107.aspx Hai tổ máy Nhà máy Thuỷ điện A Lưới chính thức hòa lưới điện Quốc gia]. Công ty cổ phần thuỷ điện Đa Nhim-Hàm Thuận Đa Mi, 14/06/2012. Truy cập 30/11/2017.</ref><ref>[https://www.cpc.vn/home/Ttuc_Detail.aspx?pm=ttuc&sj=HD&id=6484#.WDq07U-RllY Thuỷ điện A Lưới: Thẳng tiến về đích]. Cty Điện lực miền Trung, 06/01/2012. Truy cập 30/11/2017.</ref>. Tên ban đầu của công trình là '''thủy điện A Sáp'''. {{coord| 16| 13| 36| N| 107| 16| 15| E| type:waterbody_region:VN| name = Thủy điện A Lưới}}.
{{tham khảo |29em}}
* '''[[Thủy điện A Roàng]]''' có công suất 7,2 MW với 2 tổ máy, xây dựng trên thượng nguồn [[sông Bồ]] tại vùng đất xã [[A Roàng]], khánh thành tháng 01/2016 <ref name=cpc16322>[https://www.cpc.vn/home/Ttuc_Detail.aspx?pm=ttuc&sj=TDIEM&id=16322#.WDp6IE-RllY Khánh thành Nhà máy thủy điện A Roàng]. Tổng Cty điện lực miền trung, 20/01/2016. Truy cập 30/11/2017.</ref> {{coord| 16| 7| 59| N| 107| 23| 40| E| type:waterbody_region:VN| name = Thủy điện A Roàng}}.


== Chỉ dẫn ==
== Liên kết ngoài ==
* {{TĐBKVN|4697}}
{{tham khảo |group =note}}


{{Các dân tộc Việt Nam}}
==Chú thích==
{{tham khảo |25em}}
{{Các dân tộc Lào}}
==Tham khảo==
{{sơ khai Thừa Thiên Huế}}

{{Huyện thị Thừa Thiên Huế}}

== Liên kết ngoài ==
* [https://www.thuathienhue.gov.vn/portal_ge/Views/LevDetail.aspx?OneID=14&TwoID=78&ThreeID=735 Dư địa chí Thừa Thiên Huế - Huyện A Lưới]{{Liên kết hỏng|date = ngày 2 tháng 2 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}
* [http://qhhdthuathienhue.gov.vn/?mod=view&cid=1&pid=61&id=4996&pdiv=0 Thừa Thiên Huế lịch sử hình thành và phát triển.]{{Liên kết hỏng|date = ngày 2 tháng 2 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}


{{DEFAULTSORT:Tà Ôi}}
[[Thể loại:Huyện biên giới Việt Nam với Lào]]
[[Thể loại:Người Tà Ôi|*]]
[[Thể loại:Nhóm sắc tộc ở Lào]]

Phiên bản lúc 17:56, ngày 23 tháng 3 năm 2022

Người Tà Ôi
Tổng dân số
122.000+ [1]
Khu vực có số dân đáng kể
Việt Nam52.356 @2019 [2]
 Lào70.000 @2019 [1]
Ngôn ngữ
Tiếng Tà Ôi, Việt, Lào, khác
Tôn giáo
Vật linh, Phật giáo

Người Tà Ôi, gồm có 3 nhóm địa phương còn gọi là kan tua, Pa Cô, Ba Hi hay Pa Hi, là một dân tộc cư trú ở miền trung Việt Nam và nam Lào. Tại Việt Nam người Tà Ôi là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam [3][4]. Theo Điều tra dân số Việt Nam năm 2019 có 52.356 người [2], thuộc nhóm Tà Ôi Thượng (Upper Ta Oi) theo Joshua Project.[5] Tại Lào theo Joshua Project năm 2019 có 48 ngàn người Tà Ôi Thượng (Upper Ta Oi), 22 ngàn người Tà Ôi Hạ (Lower Ta Oi)[1]. Người Tà Ôi nói tiếng Tà Ôi, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ka Tu trong ngữ tộc Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.

Dân số và phân bố

Tại Việt Nam

Tại Việt Nam, theo số liệu điều tra dân số năm 1999 thì người Tà Ôi có số dân khoảng 34.960 người[6] sinh sống tập trung ở khu vực miền núi phía Tây miền trung Việt nam, trong địa phận các huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế và hai huyện Hướng HóaĐakrông thuộc tỉnh Quảng Trị. Theo ước tính của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân số năm 2003 khoảng 38.946 người.[7]

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tà Ôi ở Việt Nam có dân số 43.886 người, có mặt tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Tà Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh: Thừa Thiên-Huế (29.558 người, chiếm 67,35% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam), Quảng Trị (13.961 người, chiếm 31,81% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam), Thanh Hóa (37 người), Quảng Nam (33 người)[8]...

Tại Lào

Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue[9] thì có khoảng 30.876 người Tà Ôi (Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của Lào) sinh sống tại các mường (huyện) Sa Mouay, Ta Oy,... tỉnh Saravan, và mường Nong tỉnh Savannakhet.

Tổ chức cộng đồng

Làng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộng kiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoài rìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung.

Từng dòng họ người Tà Ôi có riêng tên gọi, có kiêng kỵ nhất định, có truyền thuyết lý giải về tên gọi và điều kiêng cữ ấy. Con cái đều lấy họ theo cha, chỉ con trai được thừa hưởng gia tài. Trưởng họ đóng vai trò quan trọng trong cả việc làng.

Người Tà Ôi trước đây làm rẫy là chính, gần đây ở một số nơi họ làm ruộng nước, có vườn cây ăn quả, đào ao thả cá.

Hôn nhân gia đình

Thanh niên nam nữ Tà Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C.

Tục lệ ma chay

Nhà mồ người Tà Ôi tại A Lưới

Người Tà Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cải táng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờ rào mồ.

Văn hóa

Người Tà Ôi có nhiều tục ngữ, ca dao, câu đố, có nhiều truyện cổ kể các chủ đề phong phú: nguồn gốc tộc người, nguồn gốc dòng họ, cuộc đấu tranh giữa kẻ giàu với người nghào, giữa cái thiện với cái ác, tình yêu chung thủy v.v... Dân ca có các điệu Ka-lơi, Ba-boih, Rơin và đặc biệt là điệu Lum Tang Wai (Tiếng Lào: ລຳຕັ່ງຫວາຍ, Tiếng Thái: ลำตั่งหวาย,đọc là lăm tăng vải) trữ tình. Chiêng, cồng, đàn, sáo, kèn, trống, khèn là những loại nhạc cụ thường gặp ở vùng của người Tà Ôi.

Nhà cửa

Nhà ở của người Tà Ôi là nhà sàn dài phổ biến tại nhiều vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Nhìn bề ngoài, nhà Tà Ôi kể cả nhà sàn và nhà đất đều có nó hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình hai đầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dân tộc.

Tổ chức mặt bằng sinh hoạt của nhà ở thống nhất trong toàn dân tộc. Trung tâm của ngôi nhà là căn mong: nơi thờ tự, tiếp khách, hội họp chung của mọi thành viên trong nhà. Diện tích còn lại được ngăn thành từng buồng, chỗ ở và sinh hoạt của các gia đình. Thông thường thì các buồng được bố trí thành hai hàng theo chiều dọc. Ở giữa là hành lang dành để đi lại. Đến nay ở những nhà đất người ta vẫn duy trì bố cục bên trong nhà như vậy.

Trang phục

Cá tính tộc người không rõ nét, nổi bật mà có sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hóa khác trên trang phục. Đồ trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm, xương là phổ biến. Tục cà răng, căng tai, xăm mình, để tóc lá bài trước trán đã phai nhạt đi.

  • Trang phục nam: Nam giới đóng khố, mặc áo hoặc ở trần.
  • Trang phục nữ: Phụ nữ có áo, váy, có nơi dùng loại váy dài kéo lên che ngực thay áo.

Nhà dài

Sau năm 1975 nhà nước Việt Nam có chủ trương xóa bỏ nhà dài, tách thành những hộ riêng biệt vì vậy cho tới nay nhà dài ở vùng người Tà Ôi không còn nữa. Vào năm 1973 khi chuyển cư về Việt Nam làng A Hươr có 3 ngôi nhà dài. Theo lời kể của những người trong làng: trước đây mỗi họ ở một ngôi nhà dài, những họ đông có tới trên 20 hộ sinh sống trong một nhà dài. Mỗi hộ có tới 5-6 người có bếp lửa riêng.

Gian khách được bố trí ở giữa nhà dài, gọi là moong. Hai đầu hồi của nhà đều có cầu thang chính bắc lên nhà. Cầu thang chính thường được dùng để đón khách. Ở mỗi hộ có các cầu thang phụ nhỏ bắc vào sườn nhà đi vào từng hộ. Mỗi hộ có một bếp (apoh) riêng. Tại gian khách cũng bố trí một bếp lửa. Trước đây khi nhà dài có khách đến thăm thì 4 hộ ở xung quanh gian khách là những hộ tiếp khách đầu tiên, sau đó mới đến các hộ tiếp theo lần lượt mang thức ăn đến phòng khách mời khách ăn uống. Đây còn là nơi để cho khách ngủ đêm lại. Những hộ ở gần gian khách có nhiệm vụ thông báo cho các hộ khác để tiếp khách. Khách đến được mời hút thuốc, uống rượu, được mời ăn mía, chuối, lạc, được mang chiếu và gối để ở. Khách ăn cơm có các hộ xung quanh nhà lần lượt mang cơm đến, khách ngủ dậy được mang bầu nước để rửa mặt, sau đó được mời ăn sáng.

Tại những cột nhà dài người ta treo sừng trâu, sừng bò sau mỗi lần gia đình nào đó tổ chức hiến tế. Trước đây người Tà Ôi tại làng có quy định rằng nếu trường hợp một đôi vợ chồng đến thăm làng và nghỉ đêm ở lại chỉ có người chồng được nghỉ ở gian khách còn người vợ sẽ đựợc gửi đến một hộ nào đó để nghỉ. Gian khách của ngôi nhà dài còn là nơi diễn ra các hoạt động chung của làng. Trong phòng khách còn có cây cột to (âr rông mông), nơi để chum rượu lớn buộc vào đó cho chắc chắn.

Tất cả của cải như chum, trống, thanh la, v.v. đều để ở gian khách, không bao giờ xảy ra trường hợp mất hay cầm nhầm. Nếu có việc lớn như tổ chức lễ aja cũng đưa khách về ở gian khách. Gian khách cũng là chỗ thanh niên, ở chỗ đó có chăn chiếu riêng cho thanh niên. Tổ chức việc uống rượu vào dịp khánh thành nhà, cưới xin, mừng con rể, đàn ông vui chơi... đều diễn ra ở gian giữa, đàn bà nấu nướng ở các nơi.

Khi trong nhà có người chết người ta đưa người chết ra bằng lối cửa phụ, không đưa ra lối hành lang vì sợ xui xẻo, bệnh tật ảnh hưởng đến các hộ khác. Khi khách sẽ dọn dẹp đồ đạc trong từng hộ gia đình.

Ở giữa nhà dài là hành lang (ka nang) đi lại dọc theo ngôi nhà dẫn đến từng hộ gia đình. Đây là chỗ thông thoáng không để bất cứ đồ đạc gì trên khoảng không đó, kể cả việc ngồi trên hành lang cũng không được phép, ông già làng là người thường xuyên nhắc nhở công việc đó. Khi một hộ gia đình có con trai lớn lấy vợ mà chưa có điều kiện nối thêm nhà dài thì đôi vợ chồng đó vẫn ở chung với bố mẹ. Ở với cha mẹ chừng một năm khi đã có con cái thì tách khỏi bố mẹ và nối thêm chiều dài của ngôi nhà sau khi xin ý kiến của tập thể. Ví dụ ở ngôi nhà dài hộ A có con lấy vợ, sau đó đôi vợ chồng đó sinh con. Làng sẽ làm thêm một gian ở phía đầu hồi và xin cho hộ kế tiếp với hộ A chuyển dịch ra phía đầu hồi, cứ như thế đối với các hộ tiếp theo. Phụ nữ không được đi theo lối hành lang của ngôi nhà khi vào gian khách trừ khi mang thức ăn cho khách, và không được ăn tại nhà khách.

Ở giữa ngôi nhà dài người Tà Ôi thường làm một cái thang đi lên gian khách. Cầu thang này chỉ có đàn ông và khách mời mới được đi lại, phụ nữ không được phép sử dụng cầu thang này như lối lên.

Phụ nữ khi sinh nở được làm một cái lán nhỏ bằng cách đan một cái sạp bằng tấm liếp quây xung quanh để che chắn gió. Sau khi sinh khoảng một tuần đó cũng là nơi tắm giặt cho sạch sẽ.

Mặt bằng sinh hoạt ngôi nhà dài

Bếp của mỗi hộ sẽ được làm ở giữa nhà, phía trên có một giàn treo, chỗ ngủ của gia đình là sàn nhà. Khi ngủ người ta xoay chân về phía bếp lửa. Cho đến năm 1972 khi làng chuyển về Việt Nam định cư thì cách nằm ngủ của phần lớn người Tà Ôi vẫn như vậy. Củi dùng để nấu nướng hay sưởi ấm được người phụ nữ Tà Ôi kiếm, lượm mỗi khi đi nương rẫy hoặc đi rừng, một vài bó củi đun để xung quanh bếp, phần lớn số củi còn lại để dưới gầm sàn. Sàn nhà cao 1,50 m. Phía dưới sàn người ta quây các chuồng nhỏ để nuôi gia cầm. Kho thóc không được làm gần nhà dài mà được làm ở ngoài bìa rừng, người Tà Ôi sợ hỏa hoạn sẽ làm cho kho thóc cháy sẽ mất nguồn lương thực. Thóc ăn hàng ngày được để trên gác mái nhà dài. Đồ đạc quý hiếm được để trong các Krúh - một loại gùi đan hình trụ có nắp - được đặt gần vách nhà hoặc treo trên mái.

Nhà ở

Nhà ở theo theo lối truyền thống hiện nay rất hiếm, kiểu nhà truyền thống được người Tà Ôi gọi là doang.

Khi chọn được một mảnh đất ưng ý với các tiêu chí như sau: đất bằng phẳng, gần nguồn nước, gần chỗ ở người dân cùng làng, chủ nhà tiến hành việc xem các thần có cho phép mình ở chỗ đất đó hay không. Người ta chọn từ 6 đến 10 hạt gạo rồi đào trên mảnh đất đó một lỗ nhỏ, bỏ gạo vào lỗ đó và thắp hương. Khi hương cháy hết, chủ nhà lấy hạt gạo ra xem. Nếu các thần cho phép dựng nhà ở chỗ đó thì hạt gạo không bị gãy, bị hỏng, trường hợp không được phép hạt gạo sẽ thành bột, bị gãy, vụn.

Nhà người Tà Ôi được dựng ở phía chếch Mặt Trời, khi Mặt Trời lên cao ánh sáng chiếu thẳng vào hướng cửa nhà là không tốt. Trước đây nhà người Tà Ôi được làm trước tháng 6 để tránh mưa gió. Khi dựng cột nhà phải xem giờ, khoảng 4-5 giờ sáng, lúc Mặt Trời chưa mọc, chưa có chim hoặc hoẵng kêu, người Tà Ôi quan niệm thần nhà không thích nhiều tiếng động của chim thú sẽ gây ra rủi ro.

Ngày dựng cột chính, hương được thắp theo lối dân tộc, người ta dùng một cái giỏ có chân bỏ vào: 6 chén, thịt gà. Khi cúng già làng sẽ là người chủ tế, mọi người đứng ở xung quanh. Các trường hợp chuyển nhượng nhà sau khi mua cũng phải làm lễ cúng, ví dụ: nhà Kê Văn Tham mua của Hồ Viên Pả, khi chuyển về ở phải tổ chức lễ cúng, đồ cúng có: gà sống, tấm rèng, chén rượu.

Nhà được làm theo lối cổ truyền có chiều dài 5,40 m chiều rộng 4,20 m, tổng diện tích của nhà là 22,68 mét vuông. Trên một đơn vị diện tích mặt bằng đó bố trí các công năng của nhà như sau: Hai đầu hồi nhà phía đông và phía tây là phía cửa ra vào với cầu thang (kpong) đi lên, cửa chính có chiều cao 1m30 chiều rộng 70 cm. Phía tây có một bếp lửa hình vuông có chiều rộng 1m vuông làm chỗ nấu nướng, trên bếp có để một gác để ngô, sắn và các loại thức ăn. Đối diện với bếp lửa là chỗ nằm của ông chủ nhà có dải một chiếc chiếu làm nơi nằm ngủ. Nhà có 3 cửa sổ (a loang a be) có chiều cao dài 93 cm chiều rộng 66 cm. Nhà ở có 6 cột chính (non) các xà gắn kết với cột chính theo nguyên tắc ngòam, khi dựng nhà người Tà ôi cũng dựng những cột chính này đầu tiên. Sau đó là các xà dọc liên kết tạo thành khung nhà. Tiếp theo là các bộ kèo cột, các đòn tay (ploi). Mái nhà được lợp tranh, vách nhà (ner) được đan bằng lồ ô đập dập đan vào nhau. Nhà ông Quỳnh Vâng làm năm 1997 tại làng là ngôi nhà duy nhất tính đến thời điểm hiện nay được làm theo phương pháp cổ truyền.

Tín ngưỡng

Hồn vía và các siêu linh

Người Tà Ôi quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tín ngưỡng đa thần chi phối hầu hết các mặt trong cuộc sống của họ. Trong thế giới thần linh của người Tà Ôi trước tiên phải kể đến hồn.

Trước tiên là hồn, hồn được nằm ở khoảng từ ngực cho đến đầu khi người còn sống. Khi người chết rồi thì cũng chỉ có một hồn (avai ving) và hồn đó lang thang ở nghĩa địa. Khi người chết không bằng lòng với gia đình thì hồn này về quấy phá người sống. Trong các dịp cúng lễ hồn của người chết cũng thường về thông qua những giấc mơ (am bo) của người sống. Theo người Tà Ôi thì hồn được hóa thân như tiếng nói, hoặc hồn có thể tạo ra một sức mạnh tác động đến vật thể khác, ví dụ như hồn có thể về gõ cửa. Người Tà Ôi còn cho rằng người chết sau 3 ngày thì có thể quay trở về đòi của cải nếu không được người sống chia cho. Cũng từ cách suy nghĩ trên mà người Tà Ôi còn dùng cách rải tro ở trước cửa để nhìn thấy dấu chân của hồn về sau khi có người nhà chết. Năm 2003 khi ông Võ Dậu mất, bà Ka Dậu là vợ dùng tro rải trước thềm và thấy ông bước chân của ông in trên tro, đúng là ông đã về. Có nhiều người còn thấy hồn về với tiếng động như rót nước hoặc lấy thức ăn trong nồi. Người Tà Ôi nói sau khi chết 3 ngày, người chết mới thật sự biết mình mất, trước đó thì không biết, như một người mơ ngủ không tỉnh không say. Hồn xấu là những người chết thiêng, nhất là đàn bà chết do sinh nở, chết bị hổ vồ, người chết ở dạng này hay hiện ra mộ kêu khóc và trêu chọc người sống. Người chết có thể về xin các đồ vật như quần áo, gùi, dao... Lúc này gia đình của người chết có thể dùng lá chuối cắt thành hình chữ T thay cho áo, cắt hình chữ V thay cho quần. Người giàu có thì dùng 2 tấm vải vứt ra ngoài và nói tôi đã cho, đừng xin thêm và phải phù hộ cho tôi. Trường hợp không bằng lòng hồn có thể về làm cho người sống đau ốm, hoặc làm các công việc bị mắc nợ, không trôi chảy.

Ma (brau briêu) đây là loại ma rừng có thể phù hộ cho người sống tuy nhiên cũng có thể gây ra ốm đau bệnh tật. Theo người Tà Ôi thì ma brau briêu có thể sai khiến được hổ, rắn, muông thú để làm hại người.

Trước đây hàng năm người Tà Ôi có tổ chức cúng các giàng: trời (abang), thần đất (katek) thần rừng (krúm kaek). Tổ chức cúng trời đất phải 10-12 năm một lần, vì khi cúng phải có trâu. Khi làng giàu có, không có người chết, làng được bội thu tổ chức cúng tạ ơn. Các trường hợp làng bị bão lụt, thiên tai cũng tổ chức cúng thần trời, đất, nhà rông, nhà ở. Khi tổ chức đâm trâu cúng cho trời có 12 loại thức ăn, cúng đất là tám loại thức ăn, cúng cho giàng kmưk là năm loại thức ăn: trâu, lợn, gà, tiết canh, món nướng, món thái, làm canh làm xôi. Cơm được để trong chén và rót nước đót, có chum nhỏ và chén nhỏ rồi thắp hương.

Thần nước (giàng đak)

Thần nước được người Tà Ôi hình dung là một người đàn ông thấp, bé nhỏ có râu tóc bạc phơ. Thần nước còn có thể ban cho người dân nhiều cá ăn, trong truyền thuyết người Tà Ôi kể rằng thần nước tạo ra cá bằng cách bỏ hạt gạo vào lá chuối rồi đưa chỗ suối, những hạt gạo sẽ biến thành cá và người ta sẽ bắt được nhiều cá. Khi ở bên Lào các ông Quỳnh Say, Quỳnh Chay đã từng nhìn thấy thần nước ở chỗ đầu ngọn thác, gọi là Avó còn có nghĩa là bác thể hiện tôn trọng của người Tà Ôi (có thể họ chỉ hình dung như vậy). Thần nước có mối liên hệ đặc biệt với lễ khánh thành bến nước, lần đầu tiên khi làm bến nước, nước được dẫn về làng qua các ống lồ-ô, lúc này không người nào được sử dụng nước. Các trưởng họ và già làng đem con gà còn sống cầu mong cho nước ăn không đau bụng, nguồn nước không bao giờ tắt. Sau khi cúng xong giết gà bên nhà rông và lấy máu chôn ở chỗ có nước. Chỗ cột cuối cùng có vòi nước được làm rất đẹp và chôn máu gà (sôl rtang dak) được làm và sửa hàng năm. Nước lần đầu tiên khi sử dụng dân làng phải làm một con gà, một con lợn, một con dê không cho người làng khác được sử dụng. Lúc đó già làng sẽ làm lễ cúng mời thần nước (aul –avó dak).

Thần chỗ ở gia đình (giàng an teng)

Trước đây người Tà Ôi ở trong những ngôi nhà dài, mỗi gia đình sở hữu một gian trong ngôi nhà dài. Trong khoảng không gian đó người Tà Ôi đều thờ thần chỗ ở gia đình của mình. Thần chỗ ở gia đình thường xuất hiện từ giấc mơ của chủ nhà, khi ngủ người Tà Ôi mơ thấy thần chỗ ở gia đình nhập vào tấm khố, tấm rèng hay bất cứ đồ vật nào thì người ta sẽ bỏ đồ vật đó vào cái kang (một loại gùi được đan đặc biệt) và để ở góc nhà. Chủ nhà sẽ làm một con gà để làm lễ cúng nhập giàng an teng vào hộ gia đình mình. Kể từ thời điểm đó, bất cứ gia đình có công việc gì như đám ma, đám cưới, cúng thần rừng, thần nước thì đều tiến hành cúng thần nhà. Đặc biệt trong mỗi dịp gia đình có hoàn thành một công việc gì người ta đều cho rằng có sự trợ giúp của thần chỗ ở gia đình, trong các dịp bình thường khi cúng thì không cần mở kang có đồ vật mà giàng đã nhập vào. Trong năm chỉ có dịp dân làng tổ chức aja thì hộ gia đình đó mới mở kang để lấy đồ vật ra cúng, thường đồ vật này được mang ra nhà rông để làm lễ cúng. Khi kang-chỗ ngự trị của thần chỗ ở gia đình được đặt ở góc nhà khi làm lễ cúng, chủ nhà thường để cơm, gạo, thịt phía trước kang để cúng.

Thần nhà dài (giàng đanh)

Trong ngôi nhà dài có nhiều hộ gia đình sinh sống thì thần nhà dài (giàng đeng) ngự ở gian khách. Chủ nhà dài sẽ làm một cái nhà nhỏ để thần nhà ngự ở trong đó và treo ở dưới nóc nhà. Trong gia đình có người bị đau ốm hay xảy ra bất cứ công việc gì người ta cúng thần gia đình xong thì đều cúng thần nhà dài. Khi làng có dịp gì chủ nhà dài đều cúng thần nhà dài, trước đây có quy định các hộ trong nhà dài khi ăn dê, trâu, bò đều phải cầu cúng cho thần nhà dài được biết.

Thần hổ (giàng avó)

Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng. Việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng. Xuất phát từ giấc mơ ngẫu nhiên, trong làng có người làm loại bẫy to (tì hò), người chủ bẫy về đến nhà mơ thấy con hổ (a vó bok) báo mộng, khi đó người chủ bẫy mơ thấy hổ xin ở lại với làng. Khi hổ mắc bẫy người ta tổ chức cúng thần rừng với các đồ vật hiến tế như sôl, leo, chuẩn bị hạt mã não, tấm rèng. Việc tổ chức cúng tạ ơn thần rừng được làm chu đáo, sau đó người ta mới cắt đầu hổ rồi mang về làng. Một nhóm thanh niên làm nhà mồ cho hổ (ping a vó), khi làm xong nhà mồ thì chưa đặt đầu hổ vào bên trong. Làng tổ chức lễ hiến sinh bằng cách giết thịt một con dê, một con gà, một con lợn để khánh thành ngôi nhà mồ đó. Các đồ cúng được đặt trong mâm để trong nhà mồ. Chủ làng sẽ nói: hổ muốn ở lại làng phải bảo vệ làng không được để cho người chết, khi có xung đột, chiến tranh giữa các làng khác phải thông báo sớm qua giấc mơ. Nếu có người phá phách hoặc đốt làng, phải phạt người đó. Khi tiến hành việc cúng đầu hổ không cho phụ nữ mang thai vào nhà mồ, người khách lạ cũng không được vào. Nếu khách ở làng khác đến chơi phải báo trước cho chủ làng.

Hàng năm người ta vẫn đến tiến hành thăm nhà mồ có đầu hổ. Trong các thôn của xã Nhâm chỉ có làng Nhâm I còn có tục thờ thần hổ, làng Ka Linh, Tà Kêu trước đây ở bên Lào cũng có. Từ chiến tranh chống Mỹ cho đến nay người ta không còn giữ thủ tục này.

Vị trí của ngôi nhà mồ dành riêng cho hổ được chôn ở phía trên nhà mồ của người, không ai có quyền vào khu nhà mồ của hổ. Nhà mồ của hổ được rào bằng đá xung quanh. Ở giữa ngôi nhà mồ người ta để hòn đá, trên hòn đá người ta đặt chiếc đầu hổ, người ta cũng chia cho hổ các vật dụng như: vòng tay, bát đựng thức ăn, tấm rèng, sừng trâu, bò, hàm răng lợn. Các loại đồ thờ cúng này ông già làng phải phân bổ cho các hộ chuẩn bị.

Hàng năm khi người Tà Ôi tiến hành tổ chức ăn năm mới, hay cúng khánh thành nhà rông, thần hổ đều được chia phần, khi tuốt lúa mới phải thổi cơm dành phần cho thần hổ ăn. Một năm tổ chức vệ sinh cho khu nhà mồ hổ một lần, khách ngoài làng không được phép vào trong khu nhà mồ đó. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin rằng hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp chuyện chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong làng. Trước đây ở bên Lào có nhiều trường hợp một làng thờ đến 2 đầu hổ.

Những người Tà Ôi có danh tiếng

Những người Tà Ôi Việt Nam có danh tiếng
Tên Sinh thời Hoạt động
Hồ Đức Vai 1940-... Còn gọi là Hồ Vai, anh hùng LLVTND Việt Nam [10], đại biểu Quốc hội Việt Nam [11]. Quê thôn Lê Lốc, xã Hồng Bắc, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Hồ Kan Lịch 1943-... Người Pa Kô, nữ Anh hùng LLVTND Việt Nam người dân tộc đầu tiên, được ca ngợi trong bài hát "Cô gái Pa Kô" của nhạc sỹ Huy Thục. Tên nguyên của bà là Kăn Lịch, sinh tại bản A Lê Nôc, nay thuộc thị trấn A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế [12][13].
Mai Hoa Sen 1943-... Người Pa Kô, nghệ nhân ưu tú được công nhận năm 2015. Ông hiện sống tại xã Tà Rụt, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị [14]. Ông là người chế tác các loại nhạc cụ dân tộc Pa Kô [15][16].

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ a b c Joshua Project.Country: Laos, Ethnic People Group: Lower and Upper Ta Oi, 2019. Truy cập 12/12/2020.
  2. ^ a b Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số 2019. p. 44. Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê, Tổng cục Thống kê, 19/12/2019. Truy cập 1/09/2020.
  3. ^ Các dân tộc Việt Nam. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam, 2016. Truy cập 01/04/2019.
  4. ^ Dân tộc Tà Ôi. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Việt Nam, 2016. Truy cập 01/04/2019.
  5. ^ Joshua Project. Country: Vietnam, Ethnic People Group: Upper Ta Oi, 2019. Truy cập 12/12/2020.
  6. ^ Điều tra dân số 1999, tập tin 47.DS99.xls
  7. ^ “Website của Ủy ban dân tộc”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2009.
  8. ^ Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Biểu 5, tr.134-225. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
  9. ^ Languages of Laos. Ethnologue.
  10. ^ Anh hùng Hồ Đức Vai và 5 lần gặp Bác. Công lý Online, 19/5/2015. Truy cập 15/05/2018.
  11. ^ Hoạt động đại biểu Quốc hội. Hồ Đức Vai, 2015. Truy cập 15/05/2018.
  12. ^ Nữ anh hùng Kan Lịch của dân tộc Pa Kô. Phunutoday, 06/05/2012. Truy cập 15/10/2015.
  13. ^ Nữ anh hùng của người Pa Kô. Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh, 10/4/2011. Truy cập 15/10/2015.
  14. ^ Nghệ nhân Mai Hoa Sen. VOV4, 2015. Truy cập 22/11/2017
  15. ^ Nghệ nhân già giữ điệu hồn dân tộc Pa Kô. Dân Việt Online, 17/11/2014. Truy cập 22/11/2017
  16. ^ Người nghệ sỹ của đại ngàn. Công Lý Online, 07/11/2015. Truy cập 22/11/2017.

Liên kết ngoài