Cao Ly Thành Tông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cao Ly Thành Tông
고려 성종
Vua Cao Ly
Tại vị981 – 997
Tiền nhiệmCao Ly Cảnh Tông
Kế nhiệmCao Ly Mục Tông
Thông tin chung
Sinh15 tháng 1 năm 961
Cao Ly Quốc
Mất29 tháng 11 năm 997 (36 - 37 tuổi)
Gaegyeong, Cao Ly Quốc
An tángKhang lăng
Hậu phiVăn Đức Vương hậu
Văn Hòa Vương hậu
Hậu duệxem văn bản
Thụy hiệu
Khang Uy Chương Hiến Quang Hiếu Hiến Minh Tương Định Văn Ý Đại vương
(康威章宪光孝献明襄定文懿大王)
Hoàng tộcHoàng tộc họ Vương
Thân phụCao Ly Đới Tông
Thân mẫuTuyên Nghĩa Vương hậu
Cao Ly Thành Tông
Hangul
성종
Hanja
成宗
Romaja quốc ngữSeongjong
McCune–ReischauerSŏngjong
Hán-ViệtThành Tông

Cao Ly Thành Tông (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương triều Cao Ly. Ông là con trai thứ hai của Vương Húc,[1] và vợ đồng thời là em gái cùng cha khác mẹ với ông ta là Tuyên Nghĩa Vương hậu.[2], và là vương tôn của Cao Ly Thái Tổ. Tên thật của ông là Vương Trị (왕치; 王治), tự là Ôn Cổ (온고; 溫古).

Hai em gái ruột của ông là Hiến Ai Vương hậuHiến Trinh Vương hậu. Do cha mẹ mất sớm nên ba anh em bà sống cùng với bà nội là Thần Tĩnh Vương thái hậu.[3]

Cao Ly Cảnh Tông (anh họ của ông) mất sớm vào ngày 13 tháng 8 năm 681, người con trai duy nhất của ông ta, Vương Tụng khi đó chỉ mới 1 tuổi nên Vương Trị đã lên kế vị, tức là Cao Ly Thành Tông.[4]

Trị vì[sửa | sửa mã nguồn]

Cải cách và ngoại giao thời kỳ đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Vừa lên ngôi vua, Thành Tông đã phong cho Hiến Ai Vương hậu (em gái của Thành Tông, vợ của Cao Ly Cảnh Tông) thành Sùng Đức công chúa. Sau đó Sùng Đức công chúa bị Thành Tông buộc phải rời khỏi hoàng cung Khai Thành và sống bên ngoài Khai Thành cùng con trai bà ta là Vương Tụng. Thành Tông truy tôn cho cha mình là Vương Húc trở thành Cao Ly Đới Tông. Là một góa phụ, Hiến Trinh Vương hậu (em gái của Thành Tông, vợ của Cao Ly Cảnh Tông) cũng phải chuyển đến nhà mẹ đẻ bên ngoài cung điện ở Khai Thành; ngôi nhà gần với người chú cùng cha khác mẹ của bà ta, Vương Uất, nằm ở chùa Vương Luân tự (왕륜사, 王輪寺), núi Songak.[5] Vì luật pháp Cao Ly cấm thái hậu tiếp cận những người đàn ông khác nên bà ta thường đến thăm chú của mình và khi họ dành thời gian bên nhau, họ trở nên thân thiết.[5]

Em gái của Cao Ly Cảnh TôngVăn Đức Vương hậu Lưu thị (문덕 왕후 유씨, 文德王后 劉氏)[6] trở thành Vương hậu của Thành Tông (dù trước đó bà ta từng lấy Hoằng Đức Viện quân Vương Khuê và hạ sinh Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị). Bà ta trở thành Vương hậu Cao Ly đầu tiên tái hôn. Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị được Thành Tông trực tiếp nuôi dạy và được coi như là con đẻ, do đó nhiều người tin rằng Tuyên Chính Vương hậu là con gái ruột của Thành Tông.

Thành Tông đã tiến hành cải cách tại Cao Ly và tạo lập vương quốc thành một chế độ quân chủ tập trung trên nền tảng Nho giáo vững chắc. Ông đã nhấn mạnh sự trong sạch và khiết tịnh đối với hai em gái của mình là Sùng Đức công chúaHiến Trinh Vương hậu. Năm 983, ông thành lập hệ thống gồm 12 mục, các đơn vị hành chính chiếm ưu thế trong phần lớn giai đoạn về sau của Cao Ly. Ông cử những người đàn ông được học hành đến mỗi mục để giám sát giáo dục địa phương. Điều này được dự định là một cách để tích hợp tầng lớp quý tộc của đất nước vào bộ máy quan lại mới. Trong năm 983, Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) đã đạt điểm cao nhất trong kỳ thi tuyển quan lại và đủ tiêu chuẩn làm quan cho triều đình Cao Ly ở tuổi 36. Từ Hi (Seo Hui) được Thành Tông giao chức Binh quan Ngự sự (兵官御事 Byeonggwan eosa), phụ trách việc quân sự.

Cùng năm 983, Thành Tông sai sứ sang nhà Tống xưng thần với vua Tống Thái Tông, định kỳ hằng năm triều cống cho nhà Tống. Thành Tông bỏ niên hiệu riêng, tiến hành dùng niên hiệu của nhà Tống. Ngoài ra Thành Tông còn buộc bá quan Cao Ly gọi mình là "điện hạ", thay vì gọi là "bệ hạ" như trước, vì danh xưng "bệ hạ" chỉ xứng đáng với hoàng đế nhà Tống. Từ đó Cao Ly đã trở thành nước chư hầu của nhà Tống (sau này nhà Triều Tiên cũng dùng cách gọi các vua Triều Tiên là "điện hạ" thay vì "bệ hạ" để tỏ lòng thần phục các triều đại của Trung Quốc).

Năm 985, vua Tống Thái Tông của nhà Tống sai sứ giả sang Cao Ly yêu cầu Thành Tông phát binh cùng Tống đánh nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Thành Tông lấy cớ quân đội Cao Ly lâu ngày không được tập luyện, còn yếu kém để từ chối sứ giả nhà Tống.

Biết được sức mạnh quân sự của nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) yếu hơn so với nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) và thường thua trận trước họ, cùng năm 985, vua Ô Huyền Minh của Định An Quốc cử sứ giả đến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) và cầu cứu. Nhưng Thành Tông đã từ chối lời đề nghị đó và đã dùng vũ lực đuổi sứ giả Định An Quốc ra ngoài hoàng cung.

Tháng 1 năm 986, nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) đã ra quân tiêu diệt quốc gia của người Bột Hải là Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh) và sáp nhập Định An Quốc vào lãnh thổ nhà Liêu. Điều này khiến cho Thành Tông lo lắng. Các hành động quân sự này của nhà Liêu diễn ra rất gần với lãnh thổ Cao Ly, cộng thêm nhà Liêu từng dự tính xâm lược vào Cao Ly năm 947 (song hủy bỏ), cùng quan hệ ngoại giao và văn hóa bền chặt giữa Cao Lynhà Tống, quan hệ nhà Liêu-Cao Ly do vậy cực kỳ kém. Cả nhà Liêu và Cao Ly đều nhìn nhận đối phương như một mối đe dọa quân sự; nhà Liêu sợ rằng Cao Ly sẽ cố gắng kích động các cuộc nổi loạn trong số cư dân Bột Hải sống tại lãnh thổ Liêu, trong khi Cao Ly lo sợ bị nhà Liêu xâm lược.

Do đã lấy hai người vợ là Văn Đức Vương hậu Lưu thị (문덕왕후 유씨) và Văn Hòa Vương hậu Kim thị (문화왕후 김씨) nhưng vẫn chưa có con trai để kế vị ngôi vua sau này, chỉ toàn sinh con gái, Thành Tông quyết định nạp thêm phu nhân. Người được chọn là Diên Xương Cung phu nhân Thôi thị (연창궁부인 최씨),[7] con gái của Học giả Nho giáo Thôi Hành Ngôn, và gia đình Thôi Hành Ngôn này chưa từng có quan hệ hôn nhân với một thành viên hoàng tộc Cao Ly nào. Do đó cuộc hôn nhân này là điều bất thường vào thời điểm đó. Tuy nhiên Diên Xương Cung phu nhân sau khi lấy Thành Tông cũng chỉ sinh hạ con gái là Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị (원화왕후 최씨).[8][9]

Năm 990, Thành Tông phong cho con của Sùng Đức công chúa (em gái của Thành Tông) là Vương Tụng (khi đó mới 10 tuổi) làm người kế vị của mình do ông không sinh được con trai. Vương Tụng được Thành Tông sai người đưa vào hoàng cung Khai Thành và nuôi dạy như con ruột của mình. Vợ thứ hai của Thành Tông là Văn Hòa Vương hậu Kim thị đã trực tiếp nuôi dạy Vương Tụng. Vương Tụng lớn lên cùng với Tuyên Chính Vương hậu như em trai với chị gái, Vương Tụng cũng được cho là thích đi theo Tuyên Chính Vương hậu vì bà ta đã chăm sóc ông ta từ khi còn nhỏ.

Năm 991 Thái hậu Tiêu Xước của nhà Liêu phái quân Khiết Đan tấn công người Nữ Chân ở hạ lưu sông Áp Lục. Khi đó nhà Liêu đã bắt đầu các cuộc tấn công chống lại Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông).

Giải quyết những vụ bê bối của hai người em gái[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc này, Sùng Đức công chúa (mẹ của Vương Tụng, người cháu đã được Thành Tông chọn là người sẽ kế vị ông sau khi ông qua đời) gặp Kim Trí Dương (김치양, 金致陽, Kim Chi-yang), người đến từ gia tộc họ Kim ở Dongju và đã đi tu từ rất sớm. Thường xuyên gặp Kim Trí Dương, bà ta đến để thông cảm với ông ta, nhưng khi Thành Tông biết chuyện này của bà thì ra lệnh cấm bà ta và Kim Trí Dương gặp nhau. Tuy nhiên, bà ta vẫn bí mật gặp Kim Trí Dương, việc này khi lộ ra đã gây náo loạn trong cung, nhưng Thành Tông đã nhanh chóng kết thúc vụ bê bối này và trấn an người dân bằng cách tống Kim Trí Dương đi lưu đày.

Năm 992, Thành Tông cử Từ Hi (Seo Hui) tham gia đoàn ngoại giao của Cao Ly sang Tống (đời vua Tống Thái Tông) để tái lập quan hệ ngoại giao giữa Cao Lynhà Tống. Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) gia nhập triều đình Cao Ly ở kinh đô Khai Thành khi được thăng lên chức Lễ Bộ thị lang.

Cũng trong năm 992, Quốc Tử giám (국자감, 國子監, Gukjagam) đã được xây dựng trong kinh thành Khai Thành của Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông). Quốc Tử giám này là một phần trong chương trình cải cách Nho giáo chung của Thành Tông, cùng với các kỳ thi công chức khoa cử (과거, 科擧, gwageo) và các trường học cấp tỉnh hương giáo (향교, 鄕校, hyanggyo). Nó hình thành nên nền tảng của hệ thống giáo dục Nho giáo mà ông đã hình dung. Thánh chỉ ban đầu của Thành Tông trong năm 992 là cung cấp đất đai và nô lệ để hỗ trợ trường học Quốc Tử giám. Tuy nhiên, chi phí học phí vẫn ở mức cao đối với hầu hết những học viên không thuộc các gia đình giàu có.

Vương Uất (왕욱), chú ruột của Thành Tông, thường xuyên qua lại cung phủ của Hiến Trinh Vương hậu (em gái của Thành Tông). Từ đó hai người nảy sinh tình cảm mà tư thông với nhau. Kết quả là Hiến Trinh Vương hậu đã mang thai.[10]

Theo Cao Ly sử, vào cuối tháng 7 năm 992, khi Hiến Trinh Vương hậu đang ở nhà của Vương Uất, một nô lệ đã chất củi ngoài sân rồi đốt lửa. Ngay khi ngọn lửa bắt đầu lan rộng, một quan chức đã chạy đến dập lửa. Thành Tông cũng lao vào giải cứu họ và khi phát hiện ra việc Hiến Trinh Vương hậu đang có thai với Vương Uất. Nổi giận, Thành Tông đã hạ lệnh lưu đày Vương Uất đến Sasu-hyeon (nay là Sacheon-si, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc) để trị tội.[5] Hồ sơ cho biết Hiến Trinh Vương hậu đã khóc trong xấu hổ và trở về dinh thự của mình, nhưng ngay khi bà ta đến cổng, đã có một chuyển động của thai nhi.[11] Bà ta bám vào cành liễu và cuối cùng sinh ra một đứa con trai là Vương Tuân vào ngày 1 tháng 8 năm 992,[12] nhưng bà ta qua đời ngay sau đó trong cùng ngày.[5][11]

Mặc dù sự ra đời của Vương Tuân không bình thường, nhưng cha của Vương Tuân cũng là con trai của người sáng lập Cao Ly, vì vậy Vương Tuân đã có thể sống dưới sự bảo vệ cao độ của Thành Tông. Do Vương Tuân lúc đó còn nhỏ nên Vương Tuân được Thành Tông đưa vào cung và giao cho một bảo mẫu chăm sóc.[3] Tuy nhiên Vương Tuân lại nhớ cha nên Thành Tông quyết định gửi Vương Tuân đến Sasu-hyeon sống với Vương Uất.[13] Họ đã sống cùng nhau tại Gwiyangji.

Cuộc xâm lược của nhà Liêu năm 993[sửa | sửa mã nguồn]

Bản đồ quân đội nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) xâm lược Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) từ tháng 11 đến tháng 12 năm 993.

Tháng 11 năm 993, Thái hậu Tiêu Xước của nhà Liêu phái quân Khiết Đan xâm lược Cao Ly. Quân Khiết Đan tấn công đến thành Pongsan, biên giới tây bắc của Cao Ly với khoảng 60.000 quân. Quân Cao Ly bị quân Liêu do Tiêu Tốn Ninh (蕭遜寧) chỉ huy liên tiếp đánh bại, thành Hưng Hóa (Heunghwa) của Cao Ly cũng rơi vào tay quân Liêu và quân Cao Ly bị quân Liêu dồn xuống phía nam sông Đại Đồng. Các tướng lĩnh nhà Liêu tuyên bố rằng họ có 80 vạn quân,[14][15] yêu cầu Cao Ly nhượng cho nhà Liêu một số lãnh thổ quanh sông Áp Lục. Tiêu Tốn Ninh đã viết thư yêu cầu Thành Tông phải đầu hàng: "Đất nước vĩ đại của chúng tôi sắp thống nhất đất đai bốn phương" và để biện minh cho cuộc xâm lược này bằng cách buộc tội Cao Ly: "Đất nước của ngài không quan tâm đến nhu cầu của người dân, chúng tôi thay mặt nó long trọng thực hiện hình phạt của trời". Thành Tông kêu gọi đồng minh quân sự là nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) giúp đỡ, song không có sự hỗ trợ nào của nhà Tống đối với Cao Ly. Quân Liêu yêu cầu Cao Ly đầu hàng và dâng đất cho nhà Liêu. Quân Liêu tiến quân vững chắc về phía nam, đến khu vực sông Thanh Xuyên. Tại đây quân Liêu kêu gọi tiến hành các cuộc đàm phán giữa các lãnh đạo quân sự của hai bên Liêu và Cao Ly. Nhà Liêu thoạt đầu yêu cầu Cao Ly đầu hàng hoàn toàn. Sau một sự bế tắc quân sự,[16] các cuộc đàm phán bắt đầu giữa hai nước, đưa đến những nhượng bộ sau: Thứ nhất, Cao Ly chính thức chấm dứt mọi quan hệ với nhà Tống, đồng ý cống nạp cho nhà Liêu và dùng niên hiệu của nhà Liêu.[17][18][19]

Ban đầu, Thành Tông định chấp nhận dâng đất cầu hòa, lên kế hoạch theo lời khuyên của những nhà đàm phán để nhường lãnh thổ phía bắc Bình Nhưỡng ngày nay cho nhà Liêu và vẽ biên giới Liêu-Cao Ly theo một đường thẳng giữa Hoàng ChâuP'aryŏng.[20] Tuy nhiên, Từ Hi (Seo Hui) tin rằng quân Liêu đang hành động với tư thế họ "sợ hãi chúng ta" và cầu xin nhà vua "trở về kinh đô và để chúng tôi, các tướng sĩ của ngài, tiến hành thêm một trận chiến nữa". Vì vậy, gọi một cách khoa trương vùng đất mà Cao Ly Quang Tông đã chinh phục từ người Nữ Chân và vùng đất mà người Khiết Đan nhà Liêu hiện nắm giữ là "lãnh thổ Cao Câu Ly cũ". Kết quả, Từ Hi (Seo Hui) đã thuyết phục được Thành Tông nên ra sức chiến đấu.[20]

Quân Liêu tiến đánh Quy Châu (Gwiju). Quân Cao Ly ở đây nỗ lực chống trả đến cùng khiến quân Liêu phải chia quân bao vây Quy Châu (Gwiju) và nam hạ tấn công thành An Nhung (Anyung). Tướng Liêu thống lĩnh cánh quân Liêu đi đánh An Nhung là Xiao Hengde.

Sau đó, hậu duệ của vương quốc Bột HảiĐại Đạo Tú (con trai của thái tử Đại Quang Hiển, hậu duệ đời thứ 11 của Đại Dã Bột - đệ của Bột Hải Cao Vương) cùng Phó trung lang tướng Yu Bang đã lãnh đạo quân dân Cao Ly tại thành An Nhung (Anyung) đánh bại quân Liêu do Xiao Hengde chỉ huy.[21] Sau trận đánh thành An Nhung (Anyung), quân Liêu đã bị chặn lại. Đại quân Cao Ly từ phía nam cũng đến chi viện cho thành An Nhung.

Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) đã đề nghị Thành Tông tiến hành đàm phán với quân Liêu đế tránh chiến tranh kéo dài. Từ Hi (Seo Hui) đã tình nguyện ra đàm phán trực tiếp với tướng Khiết Đan là Tiêu Tốn Ninh. Ông ta sang doanh trại quân Liêu, thuyết phục tướng Liêu rằng Cao Ly kế thừa Cao Câu Ly, điều đã được Tiêu thái hậu và người Khiết Đan chấp nhận. Quân Liêu đồng ý và rút lui. Cao Ly lấy lại được phần đất bị Liêu chiếm và vùng thượng du sông Áp Lục (lúc đó đang bị chiếm giữ bởi các bộ tộc Nữ Chân chuyên rắc rối cho nhà Liêu, với lý do rằng trong quá khứ vùng đất này thuộc về Cao Câu Ly)[22][23][24] được hợp nhất vào lãnh thổ Cao Ly.[20] Tuy nhiên Cao Ly trở thành chư hầu của nhà Liêu.[25]

Vì vậy, Từ Hi báo cáo với Thành Tông rằng ông ta đã ký một thỏa thuận với Tiêu Tốn Ninh để cùng "tiêu diệt người Nữ Chân" và chiếm giữ đất đai của họ để Cao Ly và Liêu có biên giới đất liền gần hơn và quan hệ triều cống tương xứng. Ông ta than thở rằng người Nữ Chân sẽ chỉ cho phép Cao Ly vùng đất phía nam sông Áp Lục, nhưng đã hình dung ra một tương lai trong đó tình trạng giam cầm này sẽ thay đổi.[20]

Quân Khiết Đan rút lui vào tháng 12 năm 993 và nhượng lại lãnh thổ phía đông sông Áp Lục sau khi Cao Ly đồng ý chấm dứt liên minh với nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông).

Tình hình chính trị thời kỳ cuối[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 994, trao đổi ngoại giao theo thường lệ giữa nhà LiêuCao Ly được bắt đầu, còn mối quan hệ giữa Cao Lynhà Tống không thể ấm lên.[26]

Tuy nhiên, Cao Ly sau đó vẫn tiếp tục giao thiệp với nhà Tống cùng năm 994[27] và đã củng cố vị thế của mình bằng cách xây dựng Thiên Lý Trường Thành tại vùng lãnh thổ phía bắc mới giành được.[20][28] Từ Hi (Seo Hui) được Thành Tông cử đến củng cổ lãnh thổ mới được mở rộng này.

Ngày 24 tháng 7 năm 996 chú của Thành Tông là Vương Uất qua đời tại Sasu-hyeon (nay là Sacheon-si, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc) - nơi ông ta bị lưu đày từ năm 992.[13] Ông ta được chôn cất tại Vũ lăng (무릉, Mureung)[29].

Đầu năm 997, Vương Tuân (con trai của Vương UấtHiến Trinh Vương hậu) từ Sasu-hyeon (nay là Sacheon-si, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc) trở về kinh đô Khai Thành và tiếp tục được Thành Tông bảo vệ cao độ. Vợ thứ hai của Thành Tông là Văn Hòa Vương hậu Kim thị đã trực tiếp nuôi dạy Vương Tụng, nay cũng nuôi dạy luôn cả Vương Tuân.

Ông qua đời vì bạo bệnh vào ngày 29 tháng 11 năm 997, hưởng dương 36 tuổi. Ngai vàng được trao cho người cháu trai, là con của Cảnh Tông với Sùng Đức công chúa, tức Cao Ly Mục Tông Vương Tụng. Thụy hiệu: Khang Uy Chương Hiến Quang Hiếu Hiến Minh Tương Định Văn Ý Đại vương (康威章宪光孝献明襄定文懿大王; 강위장헌광효헌명양정문의대왕), táng tại Khang lăng (康陵).

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Thê tử[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Con trai thứ 7 của Cao Ly Thái Tổ, người sáng lập Cao Ly, cùng người vợ thứ 4 của ông ta, Thần Tĩnh Vương thái hậu] từ gia tộc Hoàng Châu Hoàng Phủ thị.[1]
  2. ^ Con gái thứ 5 của Cao Ly Thái Tổ, người sáng lập Cao Ly cùng người vợ thứ 6 là Trinh Đức Vương thái hậu của Gia tộc Chŏngju Yu.
  3. ^ a b “경종 후비 헌정왕후 황보씨”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  4. ^ “현종 총서”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  5. ^ a b c d Kim, Sung-chul (10 tháng 9 năm 2012). co.kr/news/articleView.html?idxno=21135 “안종 욱과 헌정왕후의 슬픈 사랑” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). NamhaeTimes. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2021. Đã bỏ qua tham số không rõ |lingu= (trợ giúp)
  6. ^ “고려시대 史料 Database”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  7. ^ a b 韓國女性關係資料集: 中世篇(中) [Collection of Korean Women's Relations: Middle Ages (Part 2)] (bằng tiếng Hàn). Ewha Womans University Women's Research Center: Ewha Womans University Press. 1985. tr. 16. ISBN 9788973000432.
  8. ^ “원화왕후”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2021.
  9. ^ a b “고려시대 史料 Database”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2021.
  10. ^ {{chú thích web|url=http://db.history.go.kr/KOREA/search/searchResult.do?sort=levelId&dir=ASC&start=-1&limit=20&page=1&pre_page =1&itemIds=&indexSearch=N&codeIds=PERIOD-0-3&synonym=off&chinessChar=on&searchTermImages=%ED%9A%A8%EC%88%99%EC%99%95%ED%83%9C%ED%9B%84%C2% A0&searchKeywordType=BI&searchKeywordMethod=EQ&searchKeyword=%ED%9A%A8%EC%88%99%EC%99%95%ED%83%9C%ED%9B%84&searchKeywordConjunction=AND#searchDetail/kr/kr_004r_0010/3/0/3 /r|title=현종 총서|website=Goryeosa|access-date=23 tháng 9 năm 2021|ngôn ngữ=ko}
  11. ^ a b “[Why] [이한우의 역사속의 WHY] 헌애·헌정 자매의 싸움… 고려 王씨 왕조가 김씨 왕조가 될 뻔” (bằng tiếng Hàn). 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2023.
  12. ^ Queen Heonjeong Lưu trữ 2016-03-05 tại Wayback Machine (tiếng Triều Tiên)
  13. ^ a b City, Sacheon (28 tháng 9 năm 2020). “고려현종 부자상봉길의 정점은 고자정 그리고 안종능지”. m.blog.naver.com (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.
  14. ^ Nahm 1988, p. 89.
  15. ^ Twitchett & Tietze 1994, p. 103.
  16. ^ Twitchett, Denis C.; Franke, Herbert; Fairbank, John King (1978). The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States, 907-1368 (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 103. ISBN 9780521243315. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016.
  17. ^ Ebrey & Walthall 2014, [2], tr. 171, tại Google Books
    Liao forces invaded Goryeo territory in 993. Instead of pushing for total victory, the Khitans negotiated a peace that forced Goryeo to adopt the Liao calendar and end tributary relations with Song (a violation of King Taejo’s testamentary injunction never to make peace with the Khitan)."
  18. ^ Hyun 2013, p. 106: "the Khitan army attacked Goryeo, who was forced to accept the status of a Liao tributary in 994."
  19. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.103: "The Korean king was invested with his title by the Liao emperor."
  20. ^ a b c d e Lee, Peter H; Baker, Donald; Ch'oe, Yongho; Kang, Hugh H W; Kim, Han-Kyo biên tập (1997). “Sŏ Hŭi: Arguments on War [from Koryŏ sa chŏryo 2:49b-52b]”. Sourcebook of Korean Civilization. 1. New York: Columbia University Press. tr. 298–301.
  21. ^ Lee, Peter H. (1993). Sourcebook of Korean civilization. 1: From early times to the sixteenth century (ấn bản 1). New York: Columbia University Press. tr. 299. ISBN 978-0231079129.
  22. ^ Kim, Djun Kil (30 tháng 5 năm 2014). The History of Korea, 2nd Edition (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. tr. 66. ISBN 9781610695824. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016.
  23. ^ Yun 1998, p.64: "By the end of the negotiation, Sô Hûi had ... ostensibly for the purpose of securing safe diplomatic passage, obtained an explicit Khitan consent to incorporate the land between the Ch’ôngch’ôn and Amnok Rivers into Koryô territory."
  24. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.102: "Until the 980s Khitan-Koryǒ relations had been at arm’s length, for the Jurchen tribes and Ting-an had provided a buffer zone between Koryǒ's northern frontier and the Liao border". p.103: "Koryǒ was left free to deal with the Jurchen tribes south of the Yalu Valley".
  25. ^ Twitchett and Tietze (1994), 103.
  26. ^ Twitchett and Tietze (1994), 103-104.
  27. ^ Hyun 2013, p.106: "Even though the Goryeo court agreed to set up tribute exchanges with the Liao court, that same year [=994] it also sent an envoy to the Song court to appeal, but in vain, for military assistance against the Khitan."
  28. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.103.
  29. ^ “고려시대 史料 Database”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.
  30. ^ “고려시대 史料 Database”. Goryeosa (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  • Lee, K.-b. (1984). A new history of Korea. Tr. by E.W. Wagner & E.J. Schulz, based on the Korean rev. ed. of 1979. Seoul: Ilchogak. ISBN 89-337-0204-0