Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Táo tây”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 248: Dòng 248:
Một dạng dị ứng với táo thường thấy ở Bắc Âu, được gọi là hội chứng táo bạch dương và được tìm thấy ở những người cũng bị dị ứng với [[phấn hoa]] [[Chi Cáng lò|bạch dương]].<ref name=EU/> Phản ứng dị ứng được kích hoạt bởi một loại protein trong táo tương tự như phấn hoa bạch dương và những người bị ảnh hưởng bởi loại protein này cũng có thể phát triển dị ứng với các loại trái cây, hạt và rau khác. Các phản ứng dẫn đến [[hội chứng dị ứng miệng]] (OAS), thường liên quan đến ngứa, viêm miệng và viêm cổ họng,<ref name=EU/> nhưng trong một số trường hợp hiếm hoi cũng có thể bao gồm sốc [[phản vệ]] đe dọa tính mạng.<ref>Landau, Elizabeth, [http://articles.cnn.com/2009-04-08/health/oral.allergy.syndrome_1_allergy-shots-pollen-allergies-oral-allergy-syndrome?_s=PM:HEALTH Oral allergy syndrome may explain mysterious reactions] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20111215000907/http://articles.cnn.com/2009-04-08/health/oral.allergy.syndrome_1_allergy-shots-pollen-allergies-oral-allergy-syndrome?_s=PM%3AHEALTH |date=15 December 2011 }}, 8 tháng 4 năm 2009, ''CNN Health'', truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2011</ref> Phản ứng này chỉ xảy ra khi quả táo tây sống được tiêu thụ, còn trong quá trình nấu ăn thì chất gây dị ứng sẽ bị vô hiệu hóa. Sự đa dạng của táo, độ chín và điều kiện bảo quản có thể thay đổi lượng chất gây dị ứng có trong từng loại quả. Thời gian bảo quản lâu có thể làm tăng lượng protein gây ra hội chứng táo bạch dương.<ref name=EU>{{chú thích web |url=http://foodallergens.ifr.ac.uk/food.lasso?selected_food=2#summary |title=General Information – Apple |publisher=Informall |access-date=17 October 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120723201454/http://foodallergens.ifr.ac.uk/food.lasso?selected_food=2 |archive-date=23 July 2012}}</ref>
Một dạng dị ứng với táo thường thấy ở Bắc Âu, được gọi là hội chứng táo bạch dương và được tìm thấy ở những người cũng bị dị ứng với [[phấn hoa]] [[Chi Cáng lò|bạch dương]].<ref name=EU/> Phản ứng dị ứng được kích hoạt bởi một loại protein trong táo tương tự như phấn hoa bạch dương và những người bị ảnh hưởng bởi loại protein này cũng có thể phát triển dị ứng với các loại trái cây, hạt và rau khác. Các phản ứng dẫn đến [[hội chứng dị ứng miệng]] (OAS), thường liên quan đến ngứa, viêm miệng và viêm cổ họng,<ref name=EU/> nhưng trong một số trường hợp hiếm hoi cũng có thể bao gồm sốc [[phản vệ]] đe dọa tính mạng.<ref>Landau, Elizabeth, [http://articles.cnn.com/2009-04-08/health/oral.allergy.syndrome_1_allergy-shots-pollen-allergies-oral-allergy-syndrome?_s=PM:HEALTH Oral allergy syndrome may explain mysterious reactions] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20111215000907/http://articles.cnn.com/2009-04-08/health/oral.allergy.syndrome_1_allergy-shots-pollen-allergies-oral-allergy-syndrome?_s=PM%3AHEALTH |date=15 December 2011 }}, 8 tháng 4 năm 2009, ''CNN Health'', truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2011</ref> Phản ứng này chỉ xảy ra khi quả táo tây sống được tiêu thụ, còn trong quá trình nấu ăn thì chất gây dị ứng sẽ bị vô hiệu hóa. Sự đa dạng của táo, độ chín và điều kiện bảo quản có thể thay đổi lượng chất gây dị ứng có trong từng loại quả. Thời gian bảo quản lâu có thể làm tăng lượng protein gây ra hội chứng táo bạch dương.<ref name=EU>{{chú thích web |url=http://foodallergens.ifr.ac.uk/food.lasso?selected_food=2#summary |title=General Information – Apple |publisher=Informall |access-date=17 October 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120723201454/http://foodallergens.ifr.ac.uk/food.lasso?selected_food=2 |archive-date=23 July 2012}}</ref>


Ở các khu vực khác, chẳng hạn như Địa Trung Hải, một số cá nhân có phản ứng bất lợi do táo vì chúng tương tự như đào.<ref name=EU/> Dạng dị ứng táo này cũng bao gồm OAS, nhưng thường có các triệu chứng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như nôn mửa, đau bụng và nổi mề đay, đồng thời có thể đe dọa đến tính mạng. Những người bị dị ứng dạng này cũng có thể phát triển các phản ứng với các loại trái cây và hạt khác. Việc nấu chín không phá vỡ protein gây ra phản ứng đặc biệt này, vì vậy những người bị ảnh hưởng không thể ăn táo sống hoặc nấu chín. Trái cây quá chín được thu hoạch tươi có xu hướng có hàm lượng protein gây ra phản ứng này cao nhất.<ref name=EU/>
Ở các khu vực khác, chẳng hạn như Địa Trung Hải, một số cá nhân có phản ứng bất lợi do táo vì chúng tương tự như đào.<ref name=EU/> Dạng dị ứng táo này cũng bao gồm OAS, nhưng thường có các triệu chứng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như nôn mửa, đau bụng và [[Phong ngứa|nổi mề đay]], đồng thời có thể đe dọa đến tính mạng. Những người bị dị ứng dạng này cũng có thể phát triển các phản ứng với các loại trái cây và hạt khác. Việc nấu chín không phá vỡ protein gây ra phản ứng đặc biệt này, vì vậy những người bị ảnh hưởng không thể ăn táo sống hoặc nấu chín. Trái cây quá chín được thu hoạch tươi có xu hướng có hàm lượng protein gây ra phản ứng này cao nhất.<ref name=EU/>


Đến nay, các nỗ lực lai tạo vẫn chưa tạo ra một loại trái cây ít gây [[Không gây dị ứng|dị ứng]] phù hợp với một trong hai dạng dị ứng táo.<ref name=EU/>
Đến nay, các nỗ lực lai tạo vẫn chưa tạo ra một loại trái cây ít gây [[Không gây dị ứng|dị ứng]] phù hợp với một trong hai dạng dị ứng táo.<ref name=EU/>

===Độc tính của hạt===
Hạt táo chứa một lượng nhỏ [[amygdalin]], một hợp chất đường và [[cyanide]] được gọi là glycoside cyanogenic. Ăn một lượng nhỏ hạt táo không gây ra tác dụng phụ, nhưng tiêu thụ với liều lượng quá lớn có thể gây ra [[tác dụng bất lợi]]. Có thể mất vài giờ trước khi chất độc phát huy tác dụng, vì glycoside cyanogenic phải được [[thủy phân]] trước khi ion [[cyanide]] được giải phóng.<ref name="NelsonShih2007">{{chú thích sách |author1=Nelson, Lewis S. |author2=Shih, Richard D. |author3=Balick, Michael J. |title=Handbook of poisonous and injurious plants |url=https://books.google.com/books?id=-J-YxItyrHEC&pg=PA211 |access-date=13 April 2013 |year=2007 |publisher=Springer |isbn=978-0-387-33817-0 |pages=211–212 |archive-date=9 May 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130509140843/http://books.google.com/books?id=-J-YxItyrHEC&pg=PA211 |url-status=live }}</ref> Ngân hàng dữ liệu về các chất độc hại (Hazardous Substances Data Bank) của Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Library of Medicine) không ghi nhận trường hợp nào ngộ độc amygdalin do ăn hạt táo.<ref>{{chú thích web |url=https://toxnet.nlm.nih.gov/cgi-bin/sis/search/a?dbs+hsdb:@term+@DOCNO+3559 |title=Amygdalin |publisher=Toxnet, US Library of Medicine |access-date=20 April 2017 |url-status=live |archive-url=https://web.archive.org/web/20170421094516/https://toxnet.nlm.nih.gov/cgi-bin/sis/search/a?dbs+hsdb:@term+@DOCNO+3559 |archive-date=21 April 2017 }}</ref>


==Trong văn hóa==
==Trong văn hóa==

Phiên bản lúc 05:57, ngày 29 tháng 4 năm 2022

Táo tây
Giống táo 'Cripps Pink'
Hoa của táo tây
Phân loại khoa học edit
Giới: Plantae
nhánh: Tracheophyta
nhánh: Angiospermae
nhánh: Eudicots
nhánh: Rosids
Bộ: Rosales
Họ: Rosaceae
Chi: Malus
Loài:
M. domestica
Danh pháp hai phần
Malus domestica
Borkh., 1803
Các đồng nghĩa[1][2]
  • Malus communis Desf.
  • Malus pumila Mil.
  • M. frutescens Medik.
  • M. paradisiaca (L.) Medikus
  • M. sylvestris Mil.
  • Pyrus malus L.
  • Pyrus malus var. paradisiaca L.
  • Pyrus dioica Moench

Táo tây còn gọi là bôm (phiên âm từ tiếng Pháp: pomme) là một loại quả ăn được từ cây táo tây (Malus domestica). Táo tây được trồng trên khắp thế giới và là loài được trồng rộng rãi nhất trong chi Malus. Cây táo tây có nguồn gốc ở Trung Á, nơi tổ tiên của nó là loài táo dại Tân Cương hiện vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Chúng đã được trồng từ hàng ngàn năm qua ở châu Áchâu Âu và đã được thực dân châu Âu đưa đến Bắc Mỹ. Táo tây có ý nghĩa tôn giáothần thoại trong nhiều nền văn hóa, bao gồm Bắc Âu, Hy Lạp và Cơ đốc giáo Châu Âu.

Táo tây trồng từ hạt có xu hướng rất khác biệt so với cây bố mẹ của chúng, quả táo thường thiếu các đặc điểm như mong muốn. Về sau, chúng được nhân giống bằng cách chiết ghép vô tính vào gốc ghép. Cây táo trồng không có gốc ghép thường to hơn và chậm ra quả hơn. Cây có gốc ghép là để kiểm soát tốc độ phát triển và kích thước của cây táo, cho phép thu hoạch dễ dàng hơn.

Hiện có hơn 7.500 giống táo. Các giống khác nhau được tạo ra vì sở thích về mùi vị và mục đích sử dụng khác nhau, bao gồm nấu ăn, ăn sống và làm rượu táo. Cây và quả của táo tây dễ bị nhiễm một số loại nấm, vi khuẩn và các vấn đề sâu bệnh, có thể kiểm soát các vấn đề này bằng một số biện pháp hữu cơvô cơ. Vào năm 2010, bộ gen của táo tây đã được giải mã là một phần của công việc nghiên cứu về kiểm soát dịch bệnh và nhân giống chọn lọc trong sản xuất táo.

Sản lượng táo tây trên toàn thế giới vào năm 2018 là 86 triệu tấn, trong đó Trung Quốc chiếm gần một nửa tổng sản lượng.[3]

Mô tả

Hoa, quả và lá của cây táo tây (Malus domestica)

[4]

Táo là một loại cây rụng lá, chiều cao của cây thường từ 2 đến 4,5 m (6 đến 15 ft) trong trồng trọt và có chiều cao lên đến 9 m (30 ft) trong tự nhiên. Khi trồng, kích thước, hình dạng và mật độ cành được xác định bằng phương pháp chọn lựa và chiết gốc ghép. Các lá được sắp xếp xen kẽ, chúng có hình bầu dục đơn giản màu xanh đậm với mép lá có hình răng cưa và mặt dưới có lông tơ nhỏ li ti.[5]

Hoa táo tây

Hoa nở vào mùa xuân cùng lúc với sự đâm chồi của lá, chúng nở trên các ngọn của cành và một số chồi dài. Những bông hoa 3 đến 4 cm (1 đến 1+12 in) màu trắng pha chút màu hồng nhạt dần, có năm cánh, với một cụm hoa lớn trên cành hoặc thân, gồm một cụm hoa gồm có 4–6 hoa. Hoa nằm ở trung tâm của cụm hoa được gọi là "vì vua nở rộ"; nó là hoa mở ra đầu tiên và có thể phát triển thành một quả lớn.[5][6]

Quả táo tây là một loại quả pome chín vào cuối mùa hè hoặc mùa thu, quả của các giống táo trồng hiện nay có nhiều kích cỡ khác nhau. Những người trồng táo tây thương mại đặt mục tiêu tạo ra quả táo có chiều dài từ 7 đến 8,5 cm (2+34 đến 3+14 in) đáp ứng sự ưa chuộng của thị trường. Đối với một số người tiêu dùng, đặc biệt là những người tiêu dùng ở Nhật Bản họ thích quả táo kích cỡ lớn, trong khi những quả táo dưới 5,5 cm (2+14 in) thường được sử dụng để làm nước ép trái cây và có ít giá trị trên thị trường quả tươi. Vỏ của táo tây khi chín thường có màu đỏ, vàng, xanh lá cây, hồng, hoặc màu rám nắng, mặc dù có thể tìm thấy nhiều giống hai màu hoặc ba màu.[7] Vỏ quả cũng có thể bị rám toàn bộ hoặc một phần, tức là thô ráp và có màu nâu. Vỏ được bao phủ bởi một lớp sáp bảo vệ.[8] Phần cái ăn (thịt quả) thường có màu trắng vàng nhạt[7] đến màu hồng, cũng có loại táo tây có thịt quả màu vàng hoặc xanh lá cây.[9]

Tổ tiên hoang dã

Tổ tiên hoang dã của Malus domesticaMalus sieversii được tìm thấy mọc hoang ở vùng núi Trung Á tại miền nam Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistantây bắc Trung Quốc.[5][10] Việc trồng loài này rất có thể bắt đầu từ các khu rừng trên sườn núi của dãy núi Thiên Sơn, tiến triển trong một thời gian dài và cho phép lai cận tính thứ cấp các gen từ các loài khác vào các hạt giống thụ phấn mở. Trao đổi di truyền đáng kể với Malus sylvestris, loài táo dại châu Âu, kết quả là các quần thể táo tây hiện nay có liên quan nhiều đến táo dại châu Âu hơn là tổ tiên giống Malus sieversii về hình thái học. Trong các chủng táo không có xáo trộn di truyền gần đây, sự đóng góp của Malus sieversii chiếm ưu thế.[11][12][13]

Bộ gen

Táo tây là loài cây lưỡng bội (mặc dù các giống cây tam bội không phải là hiếm), có 17 nhiễm sắc thể và kích thước bộ gen ước tính xấp xỉ 650 Mb. Một số trình tự gen đã được giải sẵn, trình tự đầu tiên vào năm 2010 dựa trên giống cây lưỡng bội 'Golden Delicious'.[14] Tuy nhiên, trình tự bộ gen đầu tiên này hóa ra có chứa một số lỗi[15] một phần là do mức độ mất tính dị hợp tử cao ở táo lưỡng bội, kết hợp với sự trùng lắp bộ gen cổ xưa, nên việc kết nối phức tạp hơn. Gần đây, các cây lưỡng bội và tam bội đã được xác định trình tự, dẫn đến việc tạo ra toàn bộ trình tự bộ gen có chất lượng cao hơn.[16][17] Toàn bộ bộ gen đầu tiên được ước tính chứa khoảng 57.000 gen,[14] mặc dù các trình tự gen gần đây hơn hỗ trợ một ước tính vừa phải hơn từ 42.000 đến 44.700 gen mã hóa protein.[16][17] Điều khác, toàn bộ trình tự bộ gen sẵn có đã cung cấp bằng chứng cho thấy tổ tiên hoang dã của táo trồng rất có thể là Malus sieversii. Việc sắp xếp lại trình tự qua nhiều lần truy cập đã hỗ trợ điều này, đồng thời cũng cho thấy sự lai cận tính sâu rộng từ Malus sylvestris sau khi chúng được thuần hóa.[18]

Lịch sử

color photograph of a hand holding a red apple
Táo dại Malus sieversiiKazakhstan

Malus sieversii được công nhận là loài tổ tiên chính của táo tây trồng, và là loài tương tự về hình thái học. Do sự biến đổi gen ở Trung Á, khu vực này thường được coi là trung tâm xuất xứ của táo tây.[19] Chúng được cho là đã được thuần hóa cách đây 4.000–10.000 năm ở vùng núi Thiên Sơn và sau đó nó đã được mang dọc theo Con đường Tơ lụa để đến châu Âu, với sự lai tạo và lai cận tính của các loại táo dại từ Siberia (M. baccata), Caucasus (M. orientalis) và châu Âu (M. sylvestris). Chỉ có M. sieversii mọc ở sườn tây của dãy núi Thiên Sơn góp phần di truyền vào giống táo thuần hóa, chứ không phải do quần thể táo dại bị cô lập ở sườn đông.[18]

Táo mềm Trung Quốc, chẳng hạn như M. asiaticaM. prunifolia, đã được trồng làm món táo tráng miệng trong hơn 2.000 năm ở Trung Quốc. Chúng được cho là con lai của M. baccataM. sieversii từ Kazakhstan.[18]

Các đặc điểm của táo tây được người trồng lựa chọn là kích thước, độ chua của quả, màu sắc, độ chắc thịt và lượng đường hòa tan. Khác xa đối với các loại trái cây thuần hóa, loại táo dại M. sieversii ban đầu có kích thước chỉ nhỏ hơn một chút so với loại táo thuần hóa hiện đại.[18]

Tại địa điểm Sammardenchia-Cueis gần Udine ở Đông Bắc nước Ý, hạt của một số dạng táo tây đã được tìm thấy trong mỏ quặng carbon có niên đại khoảng 4.000 năm trước Công nguyên.[20] Phương pháp phân tích di truyền vẫn chưa được sử dụng thành công để xác định rõ liệu những quả táo cổ đại như vậy là táo dại Malus sylvestris hay Malus domesticus chứa loài tổ tiên Malus sieversii.[21] Tựu chung khó có thể phân biệt được giữa táo dại hái lượm và táo trồng trong hồ sơ khảo cổ học.

Đã có bằng chứng gián tiếp về việc trồng táo vào thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên ở vùng Trung Đông. Ở châu Âu trong thời kỳ cổ đại đã có sản lượng táo đáng kể, và việc chiết ghép chắc chắn đã được biết đến trong thời gian sau đó.[21] Chiết ghép là một phần thiết yếu trong hoạt động sản xuất táo thuần hóa hiện đại, để có thể nhân giống ra những cây trồng tốt nhất; hiện vẫn không rõ chiết ghép cây táo được phát minh khi nào.[21]

Táo thời vụ mùa đông được hái vào cuối mùa thu và được bảo quản bằng cách đông lạnh, chúng đã là một loại thực phẩm quan trọng ở châu Á và châu Âu trong nhiều thiên niên kỷ.[22] Trong số rất nhiều loài cây trồng ở Cựu thế giới mà người Tây Ban Nha đưa đến quần đảo Chiloé vào thế kỷ 16, cây táo đặc biệt thích nghi tốt.[23] Táo được du nhập vào Bắc Mỹ bởi những đoàn người thực dân vào thế kỷ 17,[5] và vườn táo đầu tiên trên lục địa Bắc Mỹ đã được William Blaxton Đáng Kính (Reverend William Blaxton) trồng ở Boston vào năm 1625.[24] Loại táo duy nhất có nguồn gốc từ Bắc Mỹ là táo cua (crab apples), từng được gọi là "táo phổ thông" (common apples).[25] Giống táo được mang đến làm giống từ châu Âu đã được phổ biến dọc theo các tuyến đường thương mại của người Mỹ bản địa, cũng như được trồng trong các trang trại thuộc địa. Một danh mục vườn ươm táo Hoa Kỳ năm 1845 đã bán 350 cây của giống "tốt nhất", cho thấy sự sinh sôi mạnh mẽ của các giống táo mới ở Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ 19.[25] Vào thế kỷ 20, các dự án thủy lợi ở Miền đông Washington bắt đầu xây dựng góp phần cho phép phát triển ngành công nghiệp trái cây trị giá hàng tỷ đô la, trong đó táo tây là sản phẩm hàng đầu.[5]

Cho đến thế kỷ 20, những người nông dân đã bảo quản táo trong các hầm đất trong suốt mùa đông để sử dụng riêng hoặc để bán. Việc vận chuyển táo tươi bằng tàu hỏa và đường bộ được cải thiện đã thay thế cho nhu cầu bảo quản.[26][27] Phương pháp bảo quản kiểm soát không khí được sử dụng để giữ táo tươi quanh năm. Các cơ sở này sử dụng độ ẩm cao, lượng oxy thấp và mức carbon dioxide được kiểm soát để duy trì độ tươi của trái cây. Chúng được sử dụng lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào những năm 1960.[28]

Tầm quan trọng trong các nền văn hóa và xã hội Châu Âu

Pagan giáo ở Đức

Hình minh họa cô gái mặc váy đỏ, một tay cầm 3 ngọn nến và tay kia cầm một giỏ táo
"Brita as Iduna " (1901) của Carl Larsson

Trong thần thoại Bắc Âu, nữ thần Iðunn được miêu tả trong Prose Edda (được viết vào thế kỷ 13 bởi tác giả Snorri Sturluson) là người cung cấp những quả táo cho các vị thần mang lại cho họ sự trẻ trung vĩnh cửu. Học giả người Anh H. R. Ellis Davidson liên kết quả táo với các hoạt động tôn giáo trong Pagan giáo Đức mà từ đó Pagan giáo Bắc Âu phát triển. Bà chỉ ra rằng những xô đựng táo đã được tìm thấy trong khu chôn cất thuyền Oseberg ở Na Uy, trái cây và quả hạch (Iðunn đã mô tả là sự biến đổi thành một loại hạt trong Skáldskaparmál) đã được tìm thấy trong những ngôi mộ sớm nhất của các sắc tộc German ở Anh và các nơi khác trên lục địa Châu Âu, có thể mang một ý nghĩa tượng trưng, và các loại hạt vẫn là biểu tượng được công nhận về khả năng sinh sản ở tây nam nước Anh.[29]

Davidson ghi nhận mối liên hệ giữa táo và Vanir, một bộ tộc thần tiên có liên quan đến khả năng sinh sản trong thần thoại Bắc Âu, trích dẫn một ví dụ về 11 "quả táo vàng" được Skírnir, người đang làm sứ giả cho thần Freyr Vanir, ban cho để tán tỉnh Gerðr xinh đẹp. Nội dung nằm trong khổ 19 và 20 của Skírnismál. Davidson cũng lưu ý thêm về mối liên hệ giữa khả năng sinh sản và những quả táo trong thần thoại Bắc Âu trong chương 2 của Völsunga saga: khi nữ thần chính Frigg gửi cho Vua Rerir một quả táo sau khi ông cầu nguyện cho Odin một đứa trẻ, sứ giả của Frigg (trong lốt một con quạ) thả quả táo vào lòng khi anh ấy ngồi trên đỉnh một gò đất của một ngôi mộ.[30] Việc ăn táo của vợ Rerir dẫn đến việc mang thai sáu năm và sinh (bằng phương pháp mổ đẻ) con trai của họ - anh hùng Völsung.[31]

Hơn nữa, Davidson chỉ ra cụm từ "kỳ lạ" "Táo của Hel" được sử dụng trong một bài thơ từ thế kỷ 11 của skald Thorbiorn Brúnarson. Bà nói rằng điều này có thể ngụ ý rằng quả táo được Brúnarson coi là thức ăn của người chết. Hơn nữa, Davidson lưu ý rằng nữ thần Nehalennia của Đức đôi khi được miêu tả với những quả táo và những điều tương tự tồn tại trong những câu chuyện cổ của người Ireland. Davidson khẳng định trong khi việc trồng táo ở Bắc Âu kéo dài ít nhất là từ thời Đế chế La Mã và đã đến châu Âu từ Cận Đông, các giống táo bản địa mọc ở Bắc Âu đều nhỏ và có vị đắng. Davidson kết luận rằng trong diện mạo Iðunn "chúng ta phải có một hình ảnh phản chiếu lờ mờ của một biểu tượng cũ: đó là nữ thần hộ mệnh của trái cây ban sự sống của thế giới bên kia."[29]

Thần thoại Hy Lạp

Heracles với quả táo của Hesperides

Táo xuất hiện trong nhiều tín ngưỡng truyền thống, thường là một loại trái cây thần bí hoặc trái cấm. Một trong những vấn đề xác định quả táo trong tôn giáo, thần thoại và truyện dân gian là vào cuối thế kỷ 17, từ "quả táo" đã được sử dụng như một thuật ngữ chung cho tất cả các loại trái cây (ngoại lai), trừ quả mọng, bao gồm cả quả hạch.[32] Một ví dụ, trong thần thoại Hy Lạp, anh hùng Hy Lạp Heracles, với tư cách là một phần của Mười Hai Người Lao Động, được yêu cầu đi đến Khu vườn của Hesperides và hái những quả táo vàng trên Cây Sự sống đang phát triển ở giữa vườn.[33][34][35]

Nữ thần bất hòa của Hy Lạp, Eris, trở nên bất bình sau khi cô bị đuổi khỏi đám cưới của PeleusThetis.[36] Để trả đũa, cô ném một quả táo vàng Bất hòa có khắc Καλλίστη (Kalliste, đôi khi được phiên âm là Kallisti, "Cho người đẹp nhất"), vào tiệc cưới. Ba nữ thần kêu nài quả táo: Hera, Athena, và Aphrodite. Paris của thành Troy đã được chỉ định để chọn người nhận. Sau khi bị cả Hera và Athena mua chuộc, Aphrodite đã cám dỗ anh ta với người phụ nữ xinh đẹp nhất thế giới, Helen của Sparta. Anh ta đã trao tặng quả táo cho Aphrodite, do đó gián tiếp gây ra cuộc chiến thành Troy.[37]

Do đó, ở Hy Lạp cổ đại, quả táo được coi là linh thiêng đối với thần Aphrodite. Ném một quả táo vào ai đó là để tuyên bố một cách tượng trưng tình yêu của một người; và tương tự, nắm bắt quả táo là để thể hiện một cách tượng trưng sự chấp nhận của một người đối với tình yêu đó. Một thư ký tuyên bố một nội dung mà Plato là tác giả nêu rõ:[38]

Tôi ném quả táo vào em, và nếu em muốn yêu tôi, hãy cầm lấy nó và chia sẻ thời con gái của em với tôi; nhưng nếu suy nghĩ của em là những gì tôi cầu nguyện không giống như vậy, thì hãy bắt lấy nó, và hãy xem xét vẻ đẹp ngắn ngủi như thế nào.

— Plato, Epigram VII

Atalanta trong thần thoại Hy Lạp, đã thực hiện chạy đua trước tất cả những người cầu hôn mình nhằm cố gắng trốn tránh hôn nhân. Cô ấy đánh bại tất cả trừ Hippomenes (còn được gọi là Melanion, một cái tên có thể bắt nguồn từ "dưa", từ tiếng Hy Lạp cho cả "táo" và trái cây nói chung),[34] anh ta đã đánh bại cô ấy bằng sự xảo quyệt chứ không phải tốc độ. Hippomenes biết rằng mình không thể chiến thắng trong một cuộc đua công bằng nên đã sử dụng ba quả táo vàng (quà tặng của Aphrodite, nữ thần tình yêu) để đánh lạc hướng Atalanta. Phải mất cả ba quả táo và cả tốc độ của mình, nhưng Hippomenes cuối cùng đã thành công, giành chiến thắng trong cuộc đua và chạm được tay Atalanta.[33]

Nghệ thuật Cơ đốc giáo

Adam and Eve của Albrecht Dürer (1507), trưng bày quả táo như một biểu tượng của tội lỗi

Mặc dù trái cấm của Eden trong Sách Sáng thế không được xác định, nhưng truyền thống Cơ đốc giáo phổ biến cho rằng đó là quả táo mà Eve đã dụ dỗ Adam chia sẻ với cô.[39] Gốc rễ về cách nhận biết phổ biến của một loại trái cây chưa được biết đến ở Trung Đông vào thời Kinh thánh được tìm thấy trong sự nhầm lẫn giữa các từ tiếng Latinh mālum (quả táo) và mălum (quả ác quỷ), mỗi từ thường được viết là malum.[40] Cây trái cấm được gọi là "cây biết điều thiện và điều ác" trong Sáng thế ký 2:17,[41] và tiếng Latinh có nghĩa cho "thiện và ác" là bonum et malum.[42]

Các họa sĩ thời Phục hưng cũng có thể đã bị ảnh hưởng bởi câu chuyện về những quả táo vàng trong Vườn Hesperides. Kết quả là, trong câu chuyện của Adam và Eve, quả táo trở thành biểu tượng cho tri thức, sự bất tử, sự cám dỗ, sự sa ngã của con người vào tội lỗi và chính tội lỗi. Thanh quản trong cổ họng của con người đã được gọi là "quả táo của Adam" vì một quan niệm cho rằng nó được tạo ra bởi trái cấm còn lại trong cổ họng của Adam.[39] Quả táo là biểu tượng của sự quyến rũ tình dục đã được sử dụng để ám chỉ tình dục của con người, có thể theo một cách mỉa mai.[39]

Tục ngữ

Câu tục ngữ "Một quả táo mỗi ngày giúp tránh xa bác sĩ ", đề cập đến những lợi ích sức khỏe được cho là nhờ ăn trái cây, câu này đã được bắt nguồn từ xứ Wales vào thế kỷ 19, nơi cụm từ ban đầu là "Ăn một quả táo khi đi ngủ, và bạn sẽ khiến cho bác sĩ không kiếm được bánh mì của mình".[43] Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cụm từ phát triển thành "một quả táo mỗi ngày, không cần trả tiền bác sĩ" và "một quả táo mỗi ngày sẽ đưa bác sĩ ra xa"; cụm từ thường được sử dụng hiện nay được ghi lại lần đầu tiên vào năm 1922.[44] Mặc dù có các câu tục ngữ như thế, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy ăn táo hàng ngày sẽ có bất kỳ ảnh hưởng nào đáng kể đối với sức khỏe.[45]

Giống

Hiện có hơn 7.500 giống táo tây.[46] Các giống táo trồng khác nhau về năng suất và kích thước trưởng thành cuối cùng của cây, ngay cả khi chúng được trồng trên cùng một gốc ghép.[47] Có nhiều giống táo tây khác nhau phân bố trong môi trường khí hậu ôn đới và cận nhiệt đới. UK's National Fruit Collection của Vương quốc Anh, do Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn chịu trách nhiệm quản lý, cơ quan này đã sưu tầm hơn 2.000 giống táo tây trồng ở Kent.[48] Đại học Reading, chịu trách nhiệm phát triển cơ sở dữ liệu sưu tập quốc gia của Vương quốc Anh, cung cấp quyền truy cập để tìm kiếm nội dung sưu tầm quốc gia. Công trình của Đại học Reading là một phần của Chương trình Hợp tác Châu Âu về Tài nguyên Di truyền Thực vật, trong đó có 38 quốc gia tham gia vào nhóm nghiên cứu Malus/Pyrus.[49]

Cơ sở dữ liệu sưu tập trái cây quốc gia của Vương quốc Anh chứa đựng nhiều thông tin về đặc điểm và nguồn gốc của nhiều loại táo tây, bao gồm tên các giống thay thế cho những giống táo tây về cơ bản giống với táo tây "di truyền". Hầu hết các giống này được lai tạo để ăn tươi (táo tráng miệng), mặc dù một số được trồng đặc biệt để dùng nấu ăn (Táo nấu ăn) hoặc sản xuất rượu táo. Táo rượu thường quá chua và quá chát để có thể ăn tươi, nhưng chúng mang lại cho đồ uống một hương vị đậm đà mà táo tráng miệng không thể làm được.[50]

Các giống táo phổ biến trên thị trường thường mềm nhưng thịt quả giòn. Các tiêu chí chất lượng khác trong việc nhân giống táo tây thương mại hiện nay là vỏ có màu sắc sặc sỡ, không bị dập, dễ vận chuyển, khả năng bảo quản lâu, năng suất cao, kháng bệnh, hình dạng quả táo thông dụng và nâng cao chất lượng hương vị.[47] Táo tây hiện đại nói chung ngọt hơn so với các giống táo tây cũ, phù hợp thị hiếu tiêu dùng phổ biến thay đổi theo thời gian. Hầu hết người dân Bắc Mỹ và châu Âu ưa chuộng loại táo ngọt, không chua, nhưng táo chua có một số ít người tìm mua.[51] Loại táo cực ngọt hầu như không có vị axit nào rất phổ biến ở châu Á,[51] đặc biệt là tiểu lục địa Ấn Độ.[50]

Những giống táo tây trồng cũ trước kia thường có hình dáng kỳ dị, hay bị dập, đa dạng kết cấu và màu sắc. Một số trong đó có hương vị thơm ngon hơn các giống hiện đại,[52] nhưng chúng có các vấn đề khác khiến chúng không thể tiêu thụ được về mặt thương mại — năng suất thấp, dễ nhiễm bệnh, khả năng chịu đựng trong bảo quản hoặc vận chuyển kém, hoặc kích thước "sai". Một số giống cũ vẫn còn được sản xuất trên quy mô lớn, nhiều giống đã được bảo tồn bởi các nhà vườn và nông dân, và chúng được bán trực tiếp tại thị trường địa phương. Nhiều giống cây trồng quan trọng và các giống khác thường ở nhiều địa phương mang hương vị và vẻ ngoài độc đáo; Các chiến dịch bảo tồn táo tây đã nổ ra trên khắp thế giới để bảo tồn những giống trồng địa phương khỏi bị tuyệt chủng. Ở Vương quốc Anh, các giống cây trồng cũ như 'Cox's Orange Pippin' và 'Egremont Russet' vẫn quan trọng về mặt thương mại mặc dù theo tiêu chuẩn hiện nay, chúng cho năng suất thấp và dễ bị nhiễm bệnh.[5]

Sản xuất

Sản xuất táo tây – 2019
Quốc gia (triệu tấn)
 Trung Quốc 42,4
 Hoa Kỳ 5,0
 Thổ Nhĩ Kỳ 3,6
 Ba Lan 3,1
 Iran 2,4
 Ý 2,3
Thế giới 87,2
Nguồn: FAOSTAT của Liên hợp quốc[3]

Sản lượng táo tây trên toàn thế giới vào năm 2019 là 87 triệu tấn, trong đó Trung Quốc sản xuất 49% tổng sản lượng (bảng).[3] Các nhà sản xuất thứ cấp là Hoa KỳThổ Nhĩ Kỳ.[3]

Dinh dưỡng

Táo tây, cả vỏ (phần ăn được)
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz)
Năng lượng218 kJ (52 kcal)
13.81 g
Đường10.39
Chất xơ2.4 g
0.17 g
0.26 g
VitaminLượng
%DV
Vitamin A equiv.
0%
3 μg
0%
27 μg
29 μg
Thiamine (B1)
1%
0.017 mg
Riboflavin (B2)
2%
0.026 mg
Niacin (B3)
1%
0.091 mg
Acid pantothenic (B5)
1%
0.061 mg
Vitamin B6
2%
0.041 mg
Folate (B9)
1%
3 μg
Vitamin C
5%
4.6 mg
Vitamin E
1%
0.18 mg
Vitamin K
2%
2.2 μg
Chất khoángLượng
%DV
Calci
0%
6 mg
Sắt
1%
0.12 mg
Magnesi
1%
5 mg
Mangan
2%
0.035 mg
Phosphor
1%
11 mg
Kali
4%
107 mg
Natri
0%
1 mg
Kẽm
0%
0.04 mg
Other constituentsQuantity
Nước85.56 g

Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[53] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[54]

Một quả táo tây chưa chín có thành phần chủ yếu bao gồm 86% nước và 14% carbohydrate, với hàm lượng chất béoprotein không đáng kể (bảng). Một khẩu phần ăn tham khảo gồm một quả táo tây chưa chín còn nguyên vỏ với trọng lượng nặng 100 gram cung cấp năng lượng 52 calo và hàm lượng chất xơ vừa phải.[55] Mặt khác, quả của chúng có hàm lượng nguyên tố vi lượng thấp, với Giá trị hàng ngày (DV) của tất cả thành phần thấp dưới mức 10%.[56]

Sử dụng

Lõi quả táo là một phần của quả táo thường không được ăn, có chứa hạt.

Tất cả các bộ phận của quả, bao gồm cả vỏ, ngoại trừ hạt, đều thích hợp để làm thức ăn cho người. Phần lõi táo, từ gần cuống đến đít quả có chứa các hạt, thường không được ăn và bị loại bỏ.

Táo có thể được tiêu thụ theo nhiều cách khác nhau: nước ép trái cây, táo sống trong món salad, nướng trong bánh táo nướng, nấu thành nước sốt và phết lên các món ăn khác như bơ táo, và nhiều món nướng khác.[57]

Táo đôi khi được sử dụng như một thành phần trong các món ăn có vị đậm đà, chẳng hạn như xúc xích và thực phẩm nhồi.[58]

Một số kỹ thuật đã được sử dụng để bảo quản táo tây và các sản phẩm từ chúng. Táo tây có thể được đóng hộp, sấy khô hoặc đông lạnh.[57] Táo đóng hộp hoặc đông lạnh cuối cùng được nướng thành bánh nướng hoặc các món nấu chín khác. Nước ép hoặc rượu táo được đóng chai. Nước táo thường cô đặc và đông lạnh.

Sử dụng phổ biến

Táo tây thường được ăn sống. Các giống táo trồng được nhân giống để tiêu thụ tươi được gọi là táo tráng miệng hoặc táo để bàn.

  • Ở Anh, kẹo bọc táo là một loại bánh kẹo truyền thống được làm bằng cách phủ lên bề mặt một quả táo lớp kẹo bơ cứng nóng và để nguội. Các món tương tự ở Mỹ là kẹo táo (phủ một lớp vỏ cứng xung quanh bên ngoài bằng xi-rô đường kết tinh) và táo caramel (phủ caramel nguội).
  • Táo được ăn với mật ong vào Lễ Mừng năm mới Rosh Hashanah của người Do Thái để tượng trưng cho một năm mới ngọt ngào.[59]

Táo là một thành phần quan trọng trong nhiều món tráng miệng, chẳng hạn như bánh táo (apple pie), táo vụn, táo giòn và bánh táo (apple cake). Khi nấu chín, một số giống táo dễ dàng chuyển thành một dạng nhuyễn được gọi là sốt táo. Táo cũng được làm thành bơ táo và thạch táo. Chúng thường được nướng hoặc hầm và cũng được nấu (nấu chín) trong một số món thịt. Táo sấy khô có thể dùng để ăn hoặc hoàn nguyên (ngâm trong nước, rượu hoặc một số chất lỏng khác).

Táo được xay hoặc ép để tạo ra nước ép táo, có thể được uống mà không cần lọc (ở Bắc Mỹ được gọi là rượu táo) hoặc được lọc. Nước ép lọc thường được cô đặc và đông lạnh, sau đó được hoàn nguyên trở lại dạng lỏng và tiêu thụ. Nước ép táo có thể được làm lên men để làm rượu táo (ở Bắc Mỹ được gọi là rượu táo cứng), rượu táo nhạt và giấm. Thông qua quá trình chưng cất, có thể sản xuất nhiều loại đồ uống có cồn khác nhau, chẳng hạn như applejack, Calvados và apfelwein.[60]

Sản xuất hữu cơ

Táo hữu cơ thường được sản xuất ở Hoa Kỳ.[61] Do sự xâm nhập của các loài côn trùng và dịch bệnh chính, sản xuất hữu cơ gặp nhiều khó khăn ở châu Âu.[62] Việc sử dụng thuốc trừ sâu có chứa hóa chất, chẳng hạn như lưu huỳnh, đồng, vi sinh vật, vi rút, bột đất sét, hoặc chất chiết xuất từ thực vật (pyrethrum, neem) đã được Ủy ban Thường vụ Hữu cơ châu Âu (EU Organic Standing Committee) chấp thuận để cải thiện năng suất và chất lượng hữu cơ.[62] Một lớp phủ nhẹ bằng kaolinit tạo thành rào chắn vật lý đối với một số loài gây hại, cũng có thể giúp ngăn táo bị cháy nắng.[63]

Hóa chất thực vật

Vỏ và hạt táo chứa nhiều chất phytochemical, đặc biệt là polyphenol đang được nghiên cứu sơ bộ về những tác dụng tiềm ẩn đối với sức khỏe của chúng.[64]

Táo không thâm

Enzyme polyphenol oxidase gây ra màu nâu thâm trong táo thái lát hoặc táo bị dập, bằng cách xúc tác quá trình oxy hóa các hợp chất phenolic thành o-quinon, một yếu tố tạo màu nâu.[65] Hiện tượng thâm làm giảm mùi vị, màu sắc và giá trị thực phẩm của táo tây. Táo Bắc Cực, một giống táo tây không bị thâm nâu được giới thiệu đến thị trường Hoa Kỳ vào năm 2019, là giống được biến đổi gen để ngăn chặn sự biểu hiện của polyphenol oxidase, do đó làm chậm hiệu ứng chuyển sang màu nâu và cải thiện chất lượng ăn của táo.[66][67] Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US Food and Drug Administration) vào năm 2015, và Cơ quan Thanh tra Thực phẩm Canada (Canadian Food Inspection Agency) vào năm 2017, xác định rằng táo Bắc Cực an toàn và bổ dưỡng như táo thông thường.[68][69]

Các sản phẩm khác

Dầu hạt táo thu được bằng cách ép hạt táo để sản xuất mỹ phẩm.[70]

Nghiên cứu

Nghiên cứu sơ bộ đang được tiến hành nhằm xem việc tiêu thụ táo có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc một số loại ung thư hay không.[64][71]

Dị ứng

Một dạng dị ứng với táo thường thấy ở Bắc Âu, được gọi là hội chứng táo bạch dương và được tìm thấy ở những người cũng bị dị ứng với phấn hoa bạch dương.[72] Phản ứng dị ứng được kích hoạt bởi một loại protein trong táo tương tự như phấn hoa bạch dương và những người bị ảnh hưởng bởi loại protein này cũng có thể phát triển dị ứng với các loại trái cây, hạt và rau khác. Các phản ứng dẫn đến hội chứng dị ứng miệng (OAS), thường liên quan đến ngứa, viêm miệng và viêm cổ họng,[72] nhưng trong một số trường hợp hiếm hoi cũng có thể bao gồm sốc phản vệ đe dọa tính mạng.[73] Phản ứng này chỉ xảy ra khi quả táo tây sống được tiêu thụ, còn trong quá trình nấu ăn thì chất gây dị ứng sẽ bị vô hiệu hóa. Sự đa dạng của táo, độ chín và điều kiện bảo quản có thể thay đổi lượng chất gây dị ứng có trong từng loại quả. Thời gian bảo quản lâu có thể làm tăng lượng protein gây ra hội chứng táo bạch dương.[72]

Ở các khu vực khác, chẳng hạn như Địa Trung Hải, một số cá nhân có phản ứng bất lợi do táo vì chúng tương tự như đào.[72] Dạng dị ứng táo này cũng bao gồm OAS, nhưng thường có các triệu chứng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như nôn mửa, đau bụng và nổi mề đay, đồng thời có thể đe dọa đến tính mạng. Những người bị dị ứng dạng này cũng có thể phát triển các phản ứng với các loại trái cây và hạt khác. Việc nấu chín không phá vỡ protein gây ra phản ứng đặc biệt này, vì vậy những người bị ảnh hưởng không thể ăn táo sống hoặc nấu chín. Trái cây quá chín được thu hoạch tươi có xu hướng có hàm lượng protein gây ra phản ứng này cao nhất.[72]

Đến nay, các nỗ lực lai tạo vẫn chưa tạo ra một loại trái cây ít gây dị ứng phù hợp với một trong hai dạng dị ứng táo.[72]

Độc tính của hạt

Hạt táo chứa một lượng nhỏ amygdalin, một hợp chất đường và cyanide được gọi là glycoside cyanogenic. Ăn một lượng nhỏ hạt táo không gây ra tác dụng phụ, nhưng tiêu thụ với liều lượng quá lớn có thể gây ra tác dụng bất lợi. Có thể mất vài giờ trước khi chất độc phát huy tác dụng, vì glycoside cyanogenic phải được thủy phân trước khi ion cyanide được giải phóng.[74] Ngân hàng dữ liệu về các chất độc hại (Hazardous Substances Data Bank) của Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Library of Medicine) không ghi nhận trường hợp nào ngộ độc amygdalin do ăn hạt táo.[75]

Trong văn hóa

Trong văn hóa, trái táo tây được nhắc và biết đến thông qua các hình tượng như:

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Dickson, Elizabeth E. (2014). Malus pumila. Trong Flora of North America Editorial Committee (biên tập). Flora of North America North of Mexico (FNA). 9. New York and Oxford – qua eFloras.org, Missouri Botanical Garden, St. Louis, MO & Harvard University Herbaria, Cambridge, MA.
  2. ^ Wilson, Karen L. (2017), “Report of the Nomenclature Committee for Vascular Plants: 66: (1933). To conserve Malus domestica Borkh. against M. pumila Miller”, Taxon, 66 (3): 742–744, doi:10.12705/663.15
  3. ^ a b c d “Apple production in 2019; from pick lists: Crops/World Regions/Production Quantity”. FAOSTAT, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc. 2021. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2021.
  4. ^ “Origin and meaning of "apple" by Online Etymology Dictionary”. Online Etymology Dictionary. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2019.
  5. ^ a b c d e f “Origin, History of cultivation”. University of Georgia. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
  6. ^ “Apple”. Natural History Museum. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  7. ^ a b Janick, Jules; Cummins, James N.; Brown, Susan K.; Hemmat, Minou (1996). “Chapter 1: Apples” (PDF). Trong Jules Janick; James N. Moore (biên tập). Fruit Breeding, Volume I: Tree and Tropical Fruits. John Wiley & Sons, Inc. tr. 9. ISBN 978-0-471-31014-3. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  8. ^ “Natural Waxes on Fruits”. Postharvest.tfrec.wsu.edu. 29 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  9. ^ “Types of Apples: Red, Green, and Yellow”. Greatist (bằng tiếng Anh). 31 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2021.
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Architecture and size relations: an essay on the apple (Malus x domestica, Rosaceae) tree
  11. ^ Cornille, Amandine; và đồng nghiệp (2012). Mauricio, Rodney (biên tập). “New Insight into the History of Domesticated Apple: Secondary Contribution of the European Wild Apple to the Genome of Cultivated Varieties”. PLOS Genetics. 8 (5): e1002703. doi:10.1371/journal.pgen.1002703. PMC 3349737. PMID 22589740.
  12. ^ Kean, Sam (17 tháng 5 năm 2012). “ScienceShot: The Secret History of the Domesticated Apple”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2016.
  13. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Coart
  14. ^ a b Velasco, Riccardo; Zharkikh, Andrey; Affourtit, Jason; Dhingra, Amit; Cestaro, Alessandro; Kalyanaraman, Ananth; Fontana, Paolo; Bhatnagar, Satish K.; Troggio, Michela; Pruss, Dmitry; Salvi, Silvio; Pindo, Massimo; Baldi, Paolo; Castelletti, Sara; Cavaiuolo, Marina; Coppola, Giuseppina; Costa, Fabrizio; Cova, Valentina; Dal Ri, Antonio; Goremykin, Vadim; Komjanc, Matteo; Longhi, Sara; Magnago, Pierluigi; Malacarne, Giulia; Malnoy, Mickael; Micheletti, Diego; Moretto, Marco; Perazzolli, Michele; Si-Ammour, Azeddine; và đồng nghiệp (2010). “The genome of the domesticated apple (Malus × domestica Borkh.)”. Nature Genetics. 42 (10): 833–839. doi:10.1038/ng.654. PMID 20802477. S2CID 14854514.
  15. ^ Di Pierro, Erica A.; Gianfranceschi, Luca; Di Guardo, Mario; Koehorst-Van Putten, Herma JJ; Kruisselbrink, Johannes W.; Longhi, Sara; Troggio, Michela; Bianco, Luca; Muranty, Hélène; Pagliarani, Giulia; Tartarini, Stefano; Letschka, Thomas; Lozano Luis, Lidia; Garkava-Gustavsson, Larisa; Micheletti, Diego; Bink, Marco CAM; Voorrips, Roeland E.; Aziz, Ebrahimi; Velasco, Riccardo; Laurens, François; Van De Weg, W Eric (2016). “A high-density, multi-parental SNP genetic map on apple validates a new mapping approach for outcrossing species”. Horticulture Research. Nature Horticulture Research. 3: 16057. doi:10.1038/hortres.2016.57. PMC 5120355. PMID 27917289.
  16. ^ a b Daccord, Nicolas; Celton, Jean-Marc; Linsmith, Gareth; Becker, Claude; Choisne, Nathalie; Schijlen, Elio; Van De Geest, Henri; Bianco, Luca; Micheletti, Diego; Velasco, Riccardo; Di Pierro, Erica Adele; Gouzy, Jérôme; Rees, D Jasper G.; Guérif, Philippe; Muranty, Hélène; Durel, Charles-Eric; Laurens, François; Lespinasse, Yves; Gaillard, Sylvain; Aubourg, Sébastien; Quesneville, Hadi; Weigel, Detlef; Van De Weg, Eric; Troggio, Michela; Bucher, Etienne (2017). “High-quality de novo assembly of the apple genome and methylome dynamics of early fruit development”. Nature Genetics. Nature Communications. 49 (7): 1099–1106. doi:10.1038/ng.3886. PMID 28581499. S2CID 24690391.
  17. ^ a b Zhang, Liyi; Hu, Jiang; Han, Xiaolei; Li, Jingjing; Gao, Yuan; Richards, Christopher M.; Zhang, Caixia; Tian, Yi; Liu, Guiming; Gul, Hera; Wang, Dajiang; Tian, Yu; Yang, Chuanxin; Meng, Minghui; Yuan, Gaopeng; Kang, Guodong; Wu, Yonglong; Wang, Kun; Zhang, Hengtao; Wang, Depeng; Cong, Peihua (2019). “A high-quality apple genome assembly reveals the association of a retrotransposon and red fruit colour”. Nature Communications. Nature Genetics. 10 (1): 1494. Bibcode:2019NatCo..10.1494Z. doi:10.1038/s41467-019-09518-x. PMC 6445120. PMID 30940818.
  18. ^ a b c d Duan, Naibin; Bai, Yang; Sun, Honghe; Wang, Nan; Ma, Yumin; Li, Mingjun; Wang, Xin; Jiao, Chen; Legall, Noah; Mao, Linyong; Wan, Sibao; Wang, Kun; He, Tianming; Feng, Shouqian; Zhang, Zongying; Mao, Zhiquan; Shen, Xiang; Chen, Xiaoliu; Jiang, Yuanmao; Wu, Shujing; Yin, Chengmiao; Ge, Shunfeng; Yang, Long; Jiang, Shenghui; Xu, Haifeng; Liu, Jingxuan; Wang, Deyun; Qu, Changzhi; Wang, Yicheng; và đồng nghiệp (2017), “Genome re-sequencing reveals the history of apple and supports a two-stage model for fruit enlargement”, Nature Communications, 8 (1): 249, Bibcode:2017NatCo...8..249D, doi:10.1038/s41467-017-00336-7, PMC 5557836, PMID 28811498
  19. ^ Richards, Christopher M.; Volk, Gayle M.; Reilley, Ann A.; Henk, Adam D.; Lockwood, Dale R.; Reeves, Patrick A. & Forsline, Philip L. (2009), “Genetic diversity and population structure in Malus sieversii, a wild progenitor species of domesticated apple”, Tree Genetics & Genomes, 5 (2): 339–347, doi:10.1007/s11295-008-0190-9, S2CID 19847067
  20. ^ Colledge, Sue; Conolly, James (16 tháng 6 năm 2016). “The Origins and Spread of Domestic Plants in Southwest Asia and Europe”. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  21. ^ a b c Schlumbauma, Angela; van Glabeke, Sabine; Roldan-Ruiz, Isabel (2012). “Towards the onset of fruit tree growing north of the Alps: Ancient DNA from waterlogged apple (Malus sp.) seed fragments”. Annals of Anatomy - Anatomischer Anzeiger. 194 (1): 157–162. doi:10.1016/j.aanat.2011.03.004. PMID 21501956.
  22. ^ “An apple a day keeps the doctor away”. Vegetarians in Paradise. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2008.
  23. ^ Torrejón, Fernando; Cisternas, Marco; Araneda, Alberto (2004). “Efectos ambientales de la colonización española desde el río Maullín al archipiélago de Chiloé, sur de Chile” [Environmental effects of the spanish colonization from de Maullín river to the Chiloé archipelago, southern Chile]. Revista Chilena de Historia Natural (bằng tiếng Tây Ban Nha). 77 (4): 661–677. doi:10.4067/s0716-078x2004000400009.
  24. ^ Smith, Archibald William (1997). A Gardener's Handbook of Plant Names: Their Meanings and Origins. Dover Publications. tr. 39. ISBN 978-0-486-29715-6.
  25. ^ a b Lawrence, James (1980). The Harrowsmith Reader, Volume II. Camden House Publishing Ltd. tr. 122. ISBN 978-0-920656-10-5.
  26. ^ Van Valen, James M. (2010). History of Bergen county, New Jersey. Nabu Press. tr. 744. ISBN 978-1-177-72589-7.
  27. ^ Brox, Jane (2000). Five Thousand Days Like This One: An American Family History. Beacon Press. ISBN 978-0-8070-2107-1.
  28. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CA
  29. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên autogenerated1
  30. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên DAVIDSON165-166
  31. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên DAVIDSONROLES146-147
  32. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên app3
  33. ^ a b Wasson, R. Gordon (1968). Soma: Divine Mushroom of Immortality. Harcourt Brace Jovanovich. tr. 128. ISBN 978-0-15-683800-9.
  34. ^ a b Ruck, Carl; Staples, Blaise Daniel (2001). The Apples of Apollo, Pagan and Christian Mysteries of the Eucharist. Durham: Carolina Academic Press. tr. 64–70. ISBN 978-0-89089-924-3.
  35. ^ Heinrich, Clark (2002). Magic Mushrooms in Religion and Alchemy. Rochester: Park Street Press. tr. 64–70. ISBN 978-0-89281-997-3.
  36. ^ Hyginus. “92”. Fabulae. Theoi Project. Mary Grant biên dịch. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2017.
  37. ^ Lucian. “The Judgement of Paris”. Dialogues of the Gods. Theoi Project. H. W. Fowler; F. G. Fowler biên dịch. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2017.
  38. ^ Edmonds, J.M. (1997). “Epigrams”. Trong Cooper, John M.; Hutchinson, D.S. (biên tập). Plato: Complete Works. Indianapolis: Hackett Publishing Co. tr. 1744. ISBN 9780872203495. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2020.
  39. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên book7
  40. ^ Kissling, Paul J (2004). Genesis. 1. College Press. tr. 193. ISBN 978-0-89900875-2. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2020.
  41. ^ Genesis 2:17
  42. ^ Hendel, Ronald (2012). The Book of Genesis: A Biography. Princeton University Press. tr. 114. ISBN 978-0-69114012-4. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2020.
  43. ^ Mieder, Wolfgang (1992). A Dictionary of American Proverbs. Oxford University Press, USA. tr. 54–. ISBN 978-0-19-505399-9. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2021.
  44. ^ Pollan, Michael (2001). The Botany of Desire: a Plant's-eye View of the World. Random House. tr. 22, cf. p. 9 & 50. ISBN 978-0375501296.
  45. ^ Davis, Matthew A.; Bynum, Julie P. W.; Sirovich, Brenda E. (1 tháng 5 năm 2015). “Association between apple consumption and physician visits”. JAMA Internal Medicine. 175 (5): 777–83. doi:10.1001/jamainternmed.2014.5466. PMC 4420713. PMID 25822137.
  46. ^ Elzebroek, A.T.G.; Wind, K. (2008). Guide to Cultivated Plants. Wallingford: CAB International. tr. 27. ISBN 978-1-84593-356-2. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2020.
  47. ^ a b “Apple – Malus domestica. Natural England. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
  48. ^ “National Fruit Collection”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2012.
  49. ^ “ECPGR Malus/Pyrus Working Group Members”. Ecpgr.cgiar.org. 22 tháng 7 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2014.
  50. ^ a b Tarjan, Sue (Fall 2006). “Autumn Apple Musings” (PDF). News & Notes of the UCSC Farm & Garden, Center for Agroecology & Sustainable Food Systems. tr. 1–2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
  51. ^ a b “World apple situation”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
  52. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Crops & Gardening - Apples of Antiquity
  53. ^ United States Food and Drug Administration (2024). “Daily Value on the Nutrition and Supplement Facts Labels”. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  54. ^ National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine; Health and Medicine Division; Food and Nutrition Board; Committee to Review the Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium (2019). Oria, Maria; Harrison, Meghan; Stallings, Virginia A. (biên tập). Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium. The National Academies Collection: Reports funded by National Institutes of Health. Washington (DC): National Academies Press (US). ISBN 978-0-309-48834-1. PMID 30844154.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  55. ^ “Nutrition Facts, Apples, raw, with skin [Includes USDA commodity food A343]. 100 gram amount”. Nutritiondata.com, Conde Nast from USDA version SR-21. 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2020.
  56. ^ “How to understand and use the nutrition facts label”. US Food and Drug Administration. 11 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2020.
  57. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên applefood
  58. ^ Kellogg, Kristi (15 tháng 1 năm 2015). “81 Best Apple Recipes: Dinners, Desserts, Salads, and More”. Epicurious. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2020.
  59. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên food
  60. ^ Lim, T. K. (11 tháng 6 năm 2012). Edible Medicinal And Non-Medicinal Plants: Volume 4, Fruits. ISBN 9789400740532.
  61. ^ “Organic apples”. USDA Agricultural Marketing Service. tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2017.
  62. ^ a b “European Organic Apple Production Demonstrates the Value of Pesticides” (PDF). CropLife Foundation, Washington, DC. tháng 12 năm 2011. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2017.
  63. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên app4
  64. ^ a b Ribeiro FA, Gomes de Moura CF, Aguiar O Jr, de Oliveira F, Spadari RC, Oliveira NR, Oshima CT, Ribeiro DA (tháng 9 năm 2014). “The chemopreventive activity of apple against carcinogenesis: antioxidant activity and cell cycle control”. European Journal of Cancer Prevention (Review). 23 (5): 477–80. doi:10.1097/CEJ.0000000000000005. PMID 24366437. S2CID 23026644.
  65. ^ Nicolas, J. J.; Richard-Forget, F. C.; Goupy, P. M.; Amiot, M. J.; Aubert, S. Y. (1 tháng 1 năm 1994). “Enzymatic browning reactions in apple and apple products”. Critical Reviews in Food Science and Nutrition. 34 (2): 109–157. doi:10.1080/10408399409527653. PMID 8011143.
  66. ^ “PPO silencing”. Okanagan Specialty Fruits, Inc. 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2019.
  67. ^ “United States: GM non-browning Arctic apple expands into foodservice”. Fresh Fruit Portal. 13 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2019.
  68. ^ “Okanagan Specialty Fruits: Biotechnology Consultation Agency Response Letter BNF 000132”. U.S. Food and Drug Administration. 20 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2019.
  69. ^ “Questions and answers: Arctic Apple”. Canadian Food Inspection Agency, Government of Canada. 8 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2019.
  70. ^ Yu, Xiuzhu; Van De Voort, Frederick R.; Li, Zhixi; Yue, Tianli (2007). “Proximate Composition of the Apple Seed and Characterization of Its Oil”. International Journal of Food Engineering. 3 (5). doi:10.2202/1556-3758.1283. S2CID 98590230.
  71. ^ Fabiani, R; Minelli, L; Rosignoli, P (tháng 10 năm 2016). “Apple intake and cancer risk: a systematic review and meta-analysis of observational studies”. Public Health Nutrition. 19 (14): 2603–17. doi:10.1017/S136898001600032X. PMID 27000627.
  72. ^ a b c d e f “General Information – Apple”. Informall. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2011.
  73. ^ Landau, Elizabeth, Oral allergy syndrome may explain mysterious reactions Lưu trữ 15 tháng 12 2011 tại Wayback Machine, 8 tháng 4 năm 2009, CNN Health, truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2011
  74. ^ Nelson, Lewis S.; Shih, Richard D.; Balick, Michael J. (2007). Handbook of poisonous and injurious plants. Springer. tr. 211–212. ISBN 978-0-387-33817-0. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2013.
  75. ^ “Amygdalin”. Toxnet, US Library of Medicine. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2017.

Đọc thêm

Thư mục

Liên kết ngoài