Nguyễn Xí

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Xí
阮熾
Đền thờ Nguyễn Xí nằm tại Khánh Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
Hữu Tướng Quốc
Tại vị1460 - 1463
Nhiếp chínhNhập nội Kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự Á quận hầu
Tiền nhiệmKhai quốc Công thần
Kế nhiệmĐinh Liệt
Thái úy Cương Quốc Công
Tại vị14631465
Tiền nhiệmNguyễn Sư Hồi
Thái Sư Cương Quốc Công
Tại vị14651466
Thông tin chung
Sinh1397 Thượng Xá, Chân Phúc, Nghệ An, Đại Việt lớn lên Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư của Đại Minh.
Mất1465 Mất Tại Thăng Long,Đại Việt
An táng1465
An Táng Tại Thượng Xá,Chân Phúc, Nghệ Tĩnh
Thê thiếpLê Thị Ngọc Lan
Ngô Thị Hoa
Trịnh Thị Hà
Hậu duệ16 Con trai 8 Con gái Xem văn bản
Tên đầy đủ
Nguyễn Xí
: 5
6
Tước hiệu
hoàng tộcNguyễn
Thân phụNguyễn Hội [1]
Lê Lợi
Thân mẫuVũ Thị Hành
Nghề nghiệpQuan Nhà Lê sơ (1397-1465)
Đại Vương Nhà Nguyễn (1465-1467)

Nguyễn Xí (chữ Hán: 阮熾; 13971465[1]) hay Lê Xí, là một vị tướng, nhà chính trị, công thần khai quốc nhà Hậu Lê và là đại thần trải qua 4 đời vua thời Hậu Lê.[2]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Xí sinh năm 1397, ông nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp. Vợ chồng ông có 2 người con: con trai cả là Nguyễn Khai và con trai thứ là Nguyễn Hội, tại đây ông Hợp đã cưới vợ cho con trai thứ Nguyễn Hội vợ là Vũ Thị Hành người làng Phượng Hoàng Trung Đô thành phố Vinh Nghệ An. Vào khoảng thế kỷ 14 cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là xã Khánh Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Tại đây Nguyễn Hợp đã cùng Nguyễn Hội khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai: Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam Sơn.

Năm lên 9 tuổi (1405), Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Lớn lên, Nguyễn Xí vũ dũng hơn người, được Lê Lợi yêu như con.

Lê Lợi sai ông nuôi hơn 100 con chó săn, ông dùng tiếng nhạc làm hiệu lệnh, bầy chó nghe theo, lúc đến, lúc đi đều nhau như một. Lê Lợi khen ngợi, cho là có tài làm tướng, cho sai quản đội quân Thiết Đột.[3]

Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn[sửa | sửa mã nguồn]

Đại phá Vương Thông ở Tốt Động[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1418, mùa xuân, tháng Giêng, ngày Canh Thân, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí và anh trai Nguyễn Biện cùng tham gia, lúc đó ông 22 tuổi

Ngày 16, tháng Giêng, tên phản bội Ái, dẫn quân Minh đi theo đường tắt, đánh úp đằng sau, bắt gia thuộc Lê Lợi và nhiều vợ con quân dân. Quân sĩ chán nản bỏ đi, chi có Lê Xí cùng Lê Lễ, Lê Náo, Lê Bí, Lê Đạp theo Lê Lợi nương náu trên núi Chí Linh.

Tháng 8 năm 1426, sau khi làm chủ từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.

Đền thờ Nguyễn Xí

Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan (Thăng Long, Hà Nội).

Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. Quân Vân Nam chạy về cố thủ ở thành Xương Giang. Vua Minh lại sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.

Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, ông biết Thông định chia dường, hẹn nhau khi pháo nổ thì quân mặt trước mặt sau cùng đánh úp Lê Triện. Ông và Đinh Lễ bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động, rồi đốt pháo giả làm hiệu cho quân Minh tiến vào. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.

Vượt ngục Đông Quan[sửa | sửa mã nguồn]

Lê Lợi được tin thắng trận liền tiến đại quân ra bắc, vây thành Đông Quan. Nguyễn Xí được lệnh cùng Đinh Lễ mang quân vây phía nam thành.

Tháng 2 năm 1427, tướng Minh là Phương Chính đánh úp Lê TriệnTừ Liêm, Triện bị tử trận. Tháng 3 Vương Thông đánh trại quân Lam Sơn ở Tây Phù Liệt. Nguyễn Xí cùng Đinh Lễ mang 500 quân thiết đột tiếp viện, đánh đuổi quân Minh đến My Động. Hậu quân Lam Sơn không theo kịp, Vương Thông bèn quay lại đánh, hai tướng cưỡi voi bị sa xuống đầm lầy, bị quân Minh bắt mang về thành. Đinh Lễ không chịu hàng bị giết, còn Nguyễn Xí nhân một đêm mưa gió dùng mưu lừa quân gác ngục trốn thoát trở về. Lê Lợi thấy ông về thì mừng rỡ, nói rằng: "Thực là sống lại"[4].

Sau đó ông lại cầm quân tham gia trận chiến Xương Giang tiếp ứng cho Lê Sát bắt được Hoàng Phúc, Thôi Tụ là đạo viện binh sót lại sau khi Liễu Thăng bị chém. Đó là trận thắng lợi kết thúc khởi nghĩa Lam Sơn.

Hình ảnh điện Kính Thiên vào thế kỉ 15, nơi Lê Thái Tổ tuyên bố lên ngôi vào năm 1428.

Công thần 4 đời vua[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, tức Lê Thái Tổ. Nguyễn Xí được phong chức Long hổ tướng quân Suy trung bảo chính công thần, đặc ân khai quốc.

Năm 1429, khi khắc biển công thần, Nguyễn Xí được xếp hàng thứ 5, được phong làm Huyện hầu, Được Ban quốc tính Họ Vua .

Năm 1433, hoàng đế Lê Thái Tổ mất, ông cùng Phạm Vấn, Lê Sát, Lê Ngân nhận di chiếu của Lê Lợi phò Thái tử Lê Nguyên Long lên ngôi, tức hoàng đế Lê Thái Tông lúc mới 10 tuổi, ông giữ chức phụ nhiếp chính cai giáo hoàng đế.

Năm 1437, Lê Thái Tông phong ông làm chức quan Chính sự kiêm Tri từ tụng. Ngày 4 tháng 8, năm 1442, Lê Thái Tông đến trại Vải của nhà Hành khiển Nguyễn Trãi. Ngay tại trại vải này, Hoàng đế băng hà và tạo nên nghi án Lệ Chi Viên.[5]

Sau khi hoàng đế Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò hoàng đế Lê Nhân Tông.

Ngày 12 tháng 8, đại thần là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ nhận di mệnh cùng với Đinh Liệt, Lê Bôi, tôn Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi, lúc đó mới 2 tuổi. Lấy năm sau làm Thái Hòa (大和), ông giữ chức phụ chính đại thần.

Năm Thái Hòa thứ nhất, tháng 2, Quí Hợi (1443), Lê Nhân Tông cùng quần thần mang kim sách dâng tôn hiệu Hoàng thái hậu cho Thần phi.[6] Các đại thần dâng tờ biểu mong bà buông rèm nhiếp chính, bà khiêm nhường không chịu nhận. Quần thần dâng biểu lần thứ 4, bà mới nhận lời.[7]

Năm 1445, vua Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính, ông làm Nhập nội Đô đốc, nhận lệnh cùng Lê Thận mang quân đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi thì bị quyền thần tố cáo tội lỗi nên bị bãi chức. Năm 1448, Nguyễn Xí được phục hồi chức Thiếu bảo tri quân dân sự.[6] Năm 1450 ông được thăng chức Thái Bảo giúp việc chính sự.

Tháng 10 năm 1459, anh khác mẹ Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân làm binh biến giết thái hậu Nguyễn Thị Anh và hoàng đế Nhân Tông. Nghi Dân lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng bị bại lộ đều bị giết. Thái bảo Nguyễn Xí bàn mưu với Lê Lăng (con Lê Triện), Lê Niệm (cháu nội Lê Lai), Điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung đảo chính lần nữa nhằm lật đổ Nghi Dân.

Ngày 6 tháng Sáu âm lịch năm 1460, Nguyễn Xí phát động binh biến, chém bầy tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở Nghị sự đường, nắm lấy cấm binh, đóng chặt cửa thành, sai Lê Ninh Thuận bắt vây cánh và phế vua Thiên Hưng làm Lệ Đức hầu, rước con út của Thái Tông là Tư Thành lên ngôi, tức là hoàng đế Lê Thánh Tông, mở ra một thời kỳ thịnh trị kéo dài 38 năm.[8]

Tháng 6 năm 1460, Nguyễn Xí được phong làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Nhập nội kiểm hiệu thái phó Bình chương quân quốc trọng sự Á quận hầu, giúp việc chính sự, ban túi kim ngư, kim ngân phù (ấn bạc), 5000 Mẫu đất làm đất phong. Tháng 10 năm đó ông được phong làm Sái quận công.

Năm 1462, con Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi không hợp cánh với một số đại thần nên làm thơ vứt ra đường để vu cho họ làm loạn nhưng việc bị phát giác. Vua Thánh Tông nể công lao của ông nên không trị tội Sư Hồi.[9] Năm đó ông được phong chức Nhập nội hữu tướng quốc. Năm 1463 lại được phong chức Thái úy Cương Quốc Công.

Năm 1465, Nguyễn Xí qua đời, thọ 69 tuổi, được truy tặng làm Thái sư, thụy là Nghĩa Vũ.

Đền thờ Nguyễn Xí

Hết tang, năm 1467, vua Lê Thánh Tông lại cho dựng đền thờ theo chế độ quốc tạo, quốc tế và lệnh cho Trạng nguyên Nguyễn Trung Trực viết văn bia phong thần là: "Thượng đẳng phúc thần, Hiển uy chính nghị anh kiệt Trung trinh đại vương".

Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), tặng làm Cương quốc công, Sau ban sắc phong thần "Thượng đẳng phúc thần, Hiển uy chính nghị anh kiệt trung trinh Đại vương", dựng đền ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.[10]

Năm 1485, Lê Thánh Tông truy phong cho cha Nguyễn Xí làm Thái bảo Đình Quận công Nguyễn Hội và anh trai Phiêu kỵ Thượng tướng quân, Thái phó Nguyễn Biện.

Theo Đại Việt thông sử, ông có 16 con trai và tám con gái. Con cháu Nguyễn Xí về sau theo giúp nhà Lê trung hưng.[11]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “Đền Nguyễn Xí khai hội”. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “:0” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ “Giải mã thiên tài quân sự Việt Nam không kém Khổng Minh”. kienthuc.net. 28 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2021.
  3. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
  4. ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr 179
  5. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khóa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, trang 405
  6. ^ a b Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản Kỷ, quyển X, Khoa học Xã hội - Hà Nội, năm 1993.
  7. ^ Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 150, 151 Dịch giả Ngô Thế Long
  8. ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 180.
  9. ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 181.
  10. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
  11. ^ Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, tr. 185.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]