Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Thái Tông”
Dòng 232: | Dòng 232: | ||
# Tĩnh Quốc Đại vương [[Trần Quốc Khang]] [靖國大王陳國康],<ref name=ThaiTong/> thực tế là con của Khâm Minh đại vương [[Trần Liễu]] và [[Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu|Hiển Từ Hoàng hậu]]. |
# Tĩnh Quốc Đại vương [[Trần Quốc Khang]] [靖國大王陳國康],<ref name=ThaiTong/> thực tế là con của Khâm Minh đại vương [[Trần Liễu]] và [[Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu|Hiển Từ Hoàng hậu]]. |
||
# Hoàng thái tử [[Trần Hoảng]] [陳晃], tức '''Thánh Tông Tuyên Hiếu Hoàng đế''' (聖宗宣孝皇帝), mẹ là [[Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu|Hiển Từ Hoàng hậu]]. |
# Hoàng thái tử [[Trần Hoảng]] [陳晃], tức '''Thánh Tông Tuyên Hiếu Hoàng đế''' (聖宗宣孝皇帝), mẹ là [[Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu|Hiển Từ Hoàng hậu]]. |
||
# Chiêu Minh Đại vương [[Trần Quang Khải]] |
# Chiêu Minh Đại vương [[Trần Quang Khải]] [昭明大王陳光啟], mẹ là [[Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu|Hiển Từ Hoàng hậu]]. |
||
# Bình Nguyên Vương [[Trần Nhật Vĩnh]] [平原王陳日永]. |
# Bình Nguyên Vương [[Trần Nhật Vĩnh]] [平原王陳日永]. |
||
# Vũ Uy Vương [[Trần Duy]] [武威王陈維]. |
# Vũ Uy Vương [[Trần Duy]] [武威王陈維]. |
Phiên bản lúc 07:42, ngày 31 tháng 7 năm 2015
Trần Thái Tông 陳太宗 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Việt Nam | |||||||||||||
Hoàng đế nhà Trần | |||||||||||||
Trị vì | 1225 - 1258 | ||||||||||||
Nhiếp chính | Khai Vận Chí Hiếu Thái thượng hoàng đế Trung Vũ Đại vương | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Sáng lập triều đại | ||||||||||||
Kế nhiệm | Trần Thánh Tông | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 16 tháng 6, 1218 hương Tức Mạc, Thiên Trường | ||||||||||||
Mất | 1 tháng 4, 1277 Vạn Thọ điện, Thăng Long | (58 tuổi)||||||||||||
Thê thiếp | Chiêu Thánh Hoàng hậu Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu | ||||||||||||
| |||||||||||||
Triều đại | Nhà Trần | ||||||||||||
Thân phụ | Trần Thái Tổ | ||||||||||||
Thân mẫu | Thuận Từ hoàng hậu | ||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Trần Thái Tông (chữ Hán: 陳太宗; 16 tháng 6, 1218 – 1 tháng 4, 1277), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 - 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm.
Sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, Thái Tông hoàng đế cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Thái Tông khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ. Bằng sự sắp xếp của mình, cuối cùng Trần Thủ Độ đưa được Thái Tông lên Hoàng vị thông qua việc sắp đặt hôn nhân giữa Thái Tông và Chiêu Hoàng. Sự kiện đó xảy ra vào năm 1225, chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm.
Thái Tông hoàng đế khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Buổi đầu do Thái sư Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ chấp chính, một tay sắp đặt giúp Thái Tông dẹp vị quân phiệt thế lực là Hoài Đạo vương Nguyễn Nộn, dẹp trừ tôn thất nhà Lý, các loạn đảng nổi dậy,...giúp Đại Việt nhà Trần đặt nền móng vững chắc.
Năm 1237, Trần Thủ Độ ép Thái Tông phế Lý hoàng hậu (tức Chiêu Hoàng) vì không sinh được người kế vị, lập chị của Hoàng hậu là Thuận Thiên công chúa lên thay. Công chúa vốn là vợ của anh trưởng Thái Tông là Hoài vương Trần Liễu, khi ấy đang có thai với Hoài vương 3 tháng. Việc này khiến Hoài vương làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, cải làm An Sinh vương (安生王) và tập ấm ở vùng đất mà bây giờ là tỉnh Quảng Ninh.
Khoảng năm 1257 - 1258, đội quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai lãnh đạo vào cướp Đại Việt, với ý định mở đường cho Đế quốc Mông Cổ ở vùng phía Nam. Thái Tông hoàng đế cùng Thái sư Trần Thủ Độ đã chỉ huy quân đội Đại Việt, cùng hiệp sức với các thân vương, đánh tan tác quân đội Mông Cổ tại trận Đông Bộ Đầu. Công lao sáng ngời sử sách, Thái Tông hoàng đế được đánh giá là vị Minh quân của nhà Trần.
Thái Tông hoàng đế ngoài thông tuệ chính sự, cũng là một người sùng Phật giáo, thơ văn, với những tác phẩm về thiền như Thiền tông chỉ nam ca, Chú giải Kinh Kim cương Tam muội, Lục thì sám hối khoa nghi. Tất cả đều được ghi lại trong sách Khóa hư lục, một tác phẩm Phật học quan trọng do Trần Thái Tông viết vào thời gian ông làm Thái thượng hoàng. Thơ của ông không nhiều, chỉ gói gọn trong Trần Thái Tông thi tập, lời thơ được đánh giá thanh nhã, dùng từ trau chuốt, nhưng nay đã thất lạc.
Thân thế
Thái Tông hoàng đế nguyên tên thật là Trần Bồ (陳蒲), sau đổi thành Trần Cảnh (陳煚), sinh vào ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (tức 10 tháng 7 năm 1218). Con trai thứ 2 của Thái Tổ Chí Hiếu hoàng đế, mẹ là Thuận Từ hoàng hậu Lê thị. Ông có một người anh tức Khâm Minh đại vương Trần Liễu, em trai Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu, em gái là Thụy Bà công chúa (瑞婆公主) và Thiên Thành công chúa.
Tổ phụ là Trần Kinh (陳京), khi dời từ An Sinh (Quảng Ninh) về Tức Mạc (Nam Định) lấy vợ sinh ra Trần Hấp (陳翕). Hấp dời mộ cha sang sinh sống tại Long Hưng (Thái Bình) sinh ra Trần Lý (陳李) và Trần Hoằng Nghi (陳泓宜).[1] Trần Lý sinh ra Thái Tổ hoàng đế Trần Thừa, Kiến Quốc đại vương Trần Tự Khánh và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung. Trần Hoằng Nghi sinh được ba người con trai: Trần An Quốc (陳安國), Trần An Bang (陳安幫) và Trung Vũ đại vương Trần Thủ Độ.[2]
Ông được sử cũ mô tả ngoại hình: "mũi cao, mặt rộng, giống như Hán Cao Tổ". Khi mới 8 tuổi, ông làm Chi hậu chính chi ứng cục triều Lý, khi ấy là triều đại của Lý Chiêu Hoàng.
Lên ngôi
Khi ông sinh ra, họ Trần đã nắm quyền thao túng triều chính nhà Lý. Lúc đó chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, cai quản toàn bộ binh lực triều đình. Trần Cảnh do là họ hàng nên được vào hầu trong cung. Lý Chiêu Hoàng, nữ hoàng nhỏ tuổi của nhà Lý thấy ông thì rất thích.[3]
“ |
"...Một hôm, Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?". Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: "Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết". |
” |
— Đại Việt Sử ký Toàn thư |
Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (tức 22 tháng 11 năm 1225), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày mồng 1 tháng Chạp năm ấy (tức 31 tháng 12 năm 1225), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông. Chiêu Hoàng được Thái Tông phong làm Hoàng hậu.
Trần Cảnh tức vị Hoàng đế, trở thành người khai lập ra nhà Trần, tự xưng là Thiện Hoàng (善皇), đổi niên hiệu làm Kiến Trung (建中). Ông tôn cha Trần Thừa làm Thái thượng hoàng, chú là Trần Thủ Độ làm Thái sư, gọi là Quốc thượng phụ (国尚父), nắm trong tay quyền hành lớn.
Cai trị
Thái Tông hoàng đế sau khi lên ngôi, liền ra lệnh đại xá cho thiên hạ. Bấy giờ Thủ Độ phải chống đỡ với phiến quân ở bên ngoài, lại tự nghĩ rằng mình vốn đã không biết chữ, lại cũng không quen việc trị quốc, nên từ chối rằng:
- "Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thượng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn cũng chưa dẹp yên. Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi, mới uỷ thác cho nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chỗ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang".
Các quan đều cho là phải, mới mời cha vua là Trần Thừa ra làm nhiếp chính.[4]
Sang tháng Giêng năm sau, Thái Tông phong cho Chiêu Hoàng làm Hoàng hậu, lại cho người đi tuyển con gái đẹp, con nhà lương thiện vào làm cung nhân.[5] Phong cho Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư. Rồi phế thái thượng hoàng nhà Lý là Lý Huệ Tông, an tọa ở chùa Chân Giáo.
Thái sư nhiếp chính
Trần Thủ Độ, sau khi Thái thượng hoàng Trần Thừa mất, trở thành người nhiếp chính cho Thái Tông đến khi ông trưởng thành. Thủ Độ được chép là tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Tuy vậy, Thái sư cho đến khi Thái Tông trưởng thành, tự mình cai quản đất nước đều không tâm niệm cướp ngôi, mà trở thành cánh tay đắc lực nhất của Thái Tông.
Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học nhưng mưu lược hơn người. Trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn. Về mọi mặt, thời Thái Tông củng cố các vấn đề chính nhất là:
- Mở khoa thi Tam giáo (Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo) sau nhiều năm bị gián đoạn do loạn lạc cuối thời Lý. Định đặt luật pháp, soạn ra bộ Quốc triều hình luật gồm 20 quyển để định tội danh trong nước. Đáng tiếc bộ sách này đã bị thất truyền.
- Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương thay phiên nhau canh giữ. Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ. Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và tây. Bên tả là cung Thánh Từ (nơi Thái thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi Hoàng đế ở). Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.
- Thủy lợi cũng được coi trọng. Năm 1231, sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào[6] từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Việc xong, thăng Bang Cốc làm Phụ Quốc thượng hầu.
- Bắt đầu định luật hành chính. Chia đất nước làm 12 lộ. Đặt các chức quan cai trị. Làm đơn sổ hộ khẩu, con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu ruộng thì nộp 1 quan tiền, có 3, 3 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.
- Bắt đầu thông thương nơi biên giới, để có thể giao thương với nhà Tống ở Giang Nam. Khi Nguyên Thái Tông mất, thì cửa ải thường không thông. Nếu có sứ mệnh thì chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi theo, còn sản vật tiến cống có bao nhiêu thì gói bọc đưa đến địa đầu biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần đến kinh, chỉ dâng biểu tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến bây giờ, sai tướng chống giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước Tống.
Mỗi khi có dịp hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Cho nên quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh như thời nhà Lý. Trong ĐVSKTT có ghi chép:..Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, các 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm.
Năm 1252, Thái Tông đổi niên hiệu là Nguyên Phong (元豐). Ông khi đổi xong, lập tức dẫn binh đi đánh Chiêm Thành. Khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá ở vùng Nghệ An, dân chết vô số, nay vua lên ngôi mà không sang thông hiếu nên rất giận, dẫn quân đi đánh và bắt được nhiều thần thiếp, cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với Chiêm Thành lại được thiết lập.
Phế lập Hoàng hậu
Lý hoàng hậu có thai sinh ra một Hoàng tử vào năm 1233, đặt tên là Trần Trịnh (陳鄭), nhưng không may lại chết yểu ngay khi sinh. Thái sư Trần Thủ Độ bèn bàn với Quốc mẫu, lập một người khác làm Hoàng hậu để có con nối dõi.
Năm 1237, ra chỉ phế Lý hoàng hậu xuống làm Chiêu Thánh công chúa (昭聖公主), và lấy Thuận Thiên công chúa, phu nhân của anh trai ông là Hoài vương Trần Liễu, đương có thai 3 tháng, lập làm Kế Hoàng hậu.
Vì thế, Hoài vương đem quân bản bộ ra sông Cái làm loạn. Điều này làm cho Thái Tông khó xử và ông đã bỏ kinh đô lên núi Yên Tử, gặp sư Phù Vân là bạn cũ của Thái Tông. Thái sư Trần Thủ Độ phải đích thân lên núi mời, cộng với lời khuyên của sư Phù Vân, ông mới quay lại kinh đô. Hai tuần sau, Hoài vương Liễu thế cô, không đối địch được, mới đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ thuyền ngự của Thái Tông mà xin hàng. Thái sư định chém Hoài vương, nhưng Thái Tông đã lấy thân mình che đỡ cho Hoài vương nên Thái sư không làm gì được. Sau đó lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay thuộc Quảng Ninh) để ban cho Liễu làm ấp thang mộc. Vì tên đất được phong, mà Liễu có tên hiệu là An Sinh vương (安生王).
Tuy nhiên, An Sinh vương vẫn ôm hận trong lòng và trước khi mất (1251) có dặn lại con trai là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn phải tìm cách đoạt lấy ngai vàng.[7] Hưng Đạo vương đã nhận lời cha, nhưng sau này ông đã không thực hiện lời trối trăn này.
Vi hành qua Tống
Lúc này, Thái Tông đã trưởng thành, tự mình có thể đảm đương việc đất nước. Năm 1241, ông thân hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm. Vào địa phận nước Tống, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang.
Người châu ấy không biết là ai, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là Hoàng đế Đại Việt, mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, ông sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về, rồi ung dung đi tiếp đường cũ mà không sợ hãi lúng túng.
Triệu tập Nguyễn Hiền
Nguyễn Hiền là trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong nền khoa bảng Việt Nam. Ông mồ côi cha từ nhỏ, bà mẹ đã cho ông theo học sư cụ chùa Hà Dương ở làng Dương A. Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh là "thần đồng", đã đỗ trạng nguyên tại khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247) thời vua Trần Thái Tông. Nhưng Thái Tông cho là Hiền còn quá nhỏ, cần về quê để học thêm.
Tương truyền sứ thần Trung Hoa đem một bài thơ ngụ ngôn sang thử nhân tài nước Nam. Bài thơ như sau:
“ | Lưỡng nhật bình đầu nhật, Tứ sơn điên đảo sơn, |
” |
Dịch là:
“ | Hai mặt trời bằng đầu, Bốn trái núi điên đảo, |
” |
Quan gia và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với Thái Tông xin mời trạng nguyên Nguyễn Hiền đến để hỏi nghĩa. Các quan đến quê mời gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn, Nguyễn Hiền nói với các quan:
- "Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa.
Quan về tâu lại với vua, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, Nguyễn Hiền mới chịu về kinh.
Về đến kinh đô, Thái Tông đưa bài thơ của sứ Tàu ra, trạng Hiền liền giải thích như sau:
- Câu thứ nhất nghĩa là hai chữ "nhật" đều bằng đầu nhau. Câu thứ hai "Tứ sơn điên đảo sơn" là 4 chữ "sơn", ngược xuôi cũng đều là chữ "sơn" cả. Câu thứ ba "Lưỡng vương tranh nhất quốc", nghĩa là chữ "vương" hai vua tranh một nước. Câu thứ tư "Tứ khẩu tung hoành gian", có nghĩa là 4 chữ "khẩu" ngang dọc cũng đều thành chữ "khẩu" cả. Tóm lại tất cả 4 câu thơ chỉ nói đến chữ "Điền".
Nguyễn Hiền được giữ vào triều. Vua tuyển ông vào học tiếp Tam giáo chủ khoa, tức đạo Lão, đạo Phật, đạo Khổng và bổ nhiệm làm quan đến chức Thượng thư bộ Công.
Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý (1255), trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời, thọ 21 tuổi. Thái Tông thương tiếc truy phong ông là Đại vương thành hoàng và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội - huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay.
Chiến tranh với Mông Cổ
Ở phương bắc, Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống.
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối lại còn cho bắt giam các nhà ngoại giao Mông Cổ.
Chiến tranh nổ ra vào năm 1258, khi Ngột Lương Hợp Thai cùng con trai là Aju đem 3 vạn quân Mông Cổ và 1,5 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt. Quân Mông Cổ mau chóng giành được thắng lợi, chiếm được kinh đô Thăng Long, nhưng rồi cũng mau chóng bị quân Đại Việt đánh bật, đặc biệt tại trận Đông Bộ Đầu. Cuộc chiến này chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, cuối tháng 1 năm 1258.
Truyền ngôi và qua đời
Năm 1258, ngày 24 tháng 2, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, lui về làm Thái thượng hoàng, được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế (顯堯聖壽太上皇帝). Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đây thành truyền thống, thứ nhất tránh việc tranh giành ngôi báu giữa các con do đã sớm được định đoạt, thứ nữa là rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt.
Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (tức 5 tháng 5 năm 1277), Thái thượng hoàng băng hà tại Vạn Thọ điện, thọ 58 tuổi, táng tại Chiêu Lăng thuộc phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).
Ông được dâng miếu hiệu là Thái Tông (太宗), thụy hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiển Hòa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Vũ Nguyên Hiếu hoàng đế (統天御極隆功茂德顯和佑順神文聖武元孝皇帝).
Về việc qua đời của Thái Tông hoàng đế, sử sách ghi lại rằng:
“ | Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh.
Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm dữ. Hôm sau Mặc lão tâu: "Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có chữ "nguyệt" , trên hòm có một cái kim, một chiếc lược". Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức là quan tài, chữ " nguyệt" (tháng) ở bốn bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi". Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu: "Mau đến ngày mồng 1 thay phiên". Thượng hoàng lại đoán: "Thế là ngày mồng 1 ta chết". Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu: "Tháng 4 sang năm ta tất chết". Đến nay quả như vậy. |
” |
— Đại việt sử ký toàn thư |
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
- Điềm lành hay tai họa, chỉ có người thành tâm mới biết trước được. Vì thế, Đại truyện trong kinh dịch có nói: "Hình dung sự vật thì biết được vật thực, chiêm đoán sự vật thì mới biết được tương lai". Nhưng tất là phải sau khi đã suy xét trong lòng, nghiền ngẫm trong óc. Thái Tông biết được việc tương lai là chiêm đoán sự vật đấy. Nhưng nếu không phải là người lý sáng, lòng thành, mà cứ thấy việc là phỏng đoán mò để rồi khẳng định, thì chưa bao giờ không chuốc lấy tai họa về sau. Đó là chỗ khác nhau giữa cái học sấm ký thuật số với cái học thánh hiền chăng?.
Tác phẩm
Tác phẩm của Trần Thái Tông có:
- Khóa hư lục (Tập bài giảng về lẽ hư vô).
- Thiền tông chỉ nam ca (Bài ca về yếu chỉ của thiền tông), nhưng nay chỉ còn lại bài tựa.
- Lục thì sám hối khoa nghi (Nghi thức sám hối vào sáu thời khắc trong một ngày).
- Trần Thái Tông ngự tập (1 quyển), được Phan Huy Chú khen là "lời thơ thanh nhã, đáng đọc",[8] nhưng nay đã không còn, chỉ còn lại 2 bài chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục.
Ngoài ra ông còn đề tựa kinh Kim Cương, viết một số bài bình luận về việc tọa thiền, việc niệm Phật và một bài răn về tửu sắc....[9]
Theo GS. Trần Văn Giáp thì ông còn viết:
- Quốc triều thông chế.
- Kiến trung thường lễ.[10]
Tôn vinh
Về sau, Dụ Tông Quang Hiếu hoàng đế đã làm bài thơ, so sánh công đức của Trần Thái Tông so sánh với Đường Thái Tông:
|
|
Trần Thái Tông hiện được đúc tượng và thờ phụng ở các đền Trần (Thái Bình), đền Trần (Nam Định) và đền Thái Vi ở Ninh Bình. Ngày nay ở nhiều thành phố Việt Nam có tên đường Trần Thái Tông như ở Hà Nội có phố Trần Thái Tông ở quận Cầu Giấy. Các thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đà Lạt, thành phố Thái Bình, thành phố Nam Định, thành phố Hạ Long... đều có đường phố mang tên ông.
Gia quyến
- Ông tổ: Trần Kinh (陳京), truy tôn Mục Tổ Ý hoàng đế (穆祖懿皇帝).
- Ông cụ: Trần Hấp (陳翕), truy tôn Ninh Tổ Cung hoàng đế (寧祖恭皇帝).
- Ông nội: Trần Lý, truy tôn Nguyên Tổ Chiêu hoàng đế (元祖昭皇帝).
- Cha: Thái Tổ Chí Hiếu hoàng đế Trần Thừa.
- Mẹ: Thuận Từ Quốc Thánh Hoàng hậu Lê thị (順慈國聖皇后黎氏; ? - 1230).
- Anh chị em:
- Khâm Minh Đại vương Trần Liễu [欽明大王陳柳], anh trai.
- Khâm Thiên Đại vương Trần Nhật Hiệu [欽天大王陳日晈], em trai.
- Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt [懷德王陳婆列], em trai.
- Thụy Bà Công chúa [瑞婆公主], chị gái, mẹ nuôi của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
- Thiên Thành Công chúa [天城公主], em gái (?).
- Hậu phi:
- Phế hoàng hậu Lý thị (廢皇后李氏; 1218 - 1278), con gái Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu. Năm 1226, tháng giêng, được sách lập Hoàng hậu. Năm 1237, bị giáng làm Chiêu Thánh Công chúa (昭聖公主). Sinh ra Hoàng thái tử Trần Trịnh.
- Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị (顯慈順天皇后李氏; 1216 - 1248), chị gái của Phế hoàng hậu, nguyên là Thuận Thiên công chúa (順天公主), vợ Khâm Minh Đại vương Trần Liễu. Năm 1237, được lập làm Hoàng hậu của Thái Tông. Sinh hạ Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang, Trần Thánh Tông và Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải.
- Lệ Trinh Nguyên phi Lê thị (丽贞元妃黎氏; 1219 - 1290)[13]; thuộc gia tộc Thuận Từ Hoàng hậu; người xã Mai Sơn (nay là huyện Ý Yên, Nam Định), không con. Năm 1255, bà xin Thái Tông cho dựng hành cung Lan Hoa tại làng Phù Hoa, hành đô Thiên Trường.
- Huệ Túc Phu nhân Hoàng thị (惠肅夫人黃氏), con gái Tống triều di thần Hoàng Bính.
- Thứ phi Lý thị (庶妃 李氏); mẹ sinh An Tư công chúa.
- Nhiều phi tần không rõ danh tính, Trần Ích Tắc (1254), Trần Nhật Duật (1255) đều sinh ra sau khi Hiển Từ Hoàng hậu qua đời (1248).
Hậu duệ
Sử sách không ghi chép về số Hoàng tử, Công chúa của Trần Thái Tông; một số được đề cập:
- Hoàng thái tử Trần Trịnh [皇太子陳鄭; chết yểu 1233],[14] mẹ là Chiêu Thánh Hoàng hậu.
- Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang [靖國大王陳國康],[14] thực tế là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu và Hiển Từ Hoàng hậu.
- Hoàng thái tử Trần Hoảng [陳晃], tức Thánh Tông Tuyên Hiếu Hoàng đế (聖宗宣孝皇帝), mẹ là Hiển Từ Hoàng hậu.
- Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải [昭明大王陳光啟], mẹ là Hiển Từ Hoàng hậu.
- Bình Nguyên Vương Trần Nhật Vĩnh [平原王陳日永].
- Vũ Uy Vương Trần Duy [武威王陈維].
- Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng [昭道王陈光昶], anh em cùng mẹ với Chiêu Quốc Vương và Chiêu Minh Vương.
- Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc [昭國王陳益稷].
- Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật [昭文王陳日燏].
- Minh Hiến Vương Trần Uất [明宪王陈蔚].[15].
- Thái Dương công chúa [太陽公主].
- Thiều Dương công chúa [韶陽公主; ? - 4/1277], húy là Thúy, lấy Thượng vị Văn Hưng hầu, mất ngay khi Trần Thái Tông qua đời.
- Thụy Bảo công chúa [瑞寶公主], chị em cùng mẹ với Thiều Dương Công chúa, lấy Uy Văn Vương Toại, sau lấy Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng.
- An Tư công chúa [安姿公主], lấy Trấn Nam Vương Thoát Hoan.
Xem thêm
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: Trần Thái Tông |
Tham khảo
Chú thích
- ^ Long Hưng, vùng đất phát nghiệp đế
- ^ “Gia phả họ Trần”.
- ^ Ngô Thì Sỹ 2009, tr. 66
- ^ Ngô Sĩ Liên 2009, tr. 158
- ^ Ngô Thì Sỹ 2009, tr. 69
- ^ chú là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là tỉnh Gia), tỉnh Thanh Hóa.
- ^ Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được
- ^ Trích trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần "Văn tịch chí".
- ^ Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Trần Cảnh" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004, tr. 1775-1776.
- ^ Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nxb Khoa học xã hội, 2003, tr. 845.
- ^ Niên hiệu của Đường Thái Tông là Trinh Quán (貞觀). Còn niên hiệu nổi tiếng của Trần Thái Tông là Nguyên Phong (元豐), ý của Dụ Tông hoàng đế là kỷ nguyên thời Trần Thái Tông thì nước Việt rực rỡ như nhà Đường thời kỳ Trinh Quán
- ^ Kiến Thành là Lý Kiến Thành, bị Đường Thái Tông giết hại trong Sự biến Huyền Vũ môn
- ^ Theo http://thanhpho.namdinh.gov.vn/front-end/index.asp?website_id=39&menu_id=2219&parent_menu_id=2219&article_id=16630&fuseaction=DISPLAY_SINGLE_ARTICLE&hide_menu=0
- ^ a b Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Quyển V, trang 7b
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Quyển VI, xem năm 1312