Bước tới nội dung

The Fame

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ The Fame (album))
The Fame
Bìa album lưu hành quốc tế. Trên bìa bản Hoa Kỳ, chữ được in màu đỏ thay vì xanh và bức hình cũng mang nhẹ sắc đỏ.[1][2]
Album phòng thu của Lady Gaga
Phát hành19 tháng 8 năm 2008 (2008-08-19)
Thu âmTháng 1 – tháng 5 năm 2008
Phòng thu
Danh sách
Thể loại
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Lady Gaga
The Fame
(2008)
The Cherrytree Sessions
(2009)
Thứ tự album phòng thu của Lady Gaga
The Fame
(2008)
Born This Way
(2011)
Đĩa đơn từ The Fame
  1. "Just Dance"
    Phát hành: 8 tháng 4 năm 2008
  2. "Poker Face"
    Phát hành: 23 tháng 9 năm 2008
  3. "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"
    Phát hành: 10 tháng 1 năm 2009
  4. "LoveGame"
    Phát hành: 23 tháng 3 năm 2009
  5. "Paparazzi"
    Phát hành: 6 tháng 7 năm 2009

The Fame (tạm dịch: Danh tiếng) là album phòng thu đầu tay của nữ ca sĩ người Mỹ Lady Gaga, được phát hành vào ngày 19 tháng 8 năm 2008, thông qua hãng thu âm Interscope Records. Sau một khoảng thời gian sáng tác cho một số nghệ sĩ khác, Gaga quyết định cho phát hành album độc tấu cho cá nhân mình. Để thực hiện album, Gaga đã hợp tác với một số các nhà sản xuất thu âm, trong đó phải kể đến RedOne, Martin KierszenbaumRob Fusari. The Fame thuộc thể loại electropop, synth-pop, dance-pop và mang âm hưởng từ các dòng nhạc của thập niên 1980. Về phần lời ca, album nói chung thể hiện niềm khao khát danh tiếng của nữ ca sĩ trong khi phải đối mặt với các vấn đề như tình yêu, tình dục, thuốc phiện và tiền bạc. The Fame còn được quảng bá rộng rãi qua chuyến lưu diễn đầu tay của Gaga mang tên The Fame Ball Tour và các chương trình trình diễn truyền hình của nữ ca sĩ, sau đó được tái phát hành với một phiên bản cao cấp có tên The Fame Monster vào ngày 18 tháng 11 năm 2009.

Những đánh giá dành cho The Fame hầu hết đều tích cực. Nhiều nhà phê bình khen Lady Gaga có khả năng thanh nhạc và biểu diễn tuyệt vời, kết hợp với phần lời ca rất có ý nghĩa. Sản phẩm gặt hái được nhiều thành công thương mại, và giành được vị trí quán quân trên một số bảng xếp hạng âm nhạc tại Anh Quốc, Canada, Đức, Ireland, Thụy Sĩ và Ba Lan. Tại Hoa Kỳ, album đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 và dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Dance/Electronic Albums trong 107 tuần không liên tiếp. The Fame là album bán chạy thứ năm của năm 2009 và đạt doanh thu hơn 4,83 triệu bản được bán ra chỉ riêng tại Mỹ tính đến tháng 2 năm 2018, trở thành album tải kỹ thuật số bán chạy thứ bảy trong lịch sử. Tổng doanh số của The Fame cùng với The Fame Monster đạt hơn 15 triệu bản trên toàn thế giới tính tới tháng 11 năm 2010.

Hai đĩa đơn đầu tiên trích từ The Fame là "Just Dance" và "Poker Face" đều đạt được thành công vang dội ở phương diện quốc tế, dẫn đầu các bảng xếp hạng tại một số quốc gia, bao gồm Mỹ, Anh Quốc và Úc. Các đĩa đơn tiếp theo, "LoveGame" và "Paparazzi" cũng có nhiều thành công về mặt thương mại, khi lọt vào top 10 trên các bảng xếp hạng album tại hơn mười quốc gia trên thế giới. Đĩa đơn thứ ba, "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)", được phát hành với quy mô hạn chế, còn ca khúc "Beautiful, Dirty, Rich" trở thành đĩa đơn quảng bá cho album.

The Fame mang về cho Lady Gaga nhiều giải thưởng kể từ khi được phát hành. Tại Mỹ, album đã nhận được tổng cộng năm đề cử tại Giải Grammy lần thứ 52, bao gồm hạng mục Album của năm. Album giành giải ở hạng mục Album nhạc điện tử/dance xuất sắc nhất, còn đĩa đơn "Poker Face" đoạt giải Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất. Đến năm 2010, album tiếp tục giành giải Album quốc tế xuất sắc nhất tại Lễ trao giải BRIT năm 2010.[3] Album cũng có tên trong danh sách "100 album đầu tay xuất sắc nhất mọi thời đại" của tạp chí Rolling Stone được công bố vào năm 2013 và 2022.

Bối cảnh và phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm RedOne (ảnh năm 2017) là người sản xuất phần lớn các bài hát trong album.

Trong khoảng thời gian ổn định sự nghiệp bằng nghề ca sĩ và củng cố lại sự nghiệp tại các câu lạc bộ underground ở New York, Gaga quyết định cho ra mắt album phòng thu đầu tay của cô mang tên The Fame.[4] Bàn về tiêu đề của album và chủ đề mà album nói tới, Gaga giải thích:

Trong một cuộc phỏng vấn với đài MTV UK, Gaga khẳng định rằng cô đã dành hai năm rưỡi để thực hiện album và album đã được hoàn thành vào tuần đầu tiên của tháng 1 năm 2008.[6] Ngoài việc viết lời cho các ca khúc trong album, Gaga còn đảm nhiệm luôn trọng trách phối nhạc cho chúng với sự hỗ trợ của nam nhà sản xuất thu âm RedOne.[5] Gaga đã miêu tả ca khúc "Just Dance" trong album là một bài hát vui nhộn, tác động đến tâm lý người nghe, có khả năng lôi cuốn những người đang phải trải qua thời kì khó khăn trong cuộc sống.[7] "LoveGame", ca khúc thứ hai, được sáng tác dựa trên cảm hứng lấy từ tình yêu của Gaga dành cho một anh chàng cô gặp trong một hộp đêm. Cô thích anh đến nỗi muốn bày tỏ với anh rằng cô rất muốn "cưỡi" trên cây "gậy" disco (gậy ở một đầu có gắn nguồn sáng)[chú thích 1] của anh ta. Bài hát có thời lượng 4 phút và sở hữu một đoạn hook[chú thích 2] liên quan đến cây "gậy" disco.[8] Ca khúc tiếp theo, "Paparazzi", có thể được hiểu theo nhiều ý nghĩa. Gaga từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn của website About.com, bài hát xoay quanh sự thèm khát danh tiếng và tình yêu của nữ ca sĩ. "Paparazzi" về cơ bản là một bài hát về tình yêu, đã làm dấy lên nhiều câu hỏi từ giới truyền thông với nội dung liệu rằng con người ta có thể sở hữu cả tình yêu lẫn danh tiếng được không.[9]

Gaga sáng tác ca khúc "Poker Face" dựa trên cảm hứng từ những người bạn trai đam mê cờ bạc của mình và đồng thời từ những kinh nghiệm cá nhân về song tính luyến ái, với một số câu hát nói về niềm mê thích phụ nữ trong khi đang hưởng khoái lạc với đàn ông, từ đó thể hiện "khuôn mặt lãnh đạm" của cô.[10][11] Ca khúc "Boys Boys Boys" nằm trong album, được cho là lấy cảm hứng từ ca khúc "Girls, Girls, Girls" của ban nhạc Mötley Crüe của Mỹ. Gaga giải thích rằng cô muốn sáng tạo một phiên bản nữ tính của ca khúc gốc. "Beautiful, Dirty, Rich" thì lại tập trung mô tả quãng thời gian nữ ca sĩ tự khám phá bản thân, sống và làm việc tại khu phố Lower East Side và trải nghiệm thuốc phiện và ăn chơi tiệc tùng. Ca khúc kế tiếp, mang tựa đề "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" thì nói về chuyện chia tay với bạn trai và đang trên đường tìm một người thay thế. "Brown Eyes", một ca khúc do Gaga sáng tác với cảm hứng lấy từ ban nhạc rock người Anh Queen, là bài hát dễ làm người nghe xúc động nhất trong album (theo lời Gaga miêu tả).[5]

Gaga sau đó làm rõ hơn về những ý tưởng đằng sau album này, cũng như các nguồn cảm hứng và những gì cô thấy được từ album. Cô tin rằng thứ quan trọng nhất không hiện hữu trong thế giới nhạc pop lúc bấy giờ là sự kết hợp giữa hình tượng của nghệ sĩ và âm nhạc của họ. Cô đã hòa hợp những loại hình nghệ thuật sân khấu trong các buổi biểu diễn trực tiếp các ca khúc trong album. Nữ ca sĩ hy vọng mọi người sẽ thêm chú ý với nghệ thuật trình diễn, thứ mà cô đang cố gắng giúp cho nó "hồi sinh" thông qua album và âm nhạc của cô. Theo lời Gaga, âm nhạc của album đã giúp mang nghệ thuật trình diễn tới với người nghe nhạc.[12] Nữ ca sĩ từng chia sẻ:

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhạc mẫu:
    "Just Dance" (2008)
    Đoạn nhạc mẫu 24 giây trích từ bài hát "Just Dance", với nội dung miêu tả "cảm giác say sưa chè chén tại một bữa tiệc".[13]
    "Poker Face" (2008)
    Đoạn nhạc mẫu 23 giây trích từ "Poker Face", một bài hát xoay quanh chủ đề danh tiếng và "sự rắc rối trong tình yêu và cả tình dục".[14][15]
  • Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.

Xét về phương diện âm nhạc, album pha trộn giữa các thể loại nhạc electropop,[16] synth-pop,[17] dance-pop[18] và mang những âm hưởng từ âm nhạc thời những năm 1980.[19][20] Các bài hát "Poker Face", "Just Dance" và "LoveGame" là những bài hát nhạc dance có tiết tấu nhanh, trong đó "Poker Face" chứa đựng những âm thanh của thể loại dark electro với một chất giọng thanh nhẹ thể hiện ở phần điệp khúc và một đoạn hook mang phong cách pop.[14] "Just Dance" là một ca khúc mang đậm những tiếng đàn synthesizer còn "LoveGame" thì lại hơi hướng thuộc dòng nhạc dance và "Money Honey" thì sở hữu một giai điệu nhạc techno có tiết tấu vừa phải.[21] Tất cả các bài hát kể trên đều kết hợp những tiếng đàn synthesizer, chứa đựng những âm hưởng từ dòng nhạc điện tử và các phần nhạc nền gần thuộc thể loại R&B.[22] "Paparazzi" được miêu tả là sở hữu một phần nhạc nền đầy nhục cảm[23] trong khi bài hát "Summerboy" lại mang những âm hưởng từ các nhạc phẩm của ban nhạc Blondie.[24] "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" được cho là một bản ballad nhẹ nhàng so với những bài hát đậm chất nhạc dance trong The Fame.[18] Bài hát này có những âm thanh của dòng nhạc synth-pop những năm 1980[23] và kết hợp chặt chẽ với đoạn hook với câu hát "Eh, Eh" từ đĩa đơn năm 2007 của nữ ca sĩ Rihanna mang tên "Umbrella".[25]

Ca từ của album chủ yếu bàn về vấn đề trở nên nổi tiếng và đạt được hào quang, riêng "Poker Face" thì lại nói bóng gió về chuyện tình dục.[14] Gaga giải thích với tờ Daily Star của Anh Quốc rằng lời của bài hát này nói ẩn dụ về sự rắc rối trong tình yêu và cả tình dục.[15] Theo cổng thông tin BBC, đoạn hook "Mum-mum-mum-mah" xuất hiện trong bài hát là được lấy từ bản hit năm 1977 của nhóm nhạc Boney M. mang tên "Ma Baker".[26] Về phần "Just Dance", bài hát này cho người nghe thêm hiểu được về cảm giác say xỉn tại một bữa tiệc, với những câu hát như "What's going on on the floor? / I love this record, baby but I can't see straight anymore"[chú thích 3].[13] Bài hát "LoveGame" là một thông điệp về tình yêu, tình dục và danh tiếng góp phần khắc họa rõ hơn chủ đề chính của album cho người nghe.[27] "Paparazzi" thì lại khiến cho người nghe hình dung một tội nhân chuyên rình rập một ngôi sao nổi tiếng và tội nhân này là người hâm mộ cuồng nhiệt nhất của anh chàng ngôi sao.[28] Lời bài hát cũng đề cập đến sự ham muốn được làm tâm điểm của sự chú ý cũng như đạt được danh tiếng.[29] Gaga từng chia sẻ:

Tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?6.1/10[31]
Metacritic71/100[30]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[18]
The A.V. ClubB–[13]
Entertainment WeeklyB–[32]
The Guardian[22]
musicOMH[33]
The Phoenix[34]
PopMatters7/10[23]
Slant Magazine[35]
Sputnikmusic3.5/5[36]
URB[37]

Sau khi phát hành, The Fame đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình. Trên trang Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album nhận được 71 điểm, dựa trên 13 bài đánh giá.[30] Đại điện cho trang AllMusic, nhà phê bình Stephen Thomas Erlewine đã tặng album 5 trên 5 sao, miêu tả album là một "bản nhạc nghe thật gợi cảm với những tiếng đàn synthesizer làm từ thép không gỉ và giai điệu được cấu thành từ nhạc disco" và cho rằng album "vừa là" một nhạc phẩm "nhạc pop tuy dở tệ nhưng lộng lẫy, vừa là một bản parody có chất lượng tuyệt hảo của cái thứ nhạc phẩm nhạc pop ấy."[18] Nicole Powers từ tạp chí URB thì lại tán dương "những lời ca đầy rẫy sự châm biếm, được thể hiện theo một cách biểu diễn phần nào giống như Gwen Stefani" và "những bài hát ngắn gọn nhưng sang trọng" của album.[37] Nhà đánh giá Mikael Wood từ tạp chí Entertainment Weekly thì lại cho rằng The Fame "trong trắng một cách đáng kể khi nhìn thế giới bằng một viễn cảnh rằng không có gì tuyệt vời hơn trở nên thật đẹp và giàu sang. Trong thời đại hiện nay, cái ước muốn được thoát ly với thực tế có sự quyến rũ riêng của nó đấy".[32]

Nhà phê bình Alexis Petridis từ tờ The Guardian lúc bấy giờ nhận xét rằng album "chứa đựng một thứ giai điệu gây nghiện hoặc một đoạn hook khiến người ta không thể lờ đi được, hầu như tất cả yếu tố đó đều cấu thành nên một đĩa đơn hit thường lệ", và dự đoán rằng đĩa nhạc này có thể sẽ trở nên rất nổi tiếng.[22] Nhà phê bình Daniel Brockman từ báo The Phoenix thì đã có lời khen đến khả năng viết nhạc đã được cải thiện của Gaga.[34] Nhà đánh giá Ben Hogwood từ tạp chí musicOMH thì lại tán dương "sự trộn lẫn gồm một thứ thái độ kém lịch sự, những đoạn nhịp hơi khó nghe và kỹ năng viết nhạc sắc sảo, thâm thúy", là những yếu tố mà người này cho rằng đã đầy đủ để "tạo nên một bài hát nhạc pop".[33]

Dù chỉ trích các bài hát "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)", "Paper Gangsta" và "Brown Eyes", nhà phê bình Evan Sawdey từ tạp chí trực tuyến PopMatters đã gọi The Fame là một nhạc phẩm "nhạc dance chính hiệu" và viết nhận xét rằng "hầu hết thành công mà album đạt được là bởi nhà sản xuất thu âm RedOne."[23] Joey Gruerra từ báo Houston Chronicle cảm thấy rằng dù những bài hát trong The Fame không hề mang tính chất đổi mới, nhưng bù lại Gaga xứng đáng được công nhận vì đã mang lại nhạc dance chính hiệu cho quần chúng nhân dân thưởng thức.[38] Genevieve Koski từ tờ báo trực tuyến The A.V. Club nhận định rằng "bản chất chính" của album là "một thứ năng lượng có đính kim tuyến và một thứ âm nhạc thôi thúc mọi người".[13] Nhà phê bình Sal Cinquemani từ tạp chí Slant Magazine thì lại tin rằng lời ca do Gaga sáng tác dao động từ "không hay" cho đến "những lời nói bập bẹ không rõ ràng của con nít" và phong cách hát của Gaga thì lại "luôn thay đổi". Nhà phê bình này nói thêm rằng các bài hát điểm nhấn trong đĩa nhạc gồm "Poker Face", "Starstruck", "Paper Gangsta" và "Summerboy" đạt được thành công chủ yếu nhờ vào "phần âm nhạc sống động và những đoạn hook dễ hát theo."[35]

Nhà phê bình âm nhạc Freedom du Lac từ tờ The Washington Post thì lại phê bình album vì thiếu sự sáng tạo.[25] Nhà báo, nhà phê bình âm nhạc Robert Christgau của website MSN Music đã dành cho album những lời nhận xét tích cực.[39] Vào ngày 2 tháng 12 năm 2009, có nguồn tin công bố rằng album đã giành được năm đề cử giải Grammy. Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 52, The Fame được đề cử tại hạng mục Album của năm và đã đoạt được một giải cho hạng mục Album nhạc điện tử/dance xuất sắc nhất.[40][41]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • #100 (2013); #95 (2022) – Danh sách "100 album đầu tay xuất sắc nhất mọi thời đại" của tạp chí Rolling Stone.[42][43]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là một số giải thưởng và đề cử đáng chú ý mà The Fame đã nhận được.

Năm Giải thưởng Hạng mục Kết quả
2009 Giải thưởng Âm nhạc Hoa Kỳ[44] Album nhạc pop/rock được yêu thích Đề cử
Teen Choice Awards[45] Album (của một nghệ sĩ nữ) Đề cử
2010 Giải BRIT[46] Album quốc tế xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải thưởng Âm nhạc NRJ[47] Album quốc tế của năm Đề cử
Giải Grammy[48] Album của năm Đề cử
Album nhạc điện tử/dance xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải thưởng Âm nhạc Thế giới[49][50] Album xuất sắc nhất năm trên thế giới Đoạt giải
2011 Giải thưởng Âm nhạc Billboard[51] Album nhạc pop đứng đầu Đề cử
Album nhạc điện tử/dance đứng đầu Đoạt giải
Kỷ lục Thế giới Guinness[52] Album dạng nhạc số bán chạy nhất tại Anh Quốc Được ghi nhận
2012 Giải thưởng Âm nhạc Billboard[53] Album nhạc điện tử/dance đứng đầu Đề cử

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]
Lady Gaga chơi đàn synthesizer được giấu trong một chiếc xe Rolls-Royce cũ trước khi biểu diễn ca khúc "Just Dance" trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour.

Tại Hoa Kỳ, The Fame ra mắt trên bảng xếp hạng Billboard 200 tại vị trí 17 với doanh số bán ra là 24.000 bản tính đến ngày 15 tháng 11 năm 2008.[54][55] Sau khi nhiều lần tụt hạng trên bảng xếp hạng, vào ngày 7 tháng 3 năm 2009 album vươn lên được vị trí thứ 10.[56][57] Ngoài thành tích kể trên, album còn từng đứng đầu bảng xếp hạng Dance/Electronic Albums của tạp chí Billboard và giữ nguyên thứ hạng đó trong hơn 106 tuần không liên tiếp.[58] Tháng 3 năm 2010, Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) đã cấp chứng nhận 3× Bạch kim cho album vì doanh số nhập hàng của nó tại nước này đạt mốc ba triệu bản.[59] Cùng với phiên bản tái phát hành cao cấp của nó mang tên The Fame Monster và được gộp chung thành một album bản cao cấp, The Fame nhảy vọt từ vị trí thứ 34 đến vị trí thứ 6 trên Billboard 200 vì đã bán ra được hơn 151.000 bản sao.[60] Vào ngày 9 tháng 1 năm 2010, The Fame đạt được tuần lễ doanh số của nó với hơn 169.000 bản sao đã được tiêu thụ. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2010, album vươn lên hạng á quân trên Billboard 200 sau khi giữ vựng sự hiện diện của nó trên bảng xếp hạng này.[61] Đến cuối năm 2009, The Fame trở thành album bán chạy thứ năm của năm.[62]

Tính đến tháng 3 năm 2019, album đã bán ra hơn 4,83 triệu bản sao tại Hoa Kỳ[63] và là album bán chạy thứ bảy trên các cửa hàng nhạc số với doanh số bán ra là hơn một triệu bản.[64][65] Nếu tính luôn cả đơn vị album tương đương thì The Fame đã tiêu thụ được hơn 8,8 triệu bản tại quốc gia này.[66] 12 là thứ hạng của album trong danh sách 200 Album Đứng đầu Mọi thời đại (Top 200 Albums of All Time) của tạp chí Billboard.[67] Sau buổi biểu diễn của Gaga tại giờ giải lao của giải bóng bầu dục Super Bowl LI, The Fame một lần nữa lọt vào Billboard 200 tại vị trí thứ 6, tiêu thụ hơn 17.000 bản sao và hơn 38.000 đơn vị album tương đương.[68] Album đã góp mặt trong bảng xếp hạng này trong khoảng 200 tuần liên tiếp.[69]

Gaga biểu diễn ca khúc "LoveGame" trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour.

Tại Canada, album vươn lên vị trí quán quân và được chứng nhận 7× Bạch kim bởi tổ chức Music Canada với doanh số nhập hàng là 560.000 bản. Tính đến tháng 3 năm 2011, 476.000 bản album đã được tiêu thụ tại đất nước này.[70][71] Tại New Zealand, The Fame ra mắt tại vị trí thứ sáu[72] rồi đạt đến vị trí cao nhất mà nó từng giành được là thứ hai và được cấp chứng nhận 2× Bạch kim.[73] Ở Úc, album ra mắt tại vị trí thứ 12[74] rồi vươn lên đạt vị trí thứ 3, là vị trí cao nhất mà nó từng đạt được trên bảng xếp hạng của quốc gia.[75] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc (ARIA) đã cấp chứng nhận 4× Bạch kim cho album với doanh số nhập hàng của nó tại đây là 280.000 bản.[76]

The Fame ra mắt tại Anh Quốc đứng vị trí hạng ba với doanh số tuần đầu tiên là 25.288 bản.[77][78] Sau 10 tuần góp mặt vào top 10, nó đã soán ngôi album Songs for My Mother của nam ca sĩ Ronan Keating trở thành album quán quân.[79] Kể từ ấy, album tiếp tục nắm giữ vị trí cao nhất trong bốn tuần tiếp theo.[80] Tổ chức British Phonographic Industry sau đó đã cấp cho album chứng nhận 10× Bạch kim.[81] Tính đến tháng 10 năm 2018, album đã tiêu thụ hơn 2,99 triệu bản sao tại nước này.[82] Nó trở thành album đầu tiên được chứng nhận Bạch kim dựa trên doanh số bán ra trên các cửa hàng nhạc số với con số cụ thể là 300.000 đơn vị album tại Anh Quốc.[83] The Fame từ đó trở thành album bán chạy thứ chín tại Anh Quốc trong thế kỷ 21[84] và là album bán chạy thứ 31 trong lịch sử bảng xếp hạng album tại quốc gia này.[85]

Tại Pháp, album ra mắt tại vị trí thứ 73 rồi vươn lên vị trí thứ hai và giữ vững thứ hạng đó trong năm tuần. Hiệp hội Syndicat National de l'Édition Phonographique đã cấp chứng nhận Kim cương cho album với doanh số tiêu thụ của nó tại nước này là 630.000 bản tính đến tháng 2 năm 2012.[86][87] Tại Ireland, The Fame lần đầu tiên xuất hiện trên bảng xếp hạng album tại hạng 8,[88] đến tuần thứ năm album đạt vị trí quán quân và giữ vững vị trí này trong hai tuần liên tiếp.[89] Ở châu Âu, album từng giành được vị trí thứ nhất trên các bảng xếp hạng European Top 100 Albums,[90] Austrian Albums Chart (Áo) và German Albums Chart (Đức).[91] The Fame trở thành album có số lượt tải về nhiều thứ tư tại Đức.[92] Album cũng đã lọt vào top 20 tại Mexico, Bỉ, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp, Hungary, Ý, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Nga và Thụy Sĩ.[91] Cùng với phiên bản tái phát hành của mình, The Fame Monster, The Fame đã bán ra hơn 15 triệu bản trên toàn thế giới.[93][94]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Các buổi biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Gaga đã biểu diễn trực tiếp các bài hát trong album trên toàn thế giới với mục đích quảng bá album. Lần xuất hiện trên truyền hình đầu tiên của nữ ca sĩ là tại lễ trao giải NewNowNext Awards của kênh truyền hình Logo tổ chức vào ngày 7 tháng 6 năm 2008.[95] Ngoài ra, Gaga cũng đã biểu diễn tại sự kiện thời trang Stylenite được tổ chức trong thời gian tuần lễ thời trang Berlin Fashion Week diễn ra, tại cuộc thi tài năng nhảy múa So You Think You Can Dance,[96] trên chương trình Jimmy Kimmel Live!,[97] The Tonight Show with Jay Leno[98] và tại Việt Nam trong phần thi trang phục áo tắm của cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 57 được tổ chức tại đây.[99] Ngày 31 tháng 1 năm 2019, cô biểu diễn trên chương trình đối thoại Tubridy Tonight thuộc quyền sở hữu của kênh truyền hình RTÉ One của Ireland.[100] Ba bài hát trích từ The Fame cũng đã xuất hiện trong ba tập phim của bộ phim Gossip Girl thuộc quyền sở hữu của mạng truyền hình The CW: "Paparazzi" trong tập "Summer, Kind of Wonderful",[101] "Poker Face" trong tập "The Serena Also Rises"[102] và "Money Honey" trong tập "Remains on the J".[103] Ngày 1 tháng 4 năm 2009, Gaga trình diễn ca khúc "Poker Face" trên chương trình American Idol.[104]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Album còn được quảng bá rộng rãi nhờ chuyến lưu diễn hát chính đầu tay của nữ ca sĩ với cái tên The Fame Ball Tour, khởi đầu vào ngày 12 tháng 3 năm 2009 tại thành phố San Diego, California. Chuyến lưu diễn bao gồm các buổi hòa nhạc tại Bắc Mỹ vào tháng 3, tiếp đó là các buổi diễn tại châu Đại Dương và châu Âu. Kế đó là các đêm diễn tại châu Á, cũng như là hai màn trình diễn tại liên hoan âm nhạc V Festival (Anh) và hai đêm diễn tại Bắc Mỹ trước đó đã bị hoãn từ tháng 4. Gaga miêu tả chuyến lưu diễn như một chuyến du lịch đến các bảo tàng có hòa quyện những yếu tố nghệ thuật trình diễn trên sân khấu của Andy Warhol.[105] Tiền bán vé cũng đã được đem đi quyên góp từ thiện. Gaga chia sẻ rằng cô đã có dự định điều chỉnh chút ít thiết kế của các sân khấu trong suốt chuyến lưu diễn để phù hợp với các địa điểm biểu diễn mà cô sẽ đi qua.[106]

Các đêm nhạc được chia làm bốn phần nhỏ, được phân cách với nhau bằng một đoạn video chuyển tiếp. Đêm nhạc kết thúc bằng một phần encore[chú thích 4]. Danh sách tiết mục của các đêm diễn chỉ bao gồm các bài hát trong album The Fame. Gaga được miêu tả là xuất hiện trên sân khấu với nhiều bộ trang phục mới, phải kể đến bộ váy được làm từ bong bóng giả bằng nhựa. Trong chuyến lưu diễn này, nữ ca sĩ cũng biểu diễn thêm một ca khúc chưa từng được phát hành với tựa đề "Future Love".[107][108] Tại các buổi hòa nhạc ở châu Âu, danh sách tiết mục được thay đổi chút ít. Chuyến lưu diễn đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình bởi họ cho rằng Gaga hát các ca khúc một cách rõ ràng, có một khiếu cảm nhận thời trang tốt và khả năng thể hiện các loại nghệ thuật sân khấu giống một nghệ sĩ thực thụ.[109] Chuyến lưu diễn hát chính thứ hai của nữ ca sĩ, The Monster Ball Tour, cũng có danh sách tiết mục chứa đựng những ca khúc trong The Fame bên cạnh các bài trong The Fame Monster.

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Gaga biểu diễn ca khúc "Just Dance" trong một hộp đêm tại thành phố Montréal, Canada. Trước khi bắt tay vào thực hiện chuyến lưu diễn thì nữ ca sĩ đã biểu diễn các ca khúc trong album tại một vài hộp đêm nhỏ.

"Just Dance" ra mắt với vai trò là đĩa đơn đầu tiên của album vào ngày 17 tháng 6 năm 2008 dưới dạng nhạc số.[110] Bài hát được giới phê bình khen ngợi vì họ cho rằng nó là một bài hát nên được chơi ở hộp đêm và bởi giai điệu synth-pop của nó.[18][25] Bài hát gặt hái nhiều thành công thương mại khi giành được vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng âm nhạc tại Hoa Kỳ, Úc, Canada, Ireland, Hà Lan và Anh Quốc cũng như lọt vào top 10 tại hơn 16 quốc gia khác.[111][112][113][114][115] Bài hát từng nhận một đề cử giải Grammy cho hạng mục Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất nhưng bị bài hát "Harder, Better, Faster, Stronger (Alive 2007)" của bộ đôi DJ nhạc điện tử Daft Punk giành giải.[116]

"Poker Face" được chọn làm đĩa đơn thứ hai của album. Bài hát cũng đã đạt được những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình bởi họ đánh giá cao phần hook "nghe giống người máy" và phần điệp khúc của nó.[117] Đĩa đơn đã nhận được nhiều thành công hơn "Just Dance" khi đứng đầu các bảng xếp hạng tại hầu hết các quốc gia mà nó được phát hành tại đó.[118] "Poker Face" trở thành đĩa đơn thứ hai liên tiếp của Gaga đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.[119][120] Ngày 2 tháng 12 năm 2009, "Poker Face" nhận được ba đề cử giải Grammy ở các hạng mục Bài hát của năm, Thu âm của nămThu âm nhạc dance xuất sắc nhất.[40]

"Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" là đĩa đơn thứ ba của album tại Úc, New Zealand, Thụy Điển và Đan Mạch và là đĩa đơn thứ tư tại Pháp. Kể từ khi phát hành, bài hát đã nhận được những phản hồi hai chiều từ các nhà đánh giá. Một số thì miêu tả thể loại nhạc của bài hát là dòng europop những năm 90 còn số khác thì cho rằng chính bài hát đã làm ngắt quãng cái bản chất tiệc tùng, sống động vốn có của album.[23] Bài hát không đạt được nhiều thành công như các đĩa đơn ở trên khi chỉ giành được vị trí cao nhất là 15 tại Úc và 9 tại New Zealand. "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" từng đạt vị trí cao nhất mà nó từng đạt được tại Thụy Điển và Pháp lần lượt là thứ 2 và thứ 7.[121]

"LoveGame" được phát hành với vai trò là đĩa đơn thứ ba của album tại Hoa Kỳ, Canada và một số nước thuộc châu Âu. Bài hát đóng vai trò là đĩa đơn thứ tư tại Úc, New Zealand và Anh Quốc. "LoveGame" đã được đón nhận tích cực bởi giai điệu bắt tai cùng với phần hook "I wanna take a ride on your disco stick".[122] Bài hát vươn lên top 10 tại một số quốc gia như Hoa Kỳ, Úc, Canada và top 20 tại một số quốc gia khác.[123][124]

"Paparazzi" được công bố là đĩa đơn thứ ba của album tại Anh Quốc và Anh Quốc và phát hành vào ngày 6 tháng 7 năm 2009; là đĩa đơn thứ tư tại Hoa Kỳ và là đĩa đơn thứ năm nếu xét theo tổng thể.[125] Bài hát đã vươn lên top 5 tại Úc, Canada, Ireland và Anh Quốc;[126] và vươn lên top 10 tại Hoa Kỳ.[29] Sau khi phát hành, bài hát đã nhận được nhiều lời đánh giá tích cực vì tính vui nhộn, thân thiện với hộp đêm và được coi là bài hát gây ấn tượng mạnh và đáng nhớ nhất trong album.[29] Video âm nhạc của bài hát là một bộ phim ngắn xoay quanh một nữ diễn viên phụ có sự nghiệp ảm đạm (do Gaga thủ vai) từng bị bạn trai mình ám hại, nhưng may mắn thoát chết và trả thù người bạn trai độc ác để lấy lại danh tiếng.[127]

Đĩa đơn quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhằm mục đích chào mừng bộ phim Dirty Sexy Money trong lần đầu tiên được chính thức phát sóng ở Hoa Kỳ, đài ABC đã quyết định làm một video âm nhạc cho bài hát "Beautiful, Dirty, Rich" của Gaga (do Melina Matsoukas làm đạo diễn). Dù ban đầu ca khúc được công bố là đĩa đơn thứ hai của album, nhưng sau này "Poker Face" lại được chọn thay thế.[128] Có hai phiên bản của video âm nhạc kể trên – một bản có xen giữa những cảnh quay từ bộ phim Dirty Sexy Money, bản thứ hai chính là video âm nhạc thật sự.[129] Với số lượt tải xuống khá cao, bài hát lọt vào bảng xếp hạng UK Singles Chart và vị trí cao nhất của nó từng đạt được trên bảng xếp hạng là 83.[130]

The Fame Monster

[sửa | sửa mã nguồn]
Gaga biểu diễn ca khúc "Bad Romance" trong một đêm nhạc tổ chức tại Thành phố Salt Lake, Mỹ, thuộc chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour.

The Fame Monsterphiên bản tái phát hành của The Fame, ra mắt vào ngày 18 tháng 11 năm 2009. Ban đầu được dự định sẽ là một phần của phiên bản cao cấp của The Fame, hãng Interscope sau đó quyết định phát hành 8 bài hát mới gộp chung thành một EP độc lập tại một số vùng lãnh thổ. Quyết định này được đưa ra sau khi Gaga tuyên bố rằng việc phát hành lại album The Fame sẽ tốn rất nhiều chi phí và hai album này thực chất có chủ đề trái ngược nhau, được Gaga mô tả là âm và dương. Phiên bản cao cấp của album tái phát hành này bao gồm toàn bộ các ca khúc có trong The Fame và 8 bài hát mới kể trên.[131] Album chủ yếu nói về mặt tối của danh tiếng mà Gaga đã từng trải qua trong khoảng thời gian 2008–2009 trong khi đi chu du vòng quanh thế giới và được thể hiện thông qua hình ảnh một con quái vật. Bìa album được chụp bởi nhiếp ảnh gia Hedi Slimane và mang phong cách Gothic. Lúc đầu hãng đĩa của nữ ca sĩ không đồng ý cho Gaga chụp ảnh bìa như thế này nhưng rồi họ cũng chấp nhận sau khi nữ ca sĩ thuyết phục họ. Các bài hát trích từ album đều lấy cảm hứng từ nhạc Gothic và các buổi biểu diễn thời trang.[132] Sau khi phát hành, các nhà phê bình lúc bấy giờ đã đánh giá cao album, họ đặc biệt chú ý đến các bài hát "Bad Romance", "Telephone" và "Dance in the Dark".[133] Tại một số quốc gia, The Fame Monster được xem xét gộp chung với The Fame thành một album để xếp hạng trên các bảng xếp hạng âm nhạc; trong khi tại Hoa Kỳ, Canada và Nhật Bản, nó được xếp hạng dưới tư cách một album riêng lẻ. Album đã lọt vào top 10 tại hầu hết các quốc gia mà nó chọn làm thị trường tiêu thụ. Sau đó, Gaga khởi động chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour nhằm mục đích quảng bá rộng rãi album. Chuyến lưu diễn bắt đầu vào ngày 27 tháng 11 năm 2009[134] và kết thúc vào mùa xuân năm 2011.

Đội ngũ thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ thực hiện được lấy từ ghi chú trên bìa album.[135]

  • Akon – hát đệm
  • Victor Bailey – chơi guitar bass
  • Vicki Boyd – A&R
  • Troy Carter – quản lý
  • Lisa Einhorn-Gilder – điều phối việc sản xuất
  • Flo Rida – rap
  • Rob Fusari – sản xuất, đồng giám đốc sản xuất
  • Calvin "Sci-Fidelty" Gaines – lập trình âm thanh, chơi guitar bass
  • Gene Grimaldi – hoàn chỉnh âm thanh
  • Vincent Herbert – giám đốc sản xuất, A&R
  • Pieter Henket – nhiếp ảnh gia
  • Tom Kafafian – chơi guitar
  • Dyana Kass – giám đốc marketing
  • Martin Kierszenbaum – sản xuất, A&R
  • Brian Kierulf – sản xuất, biên khúc
  • Lady Gaga – hát chính, hát đệm, sản xuất, chơi piano, synthesizer, organ
  • Leah Landon – quản lý
  • Candice Lawler – nhiếp ảnh gia
  • Dave Murga – tạo tiếng trống, tạo tiếng nhịp đập
  • Colby O'Donis – hát, hát đệm
  • Robert Orton – phối khí
  • Jennifer Paola – người chịu trách nhiệm A&R
  • RedOne – sản xuất, chơi nhạc cụ, lập trình âm thanh, thu âm, hát đệm, đồng giám đốc sản xuất
  • Andrea Ruffalo – điều phối viên A&R
  • Dave Russell – kỹ sư âm thanh
  • Warwick Saint – nhiếp ảnh gia
  • Joshua M. Schwartz – sản xuất, biên khúc
  • Space Cowboy – sản xuất, hát
  • Joe Tomino – tạo tiếng nhịp
  • Tony Ugval – kỹ sư âm thanh
  • Liam Ward – chỉ đạo nghệ thuật

Danh sách ca khúc

[sửa | sửa mã nguồn]
The Fame – phiên bản tại Mỹ và quốc tế[136]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis)RedOne4:02
2."LoveGame"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne3:36
3."Paparazzi"
3:28
4."Poker Face"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne3:57
5."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"
Kierszenbaum2:55
6."Beautiful, Dirty, Rich"
  • Germanotta
  • Fusari
Fusari2:52
7."The Fame"
  • Germanotta
  • Kierszenbaum
Kierszenbaum3:42
8."Money Honey"
  • Germanotta
  • Khayat
  • Bilal Hajji
RedOne2:50
9."Starstruck" (hợp tác với Space CowboyFlo Rida)
  • Kierszenbaum
  • Space Cowboy
3:37
10."Boys Boys Boys"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne3:20
11."Paper Gangsta"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne4:23
12."Brown Eyes"
  • Germanotta
  • Fusari
4:03
13."I Like It Rough"
  • Germanotta
  • Kierszenbaum
Kierszenbaum3:22
14."Summerboy"
  • Germanotta
  • Brian Kierulf
  • Josh Schwartz
Brian & Josh4:13
Tổng thời lượng:50:20
The Fame – các bài hát bổ sung trong album phát hành trên iTunes Store Hoa Kỳ và quốc tế[137][138]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
15."Disco Heaven"
  • Germanotta
  • Fusari
Fusari3:41
Tổng thời lượng:54:01
The Fame – phiên bản tại Canada và phiên bản gốc tại Úc
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis)RedOne4:02
2."LoveGame"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne3:31
3."Paparazzi"
3:30
4."Beautiful, Dirty, Rich"
  • Germanotta
  • Fusari
Fusari3:59
5."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"
Kierszenbaum2:57
6."Poker Face"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne2:53
7."The Fame"
  • Germanotta
  • Kierszenbaum
Kierszenbaum3:43
8."Money Honey"
RedOne3:06
9."Again Again"
  • Germanotta
  • Fusari
Fusari3:05
10."Boys Boys Boys"
  • Germanotta
  • Khayat
RedOne3:22
11."Brown Eyes"
  • Germanotta
  • Fusari
4:05
12."Summerboy"
Brian & Josh4:14
Tổng thời lượng:42:21
The Fame – các bài hát bổ sung trong album phát hành trên iTunes Store Canada[139]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."I Like It Rough"
  • Germanotta
  • Kierszenbaum
Kierszenbaum3:22
Tổng thời lượng:57:43
The Fame – phiên bản tại Anh Quốc, Ireland và Nhật Bản
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis)Germanotta, Khayat, ThiamRedOne4:02
2."LoveGame"Germanotta, KhayatRedOne3:39
3."Paparazzi"Germanotta, FusariFusari, Gaga (đồng sản xuất)3:30
4."Poker Face"Germanotta, KhayatRedOne3:59
5."I Like It Rough"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:24
6."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum2:57
7."Starstruck" (hợp tác với Space CowboyFlo Rida)Germanotta, Kierszenbaum, Dresti, DillardKierszenbaum, Space Cowboy3:39
8."Beautiful, Dirty, Rich"Germanotta, FusariFusari2:53
9."The Fame"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:43
10."Money Honey"Germanotta, Khayat, HajjiRedOne2:52
11."Boys Boys Boys"Germanotta, KhayatRedOne3:22
12."Paper Gangsta"Germanotta, KhayatRedOne4:25
13."Brown Eyes"Germanotta, FusariFusari, Gaga (đồng sản xuất)4:05
14."Summerboy"Germanotta, Kierulf, SchwartzBrian & Josh4:14
15."Disco Heaven"Germanotta, Fusari, Tom KafafianFusari3:41
16."Again Again"Germanotta, FusariFusari3:05
Tổng thời lượng:57:24
The Fame – các bài hát bổ sung trong album phát hành tại Nhật[140]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
17."Retro Dance Freak"
  • Germanotta
  • Fusari
Fusari3:23
Tổng thời lượng:60:45
The Fame – các bài hát bổ sung trong phiên bản cao cấp được bán tại cửa hàng điện máy Saturn[141]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
16."Poker Face" (phiên bản piano có lời nhạc)Germanotta, KhayatRedOne3:38
17."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis) (phiên bản "trần trụi")Germanotta, Khayat, ThiamRedOne2:05
18."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" (phiên bản organ và beatbox)Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:03
19."Again Again"Germanotta, FusariFusari3:05
The Fame – DVD bổ sung trong phiên bản cao cấp của album tại Nhật[142]
STTNhan đềThời lượng
1."Just Dance" (video âm nhạc)4:06
2."Poker Face" (video âm nhạc)3:35
3."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" (video âm nhạc)2:56
4."LoveGame" (video âm nhạc)3:37
5."Paparazzi" (video âm nhạc)7:37
Tổng thời lượng:21:52
The Fame – USB với số lượng có hạn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis)Germanotta, Khayat, ThiamRedOne4:02
2."LoveGame"Germanotta, KhayatRedOne3:39
3."Paparazzi"Germanotta, FusariFusari, Gaga (đồng sản xuất)3:30
4."Poker Face"Germanotta, KhayatRedOne3:59
5."I Like It Rough"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:24
6."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum2:57
7."Starstruck" (hợp tác với Space CowboyFlo Rida)Germanotta, Kierszenbaum, Dresti, DillardKierszenbaum, Space Cowboy3:39
8."Beautiful, Dirty, Rich"Germanotta, FusariFusari2:53
9."The Fame"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:43
10."Money Honey"Germanotta, Khayat, HajjiRedOne2:52
11."Boys Boys Boys"Germanotta, KhayatRedOne3:22
12."Paper Gangsta"Germanotta, KhayatRedOne4:25
13."Brown Eyes"Germanotta, FusariFusari, Gaga (đồng sản xuất)4:05
14."Summerboy"Germanotta, Kierulf, SchwartzBrian & Josh4:14
15."Disco Heaven"Germanotta, Fusari, Tom KafafianFusari3:41
16."Again Again"Germanotta, FusariFusari3:05
17."Poker Face" (phiên bản piano có lời nhạc được biểu diễn tại The Cherrytree House)Germanotta, RedOneKierszenbaum3:38
18."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" (Pet Shop Boys Extended Remix)Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum (Pet Shop Boys cũng tham gia remix và đồng sản xuất)6:30
19."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis) (Space Cowboy Remix)Germanotta, Khayat, ThiamRedOne (Space Cowboy cũng tham gia remix và đồng sản xuất)5:04
20."LoveGame" (Robots to Mars Remix)Germanotta, KhayatRedOne (Robots to Mars cũng tham gia remix và đồng sản xuất)3:12
21."Paparazzi" (Stuart Price Remix) (phiên bản chỉnh sửa trên đài phát thanh)Germanotta, Rob FusariFusari, Lady Gaga (co) (Stuart Price cũng tham gia remix và đồng sản xuất)3:19
22."The Fame" (Glam as You Remix)Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum (Guéna LG cũng tham gia remix và đồng sản xuất)3:57
23."Christmas Tree" (hợp tác với Space Cowboy)Germanotta, Nicolas DrestiKierszenbaum, Space Cowboy2:22
24."Retro Dance Freak"Germanotta, FusariFusari3:22
25."Just Dance" (video âm nhạc)  4:08
26."Poker Face" (video âm nhạc)  3:39
27."LoveGame" (video âm nhạc)  3:43
28."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" (video âm nhạc)  3:02
The Fame – USB với số lượng có hạn kỷ niệm 10 năm phát hành album[143]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Just Dance" (hợp tác với Colby O'Donis)Germanotta, Khayat, ThiamRedOne4:02
2."LoveGame"Germanotta, KhayatRedOne3:39
3."Paparazzi"Germanotta, FusariFusari, Gaga (đồng sản xuất)3:30
4."Poker Face"Germanotta, KhayatRedOne3:59
5."I Like It Rough"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:24
6."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum2:57
7."Starstruck" (hợp tác với Space CowboyFlo Rida)Germanotta, Kierszenbaum, Dresti, DillardKierszenbaum, Space Cowboy3:39
8."Beautiful, Dirty, Rich"Germanotta, FusariFusari2:53
9."The Fame"Germanotta, KierszenbaumKierszenbaum3:43
10."Money Honey"Germanotta, Khayat, HajjiRedOne2:52
11."Boys Boys Boys"Germanotta, KhayatRedOne3:22
12."Paper Gangsta"Germanotta, KhayatRedOne4:25
13."Brown Eyes"Germanotta, FusariFusari, Gaga (đồng sản xuất)4:05
14."Summerboy"Germanotta, Kierulf, SchwartzBrian & Josh4:14
15."Disco Heaven"Germanotta, Fusari, Tom KafafianFusari3:41
16."Again Again"Germanotta, FusariFusari3:05
17."Retro Dance Freak"Germanotta, FusariFusari3:22
18."Bad Romance"Germanotta, KhayatRedOne, Gaga[a]4:54
19."Alejandro"Germanotta, KhayatRedOne, Gaga[a]4:34
20."Monster"Germanotta, Khayat, Space CowboyRedOne, Gaga[a]4:10
21."Speechless"GermanottaRon Fair, Gaga[a] Tal Herzberg[a]4:31
22."Dance in the Dark"Germanotta, Fernando GaribayFernando Garibay, Gaga[a]4:49
23."Telephone" (hợp tác với Beyoncé)Germanotta, Rodney "Darkchild" Jerkins, LaShawn Daniels, Lazonate Franklin, BeyoncéDarkchild, Gaga[a]3:41
24."So Happy I Could Die"Germanotta, RedOne, Space CowboyRedOne, Gaga, Space Cowboy3:55
25."Teeth"Germanotta, Taja Riley, Pete Wyoming Bender, Teddy RileyTeddy Riley, Gaga[a]3:41
26."Just Dance" (video âm nhạc)  4:08
27."Poker Face" (video âm nhạc)  3:39
28."LoveGame" (video âm nhạc)  3:43
29."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" (video âm nhạc)  3:02
30."Beautiful, Dirty, Rich" (video âm nhạc)  2:48
31."Bad Romance" (video âm nhạc)  5:08
32."Alejandro" (video âm nhạc)  8:44
33."Telephone (hợp tác với Beyoncé)" (video âm nhạc)  9:31

Ghi chú

  • ^a biểu thị người đồng sản xuất bài hát

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[76] 4× Bạch kim 280.000^
Áo (IFPI Áo)[224] 7× Bạch kim 140.000*
Bỉ (BEA)[225] 2× Bạch kim 60.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[226] 2× Bạch kim 120.000*
Canada (Music Canada)[227] 7× Bạch kim 560.000^
Chile (IFPI Chile)[228] 2× Bạch kim 30.000^ 
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[229] 2× Bạch kim 60.000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[230] Bạch kim 25.358[230]
Pháp (SNEP)[86] Kim cương 700,000[231]
Đức (BVMI)[232] 9× Vàng 1.350.000^
Hy Lạp (IFPI Hy Lạp)[155] Bạch kim 15.000^
Hungary (Mahasz)[233] 2× Bạch kim 12.000^
Ireland (IRMA)[234] 9× Bạch kim 135.000^
Ý (FIMI)[235] 4× Bạch kim 280.000*
Nhật Bản (RIAJ)[236] Triệu 1.000.000^
México (AMPROFON)[237] 2× Bạch kim 160.000^
Hà Lan (NVPI)[238] Vàng 30.000^
New Zealand (RMNZ)[239] 5× Bạch kim 75.000^
Na Uy (IFPI)[240] 8× Bạch kim 240.000*
Philippines (PARI)[241] 9× Bạch kim 135.000
Ba Lan (ZPAV)[242] 3× Bạch kim 60.000*
Nga (NFPF)[243] 4× Bạch kim 80.000*
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[244] 2× Bạch kim 160.000^
Thụy Điển (GLF)[245] Bạch kim 40.000double-dagger
Thụy Sĩ (IFPI)[246] 4× Bạch kim 120.000^
Anh Quốc (BPI)[81] 10× Bạch kim 2.990.000[82]
Hoa Kỳ (RIAA)[59] 3× Bạch kim 4.830.000[63]
Tổng hợp
GCC (IFPI Trung Đông)[247] Bạch kim 6.000*
Châu Âu (IFPI)[248] 3× Bạch kim 3.000.000*
Toàn cầu 15.000.000[93]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày phát hành Định dạng Hãng đĩa
Canada Canada 19 tháng 8 năm 2008 (2008-08-19)[249]
  • CD
  • LP
  • tải kỹ thuật số
Universal Music
Úc Úc 5 tháng 9 năm 2008 (2008-09-05)[250]
  • CD
  • tải kỹ thuật số (phiên bản thường)
28 tháng 10 năm 2008 (2008-10-28)[251]
  • CD
  • tải kỹ thuật số (phiên bản quốc tế)
Hoa Kỳ Hoa Kỳ 28 tháng 10 năm 2008 (2008-10-28)[1]
  • CD
  • LP
  • tải kỹ thuật số
Ý Ý 31 tháng 10 năm 2008 (2008-10-31)[252]
  • CD
  • tải kỹ thuật số (phiên bản thường)
Universal Music
Đức Đức 2 tháng 12 năm 2008 (2008-12-02)[253]
  • CD
  • tải kỹ thuật số
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc 12 tháng 1 năm 2009 (2009-01-12)[254][255] Polydor
Ý Ý 30 tháng 1 năm 2009 (2009-01-30)[256]
  • CD
  • tải kỹ thuật số (phiên bản quốc tế)
Universal Music
Argentina Argentina 16 tháng 2 năm 2009 (2009-02-16)[257] CD
Tây Ban Nha Tây Ban Nha 24 tháng 2 năm 2009 (2009-02-24)[258]
  • CD
  • tải kỹ thuật số
Brasil Brazil 31 tháng 3 năm 2009 (2009-03-31)[259] CD
Trung Quốc Trung Quốc 4 tháng 5 năm 2009 (2009-05-04)[260]
Nhật Bản Nhật Bản 20 tháng 5 năm 2009 (2009-05-20)[261]
22 tháng 7 năm 2009 (2009-07-22)[2][262][263]
  • CD
  • DVD
Hoa Kỳ Hoa Kỳ 14 tháng 12 năm 2018 (2018-12-14)[143] USB với số lượng có hạn nhằm kỷ niệm 10 năm The Fame phát hành

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Cây gậy disco" ở đây ám chỉ dương vật, tức về chuyện tình dục.
  2. ^ Dẫn theo wikipedia tiếng Anh: Hook là một thành phần trong một bài hát, thường đóng vai trò làm một đoạn riff, một cụm từ hay một đoạn lời được sử dụng trong nhạc đại chúng nhằm làm cho bài hát đó thêm phần hấp dẫn hay "bắt tai người nghe hơn". Trong nhạc đại chúng, hook có thể được tìm thấy, hoặc bao gồm phần điệp khúc của bài hát.
  3. ^ Dịch nghĩa: "Trên sản nhảy đang có chuyện gì vậy? / Em thích cái đĩa hát này nè, nhưng mà em không thể nhìn thẳng được nữa rồi cưng à".
  4. ^ Encore là một thuật ngữ được sử dụng trong nghệ thuật sân khấu, bao gồm những tiết mục được thực hiện theo yêu cầu của khán giả chứ không được sắp xếp từ trước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Lady Gaga: Releases: The Fame”. Interscope Records. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  2. ^ a b “Fame(+DVD, Limited, Special Edition (Deluxe))”. HMV. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  3. ^ Young, Ian (ngày 17 tháng 2 năm 2010). “The real Brits Awards winners and losers”. BBC. BBC Online. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  4. ^ Sharon, Kim (14 tháng 12 năm 2008). “Lady Gaga: the future of pop?”. The Times. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  5. ^ a b c “Lady Gaga: Biography”. LadyGaga.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  6. ^ a b Harris, Chris (15 tháng 1 năm 2009). “Shes at number one and shes on our Spanking New for 09 list so we had a lil' chat with the Lady”. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2009.
  7. ^ “Interview: Lady Gaga”. Artistdirect. 30 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  8. ^ Scaggs, Austin (19 tháng 2 năm 2009). “Lady Gaga Worships Queen and Refuses to Wear Pants”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  9. ^ Slomowicz, Ron (10 tháng 6 năm 2008). “Lady Gaga Interview”. About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  10. ^ McKay, Hollie (22 tháng 5 năm 2009). “Lady Gaga Opens Up About Her Preference for Boys That Look Like Girls”. Fox News Channel. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  11. ^ “Lady GaGa Entertains Thousands At Palm Springs White Party”. NBC Bay Area. 14 tháng 4 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  12. ^ a b Harris, Chris; Stolz, Kim (9 tháng 6 năm 2008). “Lady GaGa Brings Her Artistic Vision Of Pop Music To New Album – And A New Kids Song”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  13. ^ a b c d Koski, Genevieve (10 tháng 11 năm 2008). “Lady Gaga:The Fame”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  14. ^ a b c Lamb, Bill (12 tháng 11 năm 2008). “Lady GaGa – "Poker Face". About.com. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2009.
  15. ^ a b Beysil, Kim (1 tháng 4 năm 2009). “Lady Gaga's Hot Secret”. Daily Star. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  16. ^ Plagenhoef, Scott (13 tháng 1 năm 2010). “Lady Gaga: The Fame Monster”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  17. ^ Matthew, Jennie (11 tháng 11 năm 2013). “Lady Gaga launches new Artpop album with VIP party”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  18. ^ a b c d e Erlewine, Stephen Thomas. “The Fame – Lady Gaga”. AllMusic. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  19. ^ Kraines, Talia. “Review of Lady GaGa – The Fame”. BBC Music. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  20. ^ Petridis, Alexis (8 tháng 1 năm 2009). “Lady Gaga: The Fame”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  21. ^ “Lady Gaga – Money Honey – Digital Sheet Music”. Musicnotes.com.
  22. ^ a b c Petridis, Alexis (9 tháng 1 năm 2009). “Lady Gaga: The Fame”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  23. ^ a b c d e Sawdey, Evan (12 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa The Fame”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  24. ^ Thrills, Adrian (9 tháng 1 năm 2009). “Why The World Is Going Gaga For Electro-pop Diva Stefani”. Daily Mail. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  25. ^ a b c du Lac, Freedom (18 tháng 10 năm 2008). 'Fame' Isn't Worth Getting GaGa Over”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  26. ^ McAlpine, Fraser (11 tháng 3 năm 2009). “Lady GaGa – 'Poker Face'. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  27. ^ “It's kisses all round as Lady GaGa gets affectionate with men AND women in risqué new video”. Daily Mail. 21 tháng 5 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  28. ^ Norman, Ben (2 tháng 10 năm 2008). “Lady Gaga – 'The Fame'. About.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  29. ^ a b c Hobart, Erika (31 tháng 3 năm 2009). “Some Like It Pop”. New Times Broward-Palm Beach. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  30. ^ a b “The Fame Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  31. ^ “The Fame by Lady Gaga”. AnyDecentMusic?. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  32. ^ a b Wood, Mikael (22 tháng 10 năm 2008). “The Fame – Music Review”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  33. ^ a b Hogwood, Ben (12 tháng 1 năm 2009). “Lady Gaga – The Fame”. musicOMH. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  34. ^ a b Brockman, Daniel (22 tháng 10 năm 2008). “Lady Gaga – The Fame”. The Phoenix. Phoenix Media/Communications Group. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  35. ^ a b Cinquemani, Sal (25 tháng 10 năm 2008). “Lady Gaga: The Fame”. Slant Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  36. ^ Incognito, Daniel (28 tháng 10 năm 2008). “Lady Gaga – The Fame (album review 3)”. Sputnikmusic. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  37. ^ a b Powers, Nicole (23 tháng 7 năm 2008). “URB Magazine:: Reviews:: – Lady Gaga”. URB. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  38. ^ Guerra, Joey (7 tháng 11 năm 2008). “Bringing real dance music to the masses”. Houston Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  39. ^ Christgau, Robert (tháng 5 năm 2009). “Consumer Guide”. MSN Music. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  40. ^ a b “52nd Grammy Awards Nominations”. Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  41. ^ Yehuda, Ayala-Ben (31 tháng 1 năm 2010). “Taylor Swift, Lady Gaga Win Early Grammys”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  42. ^ “Rolling Stone's 100 Best Debut Albums of All Time”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2019.
  43. ^ Shachtman, Noah; Browne, David; Dolan, Jon; Freeman, Jon; Hermes, Will; Hoard, Christian; Lopez, Julyssa; Reeves, Mosi; Rosen, Jody; Sheffield, Rob (1 tháng 7 năm 2022). “100 Best Debut Albums of All Time”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2023.
  44. ^ Greenblatt, Leah (13 tháng 10 năm 2009). “American Music Awards noms announced; Taylor Swift, Eminem, Michael Jackson lead the pack”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  45. ^ “Teen Choice Awards 2009 nominees”. Los Angeles Times. 15 tháng 6 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  46. ^ French, Dan (17 tháng 2 năm 2010). “Brits Draws 2010 Audience of 58million”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  47. ^ “NRJ Music Awards 2010: les résultats”. chartsinfrance.net (bằng tiếng Pháp). 24 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2019.
  48. ^ “Grammy 2010 Winners List”. Billboard. 31 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  49. ^ Lee, Ann (19 tháng 5 năm 2010). “World Music Awards 2010: Lady Gaga fails to show to pick up five gongs”. Metro UK. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2019.
  50. ^ Davis, Don (19 tháng 5 năm 2010). “Lady Gaga, Black Eyed Peas win big at World Music Awards”. Variety. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2019.
  51. ^ “2011 Billboard Music Awards Winners List”. Billboard. 25 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  52. ^ Kaufman, Gil (16 tháng 10 năm 2010). “Lady Gaga Lands In 'Guinness World Records' Book”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  53. ^ “2012 Billboard Music Awards Finalists: Complete List”. Billboard. 19 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  54. ^ “The Billboard 200: Week Ending ngày 15 tháng 11 năm 2008”. Billboard. 15 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  55. ^ Kauffman, Gil (29 tháng 1 năm 2010). “Lady Gaga Took A Fast Track To Fame And The Grammys”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  56. ^ Hasty, Katie (15 tháng 2 năm 2009). “Taylor Swift Remains Atop Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  57. ^ Hasty, Katie (11 tháng 3 năm 2009). “U2 Scores Seventh No. 1 On Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  58. ^ “Weekly Chart Notes: Lady Gaga, 'Glee' Cast, Billy Joel”. Billboard. 18 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  59. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  60. ^ Grein, Paul (2 tháng 12 năm 2009). “Week Ending Nov. 29, 2009: Women Take Charge”. Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  61. ^ Caulfield, Keith (6 tháng 1 năm 2010). “Susan Boyle Extends Run Atop Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  62. ^ “Boyle, Jackson top worldwide album sales”. CBC News. 30 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  63. ^ a b Caulfield, Keith (29 tháng 3 năm 2019). “Lady Gaga & Bradley Cooper's 'A Star Is Born' Soundtrack Passes 1 Million in U.S. Sales”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019.
  64. ^ “The Nielsen Company & Billboard's 2010 Music Industry Report”. Business Wire. 6 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  65. ^ “Nielsen & Billboard's 2013 U.S. Music Report” (PDF). Billboard. 1 tháng 1 năm 2014. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  66. ^ “Going Gaga On The Gridiron”. Nielsen Music. 2 tháng 2 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  67. ^ a b “Greatest of All Time Billboard 200 Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  68. ^ Trust, Gary (13 tháng 2 năm 2017). “Ed Sheeran's 'Shape' Tops Hot 100, Lady Gaga's 'Reasons' Returns at No. 4”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  69. ^ a b "Lady Gaga Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  70. ^ a b Williams, John (14 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa's 'Fame' rises to No. 1”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  71. ^ Doanh số bán ra tổng cộng của The Fame:
  72. ^ “New Zealand Albums Top 40”. acharts.us. Recorded Music NZ. 6 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  73. ^ “New Zealand Top 40 Albums (Chart #1668)” (PDF). RIANZ.org.nz. Recorded Music NZ. 16 tháng 5 năm 2009. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  74. ^ “Australia Albums Top 50”. acharts.us. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 15 tháng 9 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  75. ^ “Australia Albums Top 50”. acharts.us. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 26 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  76. ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2016 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  77. ^ Jones, Alan (18 tháng 11 năm 2013). “Official Charts Analysis: Lady Gaga hits No.1 with 65k sales”. Music Week. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  78. ^ “UK Albums Chart”. Official Charts Company. 18 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  79. ^ “UK Albums Chart”. Official Charts Company. 5 tháng 4 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  80. ^ “UK Albums Chart”. Official Charts Company. 3 tháng 5 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  81. ^ a b “Chứng nhận album Anh Quốc – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập The Fame vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  82. ^ a b Copsey, Rob (13 tháng 10 năm 2018). “The UK's biggest studio albums of all time”. Official Charts Company. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  83. ^ “Lady Gaga sets platinum record for digital”. Official Charts Company. 1 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  84. ^ Moss, Liv. “Official Biggest Selling Albums of the Millennium so far revealed!”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  85. ^ Copsey, Rob (4 tháng 7 năm 2016). “The UK's 60 official biggest selling albums of all time revealed”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  86. ^ a b “Chứng nhận album Pháp – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  87. ^ “Lady GaGa – The Fame”. Pure Charts by Charts in France (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  88. ^ “Irish Albums Chart”. acharts.us. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ireland. 15 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  89. ^ a b "GFK Chart-Track Albums: Week 07, 2009". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  90. ^ a b Sexton, Paul (23 tháng 4 năm 2009). “Lady GaGa Scores Euro Chart Double”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  91. ^ a b “Lady Gaga – The Fame”. Ultratop. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  92. ^ “GfK Entertainment – Adele stellt Download-Rekord auf”. gfk-entertainment.com. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  93. ^ a b “Lady Gaga adds second show in Singapore”. AsiaOne. 27 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  94. ^ Sailor, Craig (18 tháng 9 năm 2012). “Lady Gaga fills in the details on her Tacoma show”. The News Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  95. ^ “Lady Gaga 'Just Dance'. NewNowNext Awards. 7 tháng 6 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  96. ^ “Lady Gaga performs Just Dance. So You Think You Can Dance. Interscope Records. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2019.
  97. ^ “Jummy Kimmel Live: Lady Gaga”. PopCrunch. Jimmy Kimmel Live!. 23 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  98. ^ “The Tonight Show: Lady Gaga”. The Tonight Show with Jay Leno. 8 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  99. ^ Kroft, Ryan (14 tháng 6 năm 2008). “Close Your Mouth: She's No Joke. Lady Gaga Outshines Miss Universe!”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019. Chú thích có tham số trống không rõ: |(empty string)= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  100. ^ “Tubridy Tonight – Saturday, ngày 31 tháng 1 năm 2009”. Tubridy Tonight. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  101. ^ “Gossip Girl Music | Season 2 – Episode 1”. The CW. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  102. ^ “Gossip Girl Music | Season 2 – Episode 5”. The CW. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  103. ^ “Gossip Girl Music | Season 2 – Episode 20”. The CW. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  104. ^ Kaufman, Gil (1 tháng 2 năm 2009). “Lady Gaga Shows Her Flashiest 'Poker Face' On 'American Idol'. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  105. ^ Montgomery, James (4 tháng 2 năm 2009). “Lady Gaga Promises 'Life-Changing Experience' With Fame Ball Tour”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  106. ^ Graff, Gary (3 tháng 3 năm 2009). “Lady GaGa Ready To Go For Headlining Tour”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  107. ^ Piccoli, Sean (9 tháng 4 năm 2009). “Lady Gaga's larger-than-life stage show shrinks without a band”. South Florida Sun-Sentinel. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  108. ^ Gregory, Jason (13 tháng 3 năm 2009). “Lady GaGa Gets Wrapped In Bubbles On US Tour”. Gigwise.com. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  109. ^ Pastorek, Whitney (14 tháng 3 năm 2009). “Lady GaGa live in L.A”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  110. ^ “iTunes release of Just Dance”. iTunes Store. 17 tháng 6 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  111. ^ Cohen, Jonathan (8 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa Dances To The Top Of Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  112. ^ “Australian ARIA Singles Chart”. aCharts.us. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. 15 tháng 6 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  113. ^ “Canadian Hot 100”. Billboard. aCharts.us. 23 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  114. ^ “UK Singles Chart”. The Official Charts Company. 11 tháng 1 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  115. ^ “Lady Gaga – "Just Dance" on world charts”. aCharts.us. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  116. ^ Harris, Chris (4 tháng 12 năm 2008). “Lil Wayne, Coldplay Lead Grammy Nominations”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  117. ^ Williams, Chris (28 tháng 2 năm 2009). “Single Reviews: Poker Face”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  118. ^ Pietroluongo, Silvio (1 tháng 4 năm 2009). “Lady GaGa Draws A Pair Of No. 1s”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  119. ^ Ben-Yehuda, Ayala; Pietroluongo, Silvio (2 tháng 4 năm 2009). “Lady GaGa Scores Hot 100 Milestone With 'Poker Face'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  120. ^ “Lady Gaga – "Poker Face" on world charts”. aCharts.us. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  121. ^ “Lady Gaga – "Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" on world charts”. aCharts.us. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  122. ^ Kraines, Talia (ngày 9 tháng 1 năm 2009). “Lady GaGa The Fame Review”. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  123. ^ Ben-Yehuda, Ayala; Pietroluongo, Silvio (4 tháng 6 năm 2009). “Lady GaGa Takes Two Top 10 Spots On Billboard's Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  124. ^ “Lady Gaga – "LoveGame" on world charts”. aCharts.us. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  125. ^ Sexton, Paul (28 tháng 5 năm 2009). “Green Day Rises To European Chart Summit”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  126. ^ “Lady Gaga – "Paparazzi" on world charts”. aCharts.us. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  127. ^ Kaufman, Gil (29 tháng 5 năm 2009). “Lady Gaga Angry That Epic 'Paparazzi' Video Leaked”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
  128. ^ “Beautiful, Dirty, Rich – Music Video”. LadyGaga.com. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  129. ^ “Music video of Beautiful, Dirty, Rich”. MSN. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  130. ^ “Beautiful, Dirty, Rich on the UK Singles Chart”. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  131. ^ Vena, Jocelyn (12 tháng 11 năm 2009). “Lady Gaga Is 'Honoring' Fans With Cheaper Fame Monster”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  132. ^ Release, Press (8 tháng 10 năm 2009). “Lady Gaga Returns With 8 New Songs on 'The Fame Monster'. Yahoo! Finance. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  133. ^ Price, Simon (22 tháng 11 năm 2009). “Album: Lady Gaga, The Fame Monster (Polydor)”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  134. ^ Herrera, Monica (15 tháng 10 năm 2009). “Lady Gaga Announces 'The Monster Ball'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  135. ^ The Fame (ghi chú trên bìa album). Lady Gaga. Interscope Records. 2008.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  136. ^ “The Fame: Music”. Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  137. ^ “iTunes – Music – The Fame by Lady Gaga”. Apple, Inc (Hoa Kỳ). 28 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  138. ^ “The Fame: Lady Gaga”. Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  139. ^ “iTunes Music – The Fame by Lady Gaga”. iTunes Store. 19 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  140. ^ “Amazon.co.jp: ザ・フェイム: 音楽”. Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  141. ^ “LADY GAGA – The Fame (SATURN Deluxe Edt.) – Diskografie”. Universal Music Deutschland. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  142. ^ “Lady Gaga: The Fame DVD”. Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  143. ^ a b “The Fame 10th Anniversary Limited Edition”. LadyGaga.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  144. ^ "Australiancharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  145. ^ "Austriancharts.at – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  146. ^ "Ultratop.be – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  147. ^ "Ultratop.be – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  148. ^ “CD – TOP 20 Semanal” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Brasileira dos Produtores de Discos. 11 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  149. ^ “TOP50 Prodejní: LADY GAGA – Fame” (bằng tiếng Séc). IFPI Cộng hòa Séc. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  150. ^ "Danishcharts.dk – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  151. ^ "Dutchcharts.nl – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  152. ^ "Lady Gaga: The Fame" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  153. ^ "Lescharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  154. ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  155. ^ a b “Top 50 Ξένων Aλμπουμ – Εβδομάδα 02/2010” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  156. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2010. 26. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  157. ^ "Italiancharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  158. ^ 29 tháng 5 năm 2009/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 29 tháng 5 năm 2009" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  159. ^ "Mexicancharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  160. ^ "Charts.nz – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  161. ^ "Norwegiancharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  162. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  163. ^ "Portuguesecharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  164. ^ “Российский чарт продаж: Depeche Mode” (bằng tiếng Nga). 2M. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  165. ^ tháng 1 năm 2009/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  166. ^ “Radio Sonder Grense – Musiek Top 20”. Công nghiệp Ghi âm Nam Phi. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  167. ^ "Spanishcharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  168. ^ "Swedishcharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  169. ^ "Swisscharts.com – Lady Gaga – The Fame" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  170. ^ "Lady Gaga | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  171. ^ "Lady Gaga Chart History (Top Dance/Electronic Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  172. ^ “ARIA Chart Sales – ARIA End of Decade Albums/Top 100” (PDF). ARIA Charts. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  173. ^ “Bestenlisten – 00er-Album” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  174. ^ “2000s Dance/Electronic Decade End Chart”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  175. ^ Copsey, Rob (4 tháng 7 năm 2016). “The UK's 60 official biggest selling albums of all time revealed”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  176. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums By Women”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  177. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2009”. ARIA Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  178. ^ “Jahreshitparade 2009” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  179. ^ “Jaaroverzichten 2009” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  180. ^ “Rapports Annuels 2009” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  181. ^ “2009 Year End Charts – Top Canadian Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  182. ^ “Album 2009 Top-100” (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten.NU. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2011.
  183. ^ “Jaaroverzichten 2009” (bằng tiếng Hà Lan). dutchcharts.nl. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  184. ^ “2009 Year End Charts – European Top 100 Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  185. ^ “Myydyimmät ulkomaiset albumit vuonna 2009” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  186. ^ “Classement Albums – année 2009” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  187. ^ “Album Jahrescharts 2009” (bằng tiếng Đức). MTV. 29 tháng 12 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  188. ^ “Best selling albums in 2009 of Hungary”. Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  189. ^ “Top 20 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ireland. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  190. ^ “Classifiche annuali dei cd, dvd, compilation più venduti e digital download più scaricati online nel 2009” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. 19 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  191. ^ “アルバム 年間ランキング-ORICON STYLE ランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2010.
  192. ^ “Charts Year End: AMPROFON” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  193. ^ “Top Selling Albums of 2009”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm New Zealand. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  194. ^ “Årslista Albums – År 2009”. Sverigetopplistan. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Thụy Điển. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  195. ^ “Swiss Year-End Charts 2009”. swisscharts.com. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  196. ^ “End of Year Albums 2009”. Official Charts Company. 4 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  197. ^ “2009 Year End Charts – Top Billboard 200”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  198. ^ “2009 Year End Charts – Dance/Electronic Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  199. ^ “Jahreshitparade 2010” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  200. ^ “2010 Year End Charts – Top Canadian Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  201. ^ “2010 Year End Charts – European Top 100 Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  202. ^ “Album Jahrescharts 2010” (bằng tiếng Đức). MTV Germany. 31 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  203. ^ “Best selling albums in 2010 of Hungary”. MAHASZ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  204. ^ “アルバム 年間ランキング-ORICON STYLE ランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2010.
  205. ^ “Charts Year End: AMPROFON” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  206. ^ “Top 50 Albums 2010” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  207. ^ “Swiss Year-End Charts 2010”. swisscharts.com. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  208. ^ “End of Year Albums 2010”. Official Charts Company. 4 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  209. ^ “2010 Year End Charts – Top Billboard 200”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  210. ^ “2009 Year End Charts – Dance/Electronic Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  211. ^ “Jahreshitparade 2011” (bằng tiếng Đức). austriancharts.at. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  212. ^ “Best selling albums in 2011 of Hungary”. MAHASZ. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  213. ^ “2011 Year End Charts – Oricon CD Albums Top 100” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  214. ^ “Charts Year End: AMPROFON” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  215. ^ “Swiss Year-End Charts 2011”. swisscharts.com. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  216. ^ “End of Year Albums 2011”. Official Charts Company. 4 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  217. ^ “2011 Year End Charts – Top Billboard 200 Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  218. ^ “2011 Year End Charts – Dance/Electronic Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  219. ^ “2017 Annual ARIA Dance Albums Chart”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  220. ^ “Top Billboard 200 Albums – Year-End 2017”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  221. ^ “Top Dance/Electronic Albums – Year-End 2017”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  222. ^ “2018 Annual ARIA Dance Albums Chart”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  223. ^ “Top Dance/Electronic Albums – Year-End 2018”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  224. ^ “Chứng nhận album Áo – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  225. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2010” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  226. ^ “Chứng nhận album Brasil – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  227. ^ “Chứng nhận album Canada – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  228. ^ “Universal: Visita Lady Gaga” (PDF). Sony Music. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  229. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019. Scroll through the page-list below to obtain certification.
  230. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  231. ^ Ruelle, Yohann (20 tháng 1 năm 2019). “Lady Gaga: son tube 'Just Dance' était numéro un il y a 10 ans, retour sur son histoire”. Purebreak Charts (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  232. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Lady Gaga; 'The Fame')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  233. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2010” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  234. ^ “The Irish Charts - 2009 Certification Awards - Multi Platinum” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Thu âm Ireland. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  235. ^ “Chứng nhận album Ý – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "The Fame" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  236. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019. Chọn 2011年07月 ở menu thả xuống
  237. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019. Nhập Lady Gaga ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và The Fame ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  238. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019. Enter The Fame in the "Artiest of titel" box. Select 2009 in the drop-down menu saying "Alle jaargangen".
  239. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  240. ^ “Chứng nhận album Na Uy – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  241. ^ “Lady Gaga Gets 9× Platinum Award”. Philstar Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  242. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2010 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  243. ^ “Chứng nhận album Nga – Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Nga). Национальная федерация музыкальной индустрии (NFPF). Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  244. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha – Lady Gaga – The Fame”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  245. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2010” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  246. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('The Fame')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  247. ^ “Chứng nhận IFPI Trung Đông – 2010” (bằng tiếng Anh). IFPI Trung Đông. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  248. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2010”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  249. ^ “FAME by LADY GAGA”. HMV Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  250. ^ “The FAME – Lady Gaga – Australian release”. JBHiFi. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  251. ^ “The FAME – Lady Gaga – Australian international release”. JBHiFi. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  252. ^ “Italy Standard Edition release”. IBS. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  253. ^ “Lady Gaga – The Fame” (bằng tiếng Đức). Universal Music Germany. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  254. ^ The Fame – UK iTunes release”. iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  255. ^ The Fame – UK CD release”. HMV UK. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  256. ^ “Italy International Edition release”. IBS. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  257. ^ The Fame – Argentina release”. Musimondo. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  258. ^ The Fame – Spain release”. 7digital Spain. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  259. ^ “Lady Gaga: The Fame”. Saraiva.com.br. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  260. ^ “Lady Gaga: The Fame”. Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  261. ^ “The Fame – Lady Gaga”. Universal Music Jaan. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  262. ^ “Amazon.co.jp: The Fame-Deluxe Edition-(+DVD)” (bằng tiếng Nhật). Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.
  263. ^ “The Fame Deluxe Edition [w/ DVD, Limited Release]”. CDJapan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2019.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]