Thành viên:Nghi Mặc Huyền Khế/Tào Động tông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiền sư Động Sơn Lương Giới

Tào Động tông (zh. 曹洞宗 cáo-dòng-zōng, ja. sōtō-shū) là một trong năm tông của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương GiớiTào Sơn Bản Tịch. Các giáo lý đặc trưng nhất của tông này để phân biệt với các tông phái khác có thể kể đến như Động Sơn Ngũ Vị, Thiền Mặc Chiếu. Tông này từng phát triển mạnh ở Trung Quốc và được truyền bá sang một số quốc gia như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Cùng với tông Lâm Tế, tông Tào Động là một trong hai phái của Thiền tông còn tồn tại cho tới ngày hôm nay.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Sơ khai[sửa | sửa mã nguồn]

Tông này được sáng lập vào khoảng giữa cuối thời Đường bởi Thiền sư Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch. Động Sơn từng tu học và đắc pháp với Thiền sư Vân Nham Đàm Thịnh. Sau, sư đến hoằng pháp tại Động Sơn Phổ Lợi Thiền Tự ở Giang Tây và xiển dương tông phong mạnh mẽ, sáng lập giáo lý Động Sơn Ngũ Vị để tiếp dẫn người học. Động Sơn có nhiều đệ tử nối pháp, nổi tiếng nhất là Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch ౼ người kế thừa và hoàn thiện giáo lý Động Sơn Ngũ Vị, làm chổ dựa vững chắc cho tư tưởng của Tông Tào Động.

Theo các học giả Phật giáo, tên gọi "Tào Động" có lẽ được ghép từ chữ đầu trong pháp danh của hai vị Thiền sư sáng lập là Động SơnTào Sơn, và ban đầu được gọi là "Động Tào tông". Nhưng sau này do âm vận nghe trắc trở hay vì một lý do khác, đã được gọi ngược lại là "Tào Động". Tuy nhiên, một số học giả khác cho rằng, chữ "Tào" có lẽ liên quan đến ngọn núi Tào Khê hơn, nơi Lục Tổ Huệ Năng từng hoằng pháp.

Trong số các đệ tử nối pháp của Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch, nổi bật nhất phải kể đến là Thiền sư Tào Sơn Huệ Hà ౼ tác giả cuốn Ngũ Vị Hiển Quyết và là người có công lớn trong việc phổ biến tư tưởng của tông Tào Động. Tuy nhiên, pháp hệ của Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch chỉ truyền được 5 đời rồi bị thất truyền. Pháp mạch của tông Tào Động nhờ các thế hệ đệ tử của Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng - đệ tử đắc pháp khác của Thiền sư Động Sơn Lương Giới duy trì mà không bị thất truyền. Nên bên cạnh việc gọi tên tông phái mình là "Tào Động tông" ra, các Thiền sư thuộc pháp hệ của Vân Cư cũng gọi tông mình là "Động tông", " Động thượng chính tông" để phân biệt với phái của Tào Sơn.

Sao khi Vân Cư thị tịch, đệ tử là Thiền sư Đồng An Đạo Phi kế tiếp tổ thống. Sau, Đạo Phi truyền pháp lại cho pháp tử là Thiền sư Đồng An Quán Chí và Quán Chí truyền pháp lại cho đệ tử là Lương Sơn Duyên Quán. Cũng giống tông Lâm Tế, các vị tổ đời đầu của tông Tào Động kể trên khá mờ nhạt và không có nhiều ảnh hưởng trong nội bộ Thiền tông.

Thời kỳ nhà Tống[sửa | sửa mã nguồn]

Vào thế kỷ 11, Tào Động tông gần như bị thất truyền khi vị tổ đời thứ 6 là Thái Dương Cảnh Huyền không có người thừa kế. Để đối phó với vấn đề này, sư đã đem cà sa, giày cỏ của mình làm tín vật cùng tâm yếu trao lại cho Phù Sơn Pháp Viễn (đệ tử cũ của Thái Dương, sau nối pháp Lâm Tế tông) tìm giúp người thừa kế tông môn. Sau này, Thiền sư Đầu Tử Nghĩa Thanh đến tham học với Pháp Viễn và được Pháp Viễn truyền lại tâm yếu của Tào Động tông cùng với di vật của Thái Dương. Nghĩa Thanh được coi là người kế thừa chính thức của Thái Dương qua hình thức "đại phó".

Hoằng Trí Chính Giác - Người lập ra "Thiền Mặc Chiếu".

Đến đời của Thiền sư Phù Dung Đạo Khải ౼ Tổ thứ 8, Tông Tào Động bắt đầu phát triển mạnh. Đạo Khải đã xây dựng nhiều Thiền viện, phổ biến các lối tu và sinh hoạt riêng cho tông Tào Động. Nhờ vậy, tông này chính thức trở nên độc lập và có chổ đứng, gây ảnh hưởng ngày càng sâu rộng trong xã hội Trung Quốc.

Đặc biệt, pháp tôn của Phù Dung là Thiền sư Hoằng Trí Chính GiácChân Yết Thanh Liễu đã sáng tạo ra phương pháp Thiền Mặc Chiếu ౼ dựa trên cơ sở giáo lý của các vị tổ sư đi trước như Tham Đồng Khế, Bảo Cảnh Tam Muội Ca, Động Sơn Ngũ Vị ౼ để đối lại khuynh hướng đề xướng tông phái trong nội bộ Thiền Tông. Khi mới ra đời, nó bị phản ứng khá gay gắt, nhất là từ phía của Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo ౼ người cực lực đề xướng Thiền công án, thoại đầu. Để phản bác lại chỉ trích của Đại Huệ, Hoằng Trí soạn "Mặc Chiếu Minh", Chân Yết viết "Tín Tâm Niêm Cổ". Thông qua tài năng biện luận của mình, Hoằng Trí đã khiến cho giới Thiền tông đương thời phải công nhận Mặc Chiếu là một pháp tu chính thống của tông Tào Động. Phương pháp Mặc Chiếu này được truyền qua Nhật Bản bởi Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền và vẫn còn phát triển cho tới ngày nay dưới tên gọi "Chỉ quán đả tọa" (ja. Shikantaza).

Thời kỳ nhà Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Đến thời Nguyên, Tông Tào Động cũng phát triển và có ảnh hưởng. Nhiều vị Thiền sư trong tông này rất được các vua nhà Nguyên ủng hộ và thường mời họ vào cung thuyết pháp hỏi đạo. Nổi bật nhất trong thời gian này là Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú ౼ tác giả của hai tác phẩm Thiền là Thung Dung Lục và Thỉnh Ích Lục. Vạn Tùng cũng có đệ tử cư sĩ nổi tiếng là Gia Luật Sở Tài ౼ một chính khách quan trọng của triều đình nhà Nguyên. Sau Vạn Tùng, tông Tào Động tiếp tục phát triển dưới thời của Thiền sư Tuyết Đình Phúc DụLâm Tuyền Tùng Luân (tác giả của Không Cốc TậpHư Đường Tập), họ có công lao rất lớn trong việc bảo vệ Phật giáo. Năm 1255, Khâu Xử CơLý Chí Thường thuộc phái Toàn Chân GiáoĐạo giáo ra sức bành trướng ảnh hưởng, họ thường đi phá chiếm các chùa Phật, hủy hoại Khổng miếu. Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ bèn dâng sớ lên Nguyên Hiến Tông vạch tội họ. Vua bèn cho Tuyết Đình và Lý Chí Thường vào trong cung cùng tranh luận lý lẽ với nhau, cuối cùng Lý Chí Thường thua và buộc phải ngừng các hành vi phá hoại Phật Giáo, Nho Giáo của họ. Tuyết Đình cũng được Hốt Tất Liệt rất kính trọng và từng mời sư vào cung thuyết pháp và phong cho sư làm giáo chủ của cả hai tôn giáo lớn ở Trung Quốc lúc bấy giờ là Đạo GiáoPhật Giáo.

Vườn tháp ở chùa Thiếu Lâm.

Cũng kể thêm, từ đầu nhà Nguyên cho đến giữa cuối nhà Minh, Thiếu Lâm Tự là trụ sở chính của tông Tào Động. Năm 1245, Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ (đời thứ 15) vâng lệnh vua đến trùng tu và hoằng pháp tại Thiếu Lâm. Kể từ đó, phương trượng của chùa Thiếu Lâm đều do các đời pháp tôn của Thiền sư Phúc Dụ kế thừa, từ Thiền sư Phúc Dụ kéo dài cho đến thế hệ của Thiền sư Đại Chương Tông Thư (1500-1567, đời thứ 24) là hơn 300 năm, tháp mộ của các vị này nay vẫn còn tại vườn tháp chùa Thiếu Lâm. Đến đời pháp tử của Đại Chương Tông ThưLẫm Sơn Thường TrungHuyễn Hữu Thường Thuận lại phân ra thành hai nhánh với ảnh hưởng ở nhiều nơi khác nhau. Kể từ đó, chùa Thiếu Lâm không còn là trụ sở chính của tông Tào Động như trước nữa. Tuy vậy, các đời trụ trì của chùa này vẫn được truyền thừa theo pháp mạch của tông Tào Động và duy trì cho đến hiện nay.

Thời kỳ nhà Minh - Thanh[sửa | sửa mã nguồn]

Đến thời Minh, Thiền tông nói riêng và Phật giáo Trung Quốc nói chung bị hạn chế phát triển do sự kiểm soát gắt gao của nhà Minh đối với Phật Giáo. Bên cạnh đó, Thiền tông cũng bị suy yếu và bị lai tạp với Tịnh Độ tông qua xu hướng Thiền -Tịnh song tu. Để vực dậy tông Tào Động, các vị Thiền sư tông này như Trạm Nhiên Viên Trừng, Thụy Bạch Minh Tuyết,... thì khôi phục lại các phương pháp độ chúng của tổ sư, còn phía phái của Thiền sư Vô Minh Tuệ Kinh, Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Cảnh,... thì nỗ lực trong việc hoằng pháp, xây cất chùa chiền để phát triển tông phái. Điển hình là Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền đã biên soạn bộ Động Thượng Cổ Triệt để giải thích các tư tưởng đặc trưng của tông Tào Động.

Từ cuối thời Minh cho đến đầu thời Thanh cũng diễn ra các cuộc tranh luận sôi nổi, có lúc cũng rất kịch liệt và gay gắt giữa các vị Thiền sư Lâm Tế và Tào Động liên quan tới các vấn đề như lịch sử, pháp hệ của Thiền Tông hay về đường lối thực hành Thiền Tông.

Thời kỳ cận - hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]

Cận đại, cao tăng Trung Quốc là Thiền sư Hư Vân là người có công lao to lớn trong việc khôi phục lại Thiền tông nói chung và Tào Động tông nói riêng. Sư thuộc đời thứ 47 của tông Tào Động, là đệ tử của Thiền sư Diệu Liên tại núi Cổ Sơn, Phúc Kiến ౼ nơi đây vốn là tổ đình của dòng Cổ Sơn do Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền sáng lập vào cuối thời nhà Minh. Sư đã trùng tu và hoằng pháp tại các tổ đình Tào Động như Dũng Tuyền Thiền Tự ở Cổ Sơn, Phúc Kiến và Chân Như Thiền Tự ở núi Vân Cư, tỉnh Giang Tây (đạo tràng do Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng đời nhà Đường sáng lập).

Người Trung Quốc truyền bá Tào Động sang phương tây nổi tiếng nhất là Thiền sư Thánh Nghiêm (zh. Shengyen) ౼ pháp tôn của Thiền sư Hư Vân.

Ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Tông chỉ của Tông Tào Động được truyền vào Triều Tiên đầu tiên vào cuối thời đại Tân La. Năm 894 triều Đường, tăng sĩ Triều Tiên là Lợi Nghiêm (zh: 利嚴; ko: iǒm) hành cước sang Trung Quốc. Sư tham học với Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng rồi ngộ đạo và được ấn khả. Sau khi trở về nước vào năm 911, sư theo sắc lệnh của vua Thái Tổ Cao Ly sáng lập Quảng Chiếu Tự tại Tu Di Sơn. Tại đây, sư tích cực truyền bá Thiền Tông và đào tạo ra nhiều vị đệ tử Thiền sư nổi tiếng như: Xử Quang, Đạo Nhẫn. sư là một trong chín vị Thiền sư bản địa đầu tiên sang Trung Quốc du học và truyền bá Thiền Tông vào Triều Tiên, phái thiền Tu Di Sơn của sư là một trong chín phái Thiền (zh: 九山禪, Cửu Sơn Thiền) đại diện cho Thiền Tông Triều Tiên đương thời.

Đến thời Minh, tông này một lần nữa được truyền sang Triều Tiên.

Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền, Khai tổ Tông Tào Động tại Nhật Bản.

Tông Tào Động được truyền vào Nhật Bản lần đầu tiên bởi Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền trong khoảng thế kỷ XIII. Vào năm 1223, sư sang Trung Quốc học Thiền tại Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự ở Ninh Ba, Triết Giang và đại ngộ, nối pháp của Thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh. Năm 1227, sư trở lại Nhật Bản, sáng lập Vĩnh Bình Tự và bắt đầu xiển dương tông phong của mình.

Ngoài Đạo Nguyên, vào thế kỷ XIV, tông Tào Động cũng được tiếp tục truyền sang Nhật qua một số vị Thiền sư thuộc phái Hoằng Trí. Ví dụ như Thiền sư Đông Minh Huệ Nhật (Đông Minh phái) sang Nhật vào năm 1309 và kế đến là Thiền sư Đông Lăng Vĩnh Dư (Đông Lăng phái) vào năm 1351. Thiền sư Đông Minh từng trụ trì tại ngôi đại danh sát Viên Giác Tự (ja: Enkaku-ji) ở Liêm Thương (ja: Kamakura) còn Thiền sư Đông Lăng cũng từng trú trì tại một số đại danh sát như Thiên Long Tự (ja: Tenryū-ji), Nam Thiền Tự (ja: Nanzen-ji), Kiến Trường Tự (ja: Kenchō-ji) và Viên Giác Tự (ja: Enkaku-ji). Cả hai vị này đều nương nhờ vào các Thiền viện của Lâm Tế Tông để cử xướng Thiền phong Phái Hoằng Trí thuộc Tào Động Tông, tuy nhiên pháp hệ của họ sau đó bị thất truyền.

Đến cuối thời Minh, tông Tào Động cũng được Thiền sư Tâm Việt Hưng Thù ౼ phái Thọ Xương truyền bá sang Nhật vào năm 1677, nhưng cũng không tồn tại được lâu và bị thất truyền.

Dòng truyền Tông Tào Động còn tồn tại đến ngày nay tại Nhật Bản là của Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền ౼ nhân vật có ảnh hưởng nhất và là người truyền bá dòng Thiền này thành công nhất. Với phong cách dản dị, bình dân, lối Thiền này đã tạo ra sức hút với các tầng lớp bình dân và gây tiếng vang lớn trong xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên, Đạo Nguyên phê phán kịch liệt việc phân chia Thiền tông thành Ngũ Gia Thất Tông và rất kỵ trong việc gọi tông chỉ của mình là Thiền tông hay Tào Động tông nên ban đầu dòng truyền này được gọi là Chính Pháp Tông hay Đạo Nguyên Tông.

Thiền sư Oánh Sơn Thiện Cẩn, tổ thứ 4, người phát triển Tông Tào Động vượt trội.

Sau khi Đạo Nguyên thị tich, môn đệ là Cô Vân Hoài Trang kế thừa trụ trì chùa Vĩnh Bình và trở thành tổ thứ 2 của tông này. Cô Vân có công lớn trong việc biên soạn và lưu truyền các tác phẩm Thiền của Đạo Nguyên. Sau khi Cô Vân thị tịch, trong nội bộ đã diễn ra một cuộc tranh cãi kịch liệt giữa 4 đệ tử nối pháp của Thiền sư Cô Vân Hoài Trang là Triệt Thông Nghĩa Giới, Tịch Viên[1], Nghĩa Diễn và Nghĩa Doãn với tiêu đề là Tam Đại Tương Luận (zh: 三代相論, ja: Sandai sōron), tức là sự khác biệt về thế hệ thứ 3. Bởi vì, trước khi Thiền sư Cô Vân Hoài Trang thị tịch, sư không nêu tên một người kế vị trụ trì chùa Vĩnh Bình rõ ràng và cả 4 đệ tử này của Thiền sư Hoài Trang đều tuyên bố vai trò của mình đối việc trụ trì chùa Vĩnh Bình. Câu chuyện bắt đầu tệ hơn sau khi Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới lên làm trụ trì chùa Vĩnh Bình, sư đã thay đổi quy củ, kiến trúc chùa theo hướng dung hợp các yếu tố Mật Giáo, sinh hoạt mang tính nghi lễ rườm rà ౼ mà vốn được coi là trái với chủ trương của Đạo Nguyên nên bị các đồng môn khác lên án. Sau đó, các Thiền sư Tịch Viên, Nghĩa Doãn, Triệt Thông Nghĩa Giới rời khỏi chùa Vĩnh Bình, Thiền sư Nghĩa Diễn được đại chúng chùa Vĩnh Bình suy tôn lên làm trụ trì.

Sau khi rời chùa Vĩnh Bình, Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới đến trụ trì tại chùa Đại Thừa (ja: Daitokuji) và tiếp tục hiện thực hóa các ý tưởng mới về kiến trúc, quy củ sinh hoạt của mình. Sau đó, Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới thị tịch, đệ tử nối pháp là Oánh Sơn Thiện Cẩn tiếp tục phát huy và triệt để hóa các ý tưởng của thầy. Dưới sự hoằng pháp của Thiền sư Oánh Sơn, Tông Tào Động phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng thu hút được nhiều tín đồ tu học. Sư ra sức chỉnh đốn thanh quy và đào tạo đồ chúng, xây dựng ngôi đại Thiền tự Tổng Trì (ja: Soji-ji) và đưa Tông Tào Động tiến xa trong xã hội Nhật Bản. Với công lao này, thầy của sư là Triệt Thông Nghĩa Giới được hậu thế tôn làm tổ thứ 3 của Tông Tào Động và sư là tổ thứ 4. Sư được hậu thế tôn kính gọi là Đại Tổ (zh. 大祖, ja. daiso) và có tầm ảnh hưởng ngang hàng với Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (Cao Tổ, zh: 高祖). Dưới Oánh Sơn Thiện Cẩn có nhiều vị đệ tử đắc pháp xuất sắc như Minh Phong Tố Triết, Nga Sơn Thiều Thạc... Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc có 21 vị đệ tử nối pháp anh tài làm trụ cột phát triển cho tông Tào Động lan rộng ảnh hưởng khắp xã hội Nhật Bản, sư cũng là người đã đưa giáo lý quan trọng của tông Tào Động là Động Sơn Ngũ vị vào việc giảng dạy, tu học.

Như vậy, Tông Tào Động Nhật Bản dòng pháp Đạo Nguyên Hi Huyền có hai hệ phái chính là:

  1. Dòng pháp của Triệt Thông Nghĩa GiớiOánh Sơn Thiện Cẩn lấy Tổng Trì Tự (ja: Soij-ji) làm tổ đình chính. Mục tiêu chính là truyền bá và mở rộng giáo đoàn, lan rộng ảnh hưởng trong quần chúng, nên trong hoạt động tu tập có phần khác biệt so với tư tưởng của Đạo Nguyên như dung nhập hình thức tham công án, nặng về nghi lễ Mật giáo như trì chú, tụng kinh...
  2. Dòng pháp của Thiền sư Tịch Viên và Nghĩa Vân[2] lấy Vĩnh Bình Tự (ja: Eihei-ji) làm tổ đình chính và nối tiếp sự truyền thừa (do Thiền sư Nghĩa Diễn không có người thừa kế nên Thiền sư Nghĩa Vân đến giúp sức hoằng hóa rồi thủ trì truyền thừa). Với chủ trương duy trì lối tu Thiền giản dị, thuần túy, nguyên thủy như thời của Thiền sư Đạo Nguyên còn sống.

Cả hai ngôi tổ đình sau này đều được xếp ngang hàng nhau và được Thiên Hoàng công nhận là Lưỡng Đại Bản Sơn của tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1895, trưởng môn của hai phái Tổng Trì và Vĩnh Bình đã thảo luận về các bất đồng từ xưa và đưa ra các thỏa thuận chung vì mục tiêu hoằng pháp.

Vào thời kỳ Edo đã diễn ra sự cải cách và trùng hưng trong nội bộ Tông Tào Động Nhật Bản với đặc trưng là khôi phục lại các tác phẩm và giá trị Thiền học của Thiền sư Đạo Nguyên thông qua hoạt động của một số Thiền sư như Menzan Zuihō (1683–1769), Gentō Sokuchū (1729–1807),...

Chùa Vĩnh Bình (ja: Eihei-ij)
Chùa Tổng Trì (ja: Soij-ji)
Trụ sở hành chính chính của tông Tào Động Nhật Bản tại Tokyo.

Theo thống kê Bộ Văn hóa Nhật Bản vào năm 1998, tông Tào Động là tông phái Phật giáo lớn nhất tại Nhật bản với 3 hệ phái chính, gần 15,000 ngôi chùa (trong đó khoảng 13.850 ngôi chùa thuộc Tổng Trì Tự và còn lại là thuộc Vĩnh Bình Tự), khoảng 8 triệu tín đồ trên khắp Nhật Bản và nhiều trường đại học trực thuộc như Đại học Komazawa, Đại học Aichi Gakuin...

Tào Động tông Nhật Bản được truyền sang phương tây với tên gọi phổ biến là "Soto Zen" vào giữa sau thế kỷ 20 đầu tiên bởi Thiền sư Taisen Deshimaru (đệ tử Thiền sư Kodo Sawaki), sư xây dựng cơ sở hoằng pháp Tào Động ở nước Pháp và lan rộng ra nhiều nước phương Tây, đến nay vẫn còn phát triển. Nó cũng được truyền bá sang Mỹ với các vị Thiền sư như Shunryū Suzuki, Taizan Maezumi. Các phong trào tu Thiền, các Thiền đường Tào Động ở phương tây do các sư gốc Nhật hay các vị sư phương tây truyền bá ngày càng phát triển và thu hút sự quan tâm của nhiều người Phương tây.

Tu tập[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền sư Taizan Maezumi- người truyền bá Thiền Tào Động sang Mỹ thời hiện đại.

Từ lúc sáng lập tông phái cho đến nay, các chùa của tông Tào Động Nhật Bản vẫn duy trì việc thực hành Chỉ quán đả tọa. Phương pháp Thiền này do Thiền sư Đạo Nguyên kế thừa từ pháp Thiền Mặc Chiếu của Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác và được Thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh trực tiếp chỉ dạy và đốn ngộ yếu chỉ. Sau này sư về Nhật và tích cực truyền bá nó một cách rộng rãi. Đạo Nguyên cũng mô tả đường lối thực hành rất chi tiết trong bộ Chính Pháp Nhãn Tạng (ja: Shobo Genzo) và Tọa Thiền Dụng Tâm Ký.

Pháp tham công án cũng được coi trọng và ứng dụng vào tu tập trong tông Tào Động Nhật Bản bắt đầu thời của Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới và Oánh Sơn Thiện Cẩn trở. Cho tới thời cận đại, hình thức "độc tham" ౼ tức là một đệ tử vào thất gặp riêng thầy để trình kiến giải tu hành, vấn đáp Phật Pháp vẫn được duy trì, trong khi tại tông Lâm Tế Nhật hình thức này đã bị phai mờ từ sau thời Minh Trị. Ngoài ra, trong các buổi thời khóa hàng ngày trong các tự viện Tào Động Nhật Bản cũng có tụng kinh và trì chú.

Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tại miền Bắc[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa Hòe Nhai.

Vào thế kỷ thứ 17, Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (zh: 通覺水月) sang Trung Quốc tham học với Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo(zh: 一 句 知 教) thuộc đời thứ 30 tông Tào Động ở Nhân Vương Hộ Quốc Thiền Tự, núi Phụng Hoàng, Hồ Châu và ngộ đạo. Sau khi đắc pháp, sư bèn trở về Việt Nam truyền bá Phật pháp. Sư từng giáo hóa khắp Miền Bắc khiến giáo pháp được phát triển rực rỡ một thời. Sư được các môn đệ tôn xưng là Sơ tổ của tông Tào Động tại việt nam. Sau khi sư viên tịch, pháp mạch được đệ tử là Thiền sư Chân Dung Tông Diễn kế thừa. Thiền sư Tông Diễn đã kế thừa và phát huy tông Tào Động một cách tốt đẹp. Sư nổi danh trong lịch sử với kỳ tích giúp phật giáo bấy giờ thoát nạn bị diệt vong khi vua Lê Hi Tông ra lệnh phá bỏ chùa chiền, đuổi hết tăng ni về núi ở. Sư đã khuyên vua, giúp vua sám hối sai lầm và bãi bỏ lệnh cấm của mình. Thiền sư Tông Diễn được vua kính trọng phong hiệu là Đại Tuệ Quốc sư, Nhục Thân Bồ Tát Đại Thừa và mời giảng pháp trong cung.

Hòa thượng Thích Đức Nhuận - Đệ nhất pháp chủ GHPGVN - Đời thứ 47 tông Tào Động.

Kế thừa truyền thống tu hành của Thiền Tông, các Thiền sư thiền phái này ban đầu cũng chú trọng hướng dẫn người học tham Thiền, tọa Thiền để minh tâm kiến tính, liễu thoát sinh tử. Điển hình như Thiền sư Thanh Đàm Minh Chính đã khái quát tư tưởng Thiền qua các tác phẩm là Bát Nhã Trực chỉĐề Cương Pháp Hoa. Còn như Thiền sư Đạo Nguyên Thanh Lãng (Khoan Dực Phổ Chiếu) trong bài pháp của mình thì có xu hướng hòa nhập giữa Thiền tông và Tịnh độ, sư vừa khuyên người tu học Thiền vừa khuyên niệm Phật để cầu sinh Tịnh Độ.

Các đời truyền thừa của Tông Tào Động đều sản sinh ra những vị Thiền sư, đại sư xuất sắc trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nhiều vị được phong làm Quốc sư, Tăng Cương, Tăng Thống lãnh đạo Phật giáo. Thời cận đại, Hòa thượng Thiền gia Pháp chủ Thích Mật Ứng và Hòa thượng Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN Thích Đức Nhuận là những thế hệ của tông Tào Động Việt Nam đã làm rạng danh Phật giáo qua tư tưởng cứu nước cứu đời, lợi ích an dân, phật giáo nhập thế.

Tổ đình chính của tông Tào Động ở miền Bắc Việt Nam là chùa Nhẫm Dương ở Kinh Môn, Hải Dương (nơi Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt từng khai hóa và trụ trì) và chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc tự) ở Ba Đình, Hà Nội là nơi lưu dấu chân hoằng pháp của Thiền sư Chân Dung Tông Diễn.

Tại miền Trung[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền sư Thạch Liêm - Người truyền bá tông Tào Động vào đàng trong Việt Nam.

Vào cuối thế kỷ 17, sau nhiều lần được các chúa Nguyễn mời thỉnh sang Đại Việt hoằng pháp, đến năm 1694 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu thì Thiền sư Thạch Liêm Đại Sán mới sang Đại Việt. Thiền sư Thạch Liêm Đại Sán là cao tăng Thiền Tông thuộc phái Thọ Xương, tông Tào Động. Sư là đệ tử nối pháp của Thiền sư Giác Lãng Đạo Thịnh nổi tiếng trong giới Thiền Tông Trung Quốc. Sau khi sang Đại Việt, sư nỗ lực lan rộng tinh thần giới luật cho tăng sĩ Việt Nam thông qua đàn truyền giới; các chúa Nguyễn, hàng vương cung, quý tộc cũng tôn kính và theo sư quy y, thọ giới, học đạo. Đương thời, trong Phật giáo Việt Nam tồn tại nhiều tệ nạn, thấy những điều không tốt như thế, sư tích cực lên án và cố gắng để thanh tịnh hóa tăng đoàn, ngoài ra sư cũng giới thiệu và truyền bá pháp môn Thiền Thoại Đầu đến quần chúng. Tuy nhiên, sư chỉ giáo hóa một thời gian ngắn rồi trở về cố quốc, vì thế tông Tào Động trong miền nam không phát triển và không có ảnh hưởng gì lớn sau đó.

Kết luận[sửa | sửa mã nguồn]

Tông Tào Động và Tông Lâm Tế chỉ truyền vào Việt Nam hưng thịnh được hơn 100 năm rồi bắt đầu biến thái và suy tàn. Tâm ấn chỉ truyền được vài ba thế hệ đầu với những vị Thiền sư chân tu thật ngộ và sau đó bị thất truyền và chỉ còn là giả danh, không có thực tu. Nếu trước kia, trong truyền thống Thiền Tông, chỉ có người đã triệt ngộ Thiền mới được ấn khả và được nối pháp. Nhưng sau này, có những vị sư tu Thiền chưa ngộ hoặc không tu Thiền mà chỉ là xuất gia với một vị thầy thuộc tông phái cũng được nối pháp đời thứ mấy, rồi trong phổ hệ hoặc khi mất thì long vị ghi là: "Động thượng chính tông tứ thập... thế..." . Chính những điều này làm cho truyền thống thực tu thực ngộ và sự truyền thừa của Thiền Tông bị phá hoại ở Trung Quốc từ cuối thời nhà Minh và tệ nạn này cũng ảnh hưởng tới Việt Nam. Hầu như những vị tăng, ni nhận mình thuộc tông Tào Động ở Việt Nam ngày nay đa số đều tu theo các pháp môn như Tịnh Độ tông, Luật tông, Mật tông và họ hầu như không biết gì về lối tu của Thiền Tông.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Thiền sư Kodo Sawaki thực hành pháp môn Chỉ Quán Đả Tọa.

Khác với phong cách đánh hét táo bạo của tông Lâm Tế, thiền phong của tông Tào Động có phong thái nhẹ nhàng và chậm chạp hơn, thường lấy đối đáp để đưa đến chổ ngộ nhập, hoặc thầy gọi trò vào thất kín riêng truyền thụ tông chỉ. Người ta thường dùng câu "Lâm Tế tướng quân, Tào Động nông dân" để nói về đặc điểm của tông Lâm Tế và Tào Động. Còn trong Nhân Thiên Nhãn Mục thì dùng câu "Tào Động tế mật" để mô tả, ý nói Thiền phong vừa bí ẩn lại vi tế. Hoặc trong Pháp Nhãn Thiền sư Thập quy Tụng nói: "Tào Động là xướng họa làm dụng", tức là cơ phong một hỏi một đáp, miên mật qua lại không gián đoạn.

Trong quá trình truyền bá và phát triển tại Nhật Bản, tông này đã sinh ra thêm những đặc điểm, tính chất sau:

  • Tìm ra một cách sâu sắc rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính bình đẳng thanh tịnh như chư Phật và đều có thể đạt được bản tâm thanh tịnh ấy.
  • Nhờ công phu tọa Thiền quán chiếu ánh sáng trí tuệ của Phật tính sẽ được phát khởi.
  • Hành giả dung nhập Thiền lý và công phu là một.
  • Hành trì nghiêm mật là tôn chỉ được cụ thể hóa trong sinh hoạt hằng ngày.
  • Luôn giữ vững một lập trường phật pháp đúng đắn, không sa vào con đường tiêu cực, ti tiện.
  • Xả bỏ chấp ngã, ham cầu. Lấy ý chí cầu đạo giải thoát làm trọng.
  • Xa lánh không thân cận nơi quyền quý, giàu sang. Sống một cuộc đời chân thật chất phác.
  • Lấy tín tâm làm trọng, thực hành với thái độ vô sở cầu, vô sở đắc.
  • Tu với chứng ngộ là một, không hai không khác (Tu chứng nhất như). Sau khi đã ngộ vẫn tiếp tục tu hành (Hậu ngộ tu hành).
  • Bất cứ lúc nào cũng truyền pháp chính yếu của chư Phật. Giúp người thoát khỏi đau khổ, trầm luân.
  • Tọa Thiền với tâm tinh tấn, nỗ lực công phu. Ngồi Thiền mà không cần chủ đề, phương thức.
  • Hàng ngày thực hành công phu là chân thật báo ơn tổ Phật.

Thiền lý[sửa | sửa mã nguồn]

Tông chỉ của tông Tào Động đã được vị thủy tổ là Thiền sư Thạch Đầu Hi Thiên khái quát trong tác phẩm Tham Đồng Khế và qua tác phẩm Bảo Cảnh Tam Muội Ca mà Thiền sư Vân Nham truyền cho Thiền sư Động Sơn. Đến thời khai tổ Động Sơn đã hình thành thuyết Ngũ Vị Chính Thiên, Ngũ vị Hiển Quyết dùng để tiếp dẫn hậu học, nêu lên cơ phong của tông phái. Sau này, đệ tử là Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch đã sáng tạo thêm thuyết Ngũ vị Quân Thần để làm rõ thuyết Ngũ Vị của thầy. Trong những giáo lý kể trên, phổ biến nhất trong giới Phật Giáo và Thiền Tông vẫn là thuyết Động Sơn Ngũ Vị (Ngũ Vị Chính Thiên) của Thiền sư Động Sơn.

Đến đời Tống, Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác đề xướng "Thiền Mặc Chiếu", chủ trương ngồi Thiền lặng lẽ soi sáng tự tâm nhằm đạt đến chổ khế hợp với tự tính. Phương pháp này truyền qua Nhật Bản bởi Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền và vẫn còn phát triển cho tới ngày nay dưới tên gọi "Chỉ quán đả tọa" (ja. Shikantaza).

Tham Đồng Khế[sửa | sửa mã nguồn]

Bảo Cảnh Tam Muội Ca[sửa | sửa mã nguồn]

Động Sơn Ngũ Vị[sửa | sửa mã nguồn]

Xem: Động Sơn Ngũ Vị

Thiền Mặc Chiếu[sửa | sửa mã nguồn]

Xem: Thiền Mặc Chiếu

Truyền thừa[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

1/ Thiền sư Động Sơn Lương Giới (zh: 洞山良价, 807-869)

2/ Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch (zh: 曹山本寂, 840-901)

3/ Thiền sư Tào Sơn Huệ Hà
4/ Thiền sư Lộc Môn Xử Chân
3/ Thiền sư Việt Châu Kiều Phong

2/ Thiền sư Long Nha Cư Độn

2/ Thiền sư Khuôn Nhân Sơ Sơn (zh: 疎山匡仁, 837-909)

2/ Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng (zh: 雲居道膺, ?-902)

3/ Thiền sư Đồng An Đạo Phi (zh: 同安道丕)

4/ Thiền sư Đồng An Quán Chí (zh: 同安觀志)

5/ Thiền sư Lương Sơn Duyên Quán (zh: 梁山緣觀)

6/ Thiền sư Thái Dương Cảnh Huyền (zh: 大陽警玄, 943-1027)

7/ Thiền sư Đầu Tử Nghĩa Thanh (zh: 投子義青, 1032-1083)

8/ Thiền sư Phù Dung Đạo Khải (zh: 芙蓉道楷, 1043-1118)

9/ Thiền sư Đan Hà Tử Thuần (zh: 丹霞子淳, 1064-1117)

10/ Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác (zh: 宏智正覺, 1091-1157) -> Tổ sáng lập phái Hoằng Trí.
11/ Thiền sư Tự Đắc Huệ Huy (zh: 自得慧暉, 1097-1183)
12/ Thiền sư Minh Cực Huệ Tộ
13/ Thiền sư Đông Cốc Minh Quang
14/ Thiền sư Trực Ông Đức Cử
15/ Thiền sư Đông Minh Huệ Nhật -> Tổ sáng lập phái Đông Minh tại Nhật Bản.
15/ Thiền sư Vân Ngoại Vân Tụ
16/ Thiền sư Vô Ấn Đại Chứng
16/ Thiền sư Đông Lăng Vĩnh Dư -> Tổ sáng lập phái Đông Lăng tại Nhật Bản.
10/ Thiền sư Chân Yết Thanh Liễu (zh: 真歇清了, 1090-1151)
11/ Thiền sư Thiên Đồng Tông Giác (zh: 天童宗珏, 1091-1162)
12/ Thiền sư Tuyết Đậu Trí Giám (zh: 雪竇智鑑, 1105-1192)
13/ Thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (zh: 天童如淨, 1162-1228)
14/ Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (zh: 道元希玄, 1200-1253) -> Truyền Tào Động Tông sang Nhật Bản.

9/ Thiền sư Lộc Môn Tự Giác (zh: 鹿門自覺, ? - 1117) [3] (* Cũng có thuyết cho rằng Lộc Môn Tự Giác là đệ tử nối pháp của Thiên Đồng Như Tịnh. Tuy nhiên, theo niên sử, đệ tử của Lộc Môn là Phổ Chiếu tịch vào năm 1149 trước cả tổ sư của Như Tịnh là Chân Yết Thanh Liễu thì làm sao Lộc Môn có thể sống cùng thời với Như Tịnh và nối pháp Như Tịnh được? Do sự bất đồng giữa quan điểm Lộc Môn nối pháp Phù Dung Đạo Khải và quan điểm Lộc Môn nối pháp Thiên Đồng Như Tịnh này nên trong nội bộ tông Tào Động ở Trung Quốc có sự lộn xộn về pháp hệ. Phái Cổ Sơn của Vĩnh Giác Nguyên Hiền, hay các sách như Kế Đăng Lục của Vĩnh Giác Nguyên Hiền; Ngũ Đăng Hội Nguyên; Phật Tổ Đạo Ảnh của Hoà thượng Hư Vân,... ủng hộ quan điểm coi Lộc Môn là đệ tử của Như Tịnh. Phía phái của Giác Lãng Đạo Thịnh, của Vị Trung Tịnh Phù, của Phá Ám Tịnh Đăng,... hay sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy thì ủng hộ quan điểm coi Lộc Môn là đệ tử của Phù Dung. Ở Việt Nam, sách Thiền Uyển Kế Đăng Lục do Từ Sơn - Tổ của Thiền phái Tào Động miền Bắc Việt Nam biên soạn dựa trên bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên nên cũng nhìn nhận Lộc Môn là đệ tử của Như Tịnh).

10/ Thiền sư Phổ Chiếu Nhất Biện (zh: 普照一辯, 1081-1149)

11/ Thiền sư Đại Minh Tăng Bảo (zh: 靈巖僧寶, 1114-1171)

12/ Thiền sư Vương Sơn Tăng Thế (zh: 玉山師體, ?-?)

13/ Thiền sư Tuyết Nham Như Mãn (zh: 雪巖慧滿, ?-1206)

14/ Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú (zh: 萬松行秀, 1166-1246)

15/ Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ (zh: 雪庭福裕, 1203-1275)

16/ Thiền sư Linh Ẩn Văn Thái (zh: 靈隱文泰, ?-1289)

17/ Thiền sư Hoàn Nguyên Phúc Ngộ (zh: 還源福遇, 1245-1313)

18/ Thiền sư Thuần Chuyết Văn Tài (zh: 淳拙文才, 1273-1352)

19/ Thiền sư Tùng Đình Tử Nghiêm (zh: 松庭子嚴, 1323-1392)

20/ Thiền sư Ngưng Nhiên Liễu Cải (zh: 凝然了改, 1335-1421)

21/ Thiền sư Diện Tông Bản -> Truyền Tào Động tông sang Triều Tiên.

21/ Thiền sư Câu Không Khế Bân (zh: 俱空契斌, 1383-1452)

22/ Thiền sư Vô Phương Khả Tùng (zh: 無方可從, 1420-1483)

23/ Thiền sư Nguyệt Chu Văn Tải (zh: 月舟文載, 1452-1524)

24/ Thiền sư Đại Chương Tông Thư (zh: 宗鏡宗書 , 1500-1567)

25/ Thiền sư Uẩn Không Thường Trung (zh: 蘊空常忠, 1514-1588)

26/ Thiền sư Vô Minh Tuệ Kinh (zh: 無明慧經, 1548-1618) -> Tổ sáng lập Thọ Xương pháp phái.
27/ Thiền sư Bác Sơn Nguyên Lai (zh: 博山元來, 1575-1630) -> Tổ sáng lập hệ phái Bác Sơn (zh: 博山糸).
28/ Thiền sư Tuyết Quang Đạo Ngân (1585-1637)
28/ Thiền sư Tung Ngũ Đạo Mật (1588-1658)
29/ Thiền sư Nam Am Đại y (1617-1683)
30/ Thiền sư Tử Thành Truyền Toại (1632-1660)
30/ Thiền sư Nghĩa Vân Hưng Triệt (1635-?)
30/ Thiền sư Cổ Nham Hưng Hoàn
30/ Thiền sư Đồng Truyền Cầu Dục (1638-1685)
29/ Thiền sư Linh Thụy Hoằng Đàm (1602-1671)
29/ Thiền sư Sơn Dữu Hoằng Năng
29/ Thiền sư Linh Diễm Hoằng Chúc (1610-1683)
29/ Thiền sư Phá Nham Hoằng Kế (1605-1688)
30/ Thiền sư Từ Hiền Hưng Kỳ
28/ Thiền sư Không Ẩn Tông Bảo (1600-1661)
27/ Thiền sư Hối Đài Nguyên Cảnh (1577-1630)
28/ Thiền sư Giác Lãng Đạo Thịnh
29/ Thiền sư Khoát Đường Đại Văn
30/ Thiền sư Tâm Việt Hưng Thù -> Truyền Tào Động Tông sang Nhật.
29/ Thiền sư Trúc Am Đại Thành
27/ Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền (zh: 鼓山元賢, 1578-1657) -> Tổ sáng lập hệ phái Cổ Sơn (zh: 鼓山糸).
28/ Thiền sư Duy Tĩnh Đạo An (1617- 1688)
28/ Thiền sư Vi Lâm Đạo Bái
29/ Thiền sư Hằng Đào Đại Tâm (1652- 1728)
30/ Thiền sư Biến Chiếu Hưng Long
31/ Thiền sư Thanh Thuần Pháp Hậu
32/ Thiền sư Đông Sơn Giới Sơ
33/ Thiền sư Đạo Nguyên Nhất Tín
34/ Thiền sư Liễu Đường Đỉnh Triệt

25/ Thiền sư Huyễn Hữu Thường Thuận (zh: 幻休常潤, ?-1585)

26/ Thiền sư Từ Chu Phương Niệm (zh: 慈舟方念, ?-1594)

27/ Thiền sư Trạm Nhiên Viên Trừng (zh: 雲門圓澄, 1561-1626) -> Tổ sáng lập phái Vân Môn[4] (Tào Động Tông).

28/ Thiền sư Thạch Vũ Minh Phương (1593-1648)

29/ Thiền sư Thiên Ngu Tịnh Bảo (1609-1675)
29/ Thiền sư Viễn Môn Tịnh Trụ (1601-1654)
29/ Thiền sư Vị Trung Tịnh Phù

28/ Thiền sư Tam Nghi Minh Vu (1599-1665)

29/ Thiền sư Đa Phúc Tịnh Khải (?-1674)
29/ Thiền sư Tam Tật Tịnh Phủ (?-1660)

28/ Thiền sư Nhĩ Mật Minh Phục (1591-1642)

28/ Thiền sư Thụy Bạch Minh Tuyết (zh: 瑞白明雪, 1584-1641)

29/ Thiền sư Phan Quang Tịnh Xán (1600-1658)

29/ Thiền sư Cửu Mặc Đại Âm (1593- 1642)

29/ Thiền sư Cô Nhai Tịnh Thông (1591- 1647)

29/ Thiền sư Nguyên Khiết Tịnh Oánh (1612- 1672)

29/ Thiền sư Vân Tông Tịnh Nột (1610- 1673)

29/ Thiền sư Ban Nhã Tịnh Lữ (1607-1669)

29/ Thiền sư Phá Ám Tịnh Đăng

30/ Thiền sư Cổ Tiều Trí Tiên -> Tổ sáng lập hệ phái Tiêu Sơn.
47/ Thiền sư Đông Sơ Đăng Lãng (zh: 東初鐙朗 Dongchu Denglang, 1907-1977)
48/ Thiền sư Huệ Không Thánh Nghiêm (zh: 慧空聖嚴 Huikong Shengyen, 1931-2009)

29/ Thiền sư Tử Mai Tịnh Chu (?-?)

30/ Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo (zh: 一句智教)

Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Miền Bắc

31/ Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (1637-1704) [5] - đệ tử nối pháp của Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo.

32/ Thiền sư Chân Dung Tông Diễn (1640 - 1711)

33/ Thiền sư Từ Sơn Hạnh Nhất (1681-1737)

34/ Thiền sư Tính Chúc Đạo Chu (1698- 1775)

35/ Thiền sư Hải Điện Mật Đa

36/ Thiền sư Khoan Dục Phổ Chiếu

37/ Thiền sư Thanh Đàm Minh Chính

Miền Trung

29/ Thiền sư Thạch Liêm Đại Sán (1633-1704) - đệ tử nối pháp của Thiền sư Giác Lãng Đạo Thịnh.

Miền Nam

47/ Thiền sư Giác Khai Duy Lực (1923-2000), còn gọi là Thích Duy Lực, thuộc hệ phái Cổ Sơn - Thọ Xương pháp phái.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tịch Viên (zh: 寂円, 1207-1299) là Thiền sư gốc Trung Quốc, bạn đồng tham học của Thiền sư Đạo Nguyên dưới Thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh. Sau sư sang Nhật Bản giúp Đạo Nguyên hoằng pháp. Sư được đệ tử của Đạo Nguyên là Cô Vân Hoài Trang chính thức ấn khả và truyền pháp.
  2. ^ Đệ tử nối pháp của Thiền sư Tịch Viên
  3. ^ Trong một số sách có nói đến về pháp hệ truyền thừa của Tông Tào Động ở Trung Quốc như Ngũ Đăng Hội Nguyên, Phật Tổ Đạo Ảnh hoặc Kế Đăng Lục của Việt Nam đều ghi Lộc Môn Tự Giác là pháp tôn 5 đời của Đan Hà Tử Thuần, nối pháp Thiên Đồng Như Tịnh. Nhưng Lộc Môn Tự Giác sống trước thời Thiên Đồng Như Tịnh hơn 100 năm thì sao có thể là đệ tử Như Tịnh được?, điều đó có thể khảo chứng qua niên sử của các thế hệ sau Lộc Môn như Phổ Chiếu Nhất Biện, Đại Minh Tăng Bảo, Vạn Tùng Hành Tú. Hiện nay có rất nhiều chùa ở tại Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam vẫn còn nhầm lẫn về thế hệ tông Tào Động do không khảo cứu rõ ràng về lịch sử. Nhìn theo logic lịch sử thì quan điểm coi Lộc Môn là đệ tử nối pháp của Phù Dung Đạo Giai sẽ phù hợp so với quan điểm cho rằng Lộc Môn là đệ tử của Như Tịnh trên.
  4. ^ Không nên nhầm lẫn với Vân Môn tông do Thiền sư Vân Môn Văn Yến sáng lập.
  5. ^ Những vị không có tư cách Thiền sư sẽ không được ghi vào đây (Phải là người tu theo tông chỉ, phương pháp đốn ngộ của Thiền Tông; Đã minh tâm kiến tính, triệt ngộ; Được thầy đã kiến tính ấn chứng và truyền pháp (có thể bỏ qua).

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
  • Lịch sử Thiền Tông Trung Quốc, Thư viện Hoa Sen, Nguyễn Nam Trân biên dịch, 2011.
  • Động Sơn Ngữ Lục, Thư viện Hoa Sen, Đạo Tâm biên dịch.
  • Thích Khoan Dực. Tào Động Nam Truyền Tổ sư Ngữ Lục, Thích Tiến Đạt biên dịch, 2015.
  • Kế Đăng Lục. Thích Thiện Phước dịch, 2015.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán