Sơn Tây (Xứ Đoài)






Sơn Tây thường gọi là Xứ Đoài (quẻ Đoài trong Kinh Dịch chỉ hướng Tây) là vùng đất cổ của ngưởi Việt, một trong bốn trọng trấn bảo vệ phía tây thành Thăng Long xưa và bao trùm một phần các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hòa Bình và Tuyên Quang ngày nay.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Các nền văn hóa khảo cổ Việt Nam lần đầu được phát hiện và đặt tên ở đây gồm: Sơn Vi (20.000-12.000 TCN), Phùng Nguyên (2.000-1.500 TCN), Đồng Đậu (1.500-1.000 TCN), Gò Mun (1.000-600 TCN) và rất nhiều các di chỉ khác đã minh chứng cho lịch sử nơi này.[1]
Xứ Đoài được gọi là đất Tổ, có kinh đô của các Vua Hùng, xưa thuộc ba bộ: Văn Lang, Phúc Lộc và Chu Diên[2] (hoặc Văn Lang, Gia Ninh và Tân Xương[3]). Ở đây có núi Tản được coi là núi Tổ do Sơn Tinh ngự trị, bên cạnh sông Đà hung dữ của Thủy Tinh và ngã ba Bạch Hạc có Mộc Tinh[4] là những biểu tượng huyền thoại của Xứ Đoài.
Thời thuộc Hán[5] là đất huyện Mê Linh và Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng khởi nghĩa và đóng đô. Sau là đất quận Tân Xương và một phần các quận Vũ Bình, Giao Chỉ. Tới thời Tùy - Đường, là đất Phong Châu, Phúc Lộc Châu và một phần Giao Châu (huyện Thái Bình và huyện Giao Chỉ) quê hương Lý Nam Đế, Phùng Hưng và Ngô Quyền; với những địa danh: cửa Hát Môn[a], căn cứ Cấm Khê[b], hồ Điển Triệt[c], động Khuất Lão[d], bãi Quân Thần[e], thành Ô Diên[f], ấp Đường Lâm[g]...
Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, nơi này là Phong Châu, Quốc Oai Châu và Chân Đăng Châu[6], từng có 5/12 sứ quân[h] cát cứ gồm: Ngô Nhật Khánh (Đường Lâm, Sơn Tây), Kiều Công Hãn (Phong Châu, Việt Trì), Kiều Thuận (Hồi Hồ, Cẩm Khê), Đỗ Cảnh Thạc (Đỗ Động, Quốc Oai) và Nguyễn Khoan (Tam Đái, Yên Lạc) cho thấy đây là vùng đất cốt lõi và quan trọng bậc nhất.
Thời Lý - Trần, gồm bốn Lộ, sau đổi thành Trấn là: Tam Giang, Tam Đái, Quốc Oai (sau đổi là Quảng Oai) và Đà Giang (sau đổi là Thiên Hưng). Thời Hồ, phòng tuyến trọng yếu nhất là thành Đa Bang ở Ba Vì thất thủ, giặc Minh tràn vào Thăng Long và chỉ ít lâu sau nước ta lại bị đô hộ. Tên gọi Quốc Oai (vùng đất oai hùng) bị giặc đổi thành Oai Man (man di mọi rợ).[7]
Trong khởi nghĩa Lam Sơn, nơi đây ghi dấu chiến thắng bước ngoặt Tốt Động Chúc Động. Đầu thời Hậu Lê đã khôi phục tên cũ gồm: Quốc Oai Thượng, Quốc Oai Trung và Quốc Oai Hạ. Năm 1469, chính thức gọi là Thừa tuyên Sơn Tây, sau đổi là Trấn, thường gọi là Xứ Đoài. Tên này được cho là xuất phát từ một quẻ trong Kinh Dịch "Đoài phương tĩnh nhất khu" (vùng đất yên tĩnh phía tây kinh đô) và dường như linh nghiệm vì kể từ đó nơi đây rất ít bị ảnh hưởng bởi chiến sự.
Thời Nguyễn, cho xây thành cổ đá ong và gọi là Tỉnh từ năm 1831. Trận Sơn Tây năm 1883 với sự tham gia của quân Cờ Đen khiến quân Pháp thiệt hại nhiều nhất kể từ khi gây hấn Bắc Kỳ. Sau đó Xứ Đoài lần lượt bị cắt đất về các tỉnh Hưng Hóa[i], Tuyên Quang[j], Hòa Bình[k], Hà Đông[l] và Vĩnh Yên[m]. Từ thời Pháp thuộc, nơi này đã trở thành "thủ đô của lính" với rất nhiều các doanh trại và trường quân đội.
Năm 1965, Sơn Tây sáp nhập với Hà Đông thành tỉnh Hà Tây,[8] sau đó từng sáp nhập với Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1968, Phú Thọ sáp nhập với Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú.[9] Năm 2008, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội.[10] Tên Sơn Tây nay thường chỉ dùng cho thị xã Sơn Tây, còn tên Xứ Đoài vẫn thường được hiểu là ba tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Tây cũ; trong khi một phần Hòa Bình, Tuyên Quang ít được nhắc tới.
Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi soạn xong sớm nhất năm 1435 thì Sơn Tây thời Lê có 6 lộ phủ, 24 huyện, 1368 làng xã. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, trị sở ban đầu ở La Phẩm (Tản Hồng, Ba Vì), sau dời về Cam Giá (Đường Lâm, Sơn Tây). Vị trí địa lý của Sơn Tây khi ấy là: [2]
Trung tâm Xứ Đoài là ngã tư sông Đà, sông Thao, sông Lô và phụ lưu sông Phó Đáy. Tất cả hợp lưu tại Phủ Tam Đái tạo thành sông Hồng, rồi tạo thêm các nhánh sông Hát, sông Nhuệ và sông Cà Lồ. Ngoài ra còn có sông Tích bắt nguồn từ núi Ba Vì, sông Phan từ núi Tam Đảo, cùng sông Bùi và sông Bôi ra từ vùng núi Mỹ Lương. Ca dao có câu "Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu" cho thấy Tam Đái là miền đất màu mỡ nhất miền Bắc. Nhưng ngoài Phủ Tam Đái thì chỉ có Phủ Quốc Oai địa hình khá bằng phẳng, còn lại Xứ Đoài đều nhiều đồi núi.
Ở phía đông bắc là dãy Tam Đảo cao 1591m, kéo dài khoảng 60km. Ở phía tây nam gồm dãy Ba Vì cao 1296m, dãy Viên Nam cao 1031m và vùng núi đá vôi Mỹ Lương trải dài tổng cộng khoảng 80km. Hai phía núi chạy song song bao bọc lấy Xứ Đoài. Với thế tay vịn hai bên, kinh đô Phong Châu của các Vua Hùng nằm giữa và sau lưng theo truyền thuyết là 99 ngọn núi voi chầu.[11] Ở Phủ Quốc Oai xưa còn có một cụm núi Thập lục kỳ sơn là 16 ngọn núi sót lại giữa đồng bằng.[12] Cùng với Phủ Quảng Oai kế bên là hai nơi có nghề khai thác đá ong và nhiều kiến trúc cổ xây từ loại vật liệu này.
Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách 6 phủ, 24 huyện thời Lê gồm:[2]
- Phủ Quốc Oai có 5 huyện, 251 xã gồm: Từ Liêm (nay là Cầu Giấy, Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm), Đan Phượng (nay là Đan Phượng và Hoài Đức), Phúc Lộc (nay là Phúc Thọ và phía bắc TX. Sơn Tây), Yên Sơn (nay là Quốc Oai) và Thạch Thất.
- Phủ Tam Đái có 6 huyện, 444 xã gồm: Yên Lãng (nay là Mê Linh, phía nam Bình Xuyên và phía nam TP. Phúc Yên), Yên Lạc (nay là Yên Lạc và TP. Vĩnh Yên), Bạch Hạc (nay là Vĩnh Tường), Tiên Phong (phía bắc Ba Vì), Phù Khang (nay là Phù Ninh và phía đông TP. Việt Trì) và Lập Thạch (nay là Lập Thạch và H. Sông Lô).
- Phủ Lâm Thao có 4 huyện, 230 xã gồm: Sơn Vi (nay là Lâm Thao và phía tây TP. Việt Trì), Hoa Khê (nay là Cẩm Khê), Hạ Hoa (nay là Hạ Hòa) và Thanh Ba (nay là Thanh Ba và TX. Phú Thọ).
- Phủ Đoan Hùng có 5 huyện 277 xã gồm: Đông Lan (phía đông Đoan Hùng và một phần Tuyên Quang), Tây Lan (phía tây Đoan Hùng), Sơn Dương (nay thuộc Tuyên Quang), Đương Đạo (phía bắc Sơn Dương) và Tam Dương (nay là Tam Dương và Tam Đảo).
- Phủ Đà Dương có 2 huyện, 76 xã gồm: Tam Nông và Bất Bạt (nay là Thanh Thủy, phía tây nam Ba Vì và TP. Hòa Bình).
- Phủ Quảng Oai có 2 huyện, 91 xã gồm: Minh Nghĩa (phía nam TX. Sơn Tây và phía đông nam Ba Vì) và Mỹ Lương (nay là vùng núi Chương Mỹ, Mỹ Đức, Lương Sơn và Kim Bôi).
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 [13], Sơn Tây vẫn 24 huyện cũ gộp còn 5 phủ:
- Phủ Quốc Oai có 5 huyện: Từ Liêm, Đan Phượng, Yên Sơn, Thạch Thất và Mỹ Lương.
- Phủ Tam Đái có 5 huyện: Yên Lãng, Yên Lạc, Bạch Hạc, Phù Khang và Lập Thạch.
- Phủ Lâm Thao có 5 huyện: Sơn Vi, Hoa Khê, Hạ Hoa, Thanh Ba và Tam Nông.
- Phủ Đoan Hùng vẫn 5 huyện chỉ đổi tên: Đông Quan, Tây Quan, Sơn Dương, Đương Đạo và Tam Dương.
- Phủ Quảng Oai có 4 huyện: Phúc Lộc, Tiên Phong, Bất Bạt và Tùng Thiện (Minh Nghĩa đổi tên).
Sau khi chia tách lần cuối, cho tới năm 1965, Sơn Tây chỉ còn nằm gọn trong ba sông Đà, Hồng, Hát với 7 đơn vị hành chính: [14]
- Phủ/Huyện Quốc Oai: Hoàng Xá, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp, Lật Sài, Liệp Mai, Giã Cát, Thạch Thán, Tiên Lữ, Bất Lạm, Cấn Xá.
- Phủ/Huyện Quảng Oai: Tây Đằng, Chu Quyến, Phú Xuyên, Thanh Lạng, Kiều Mộc, Thanh Mai, Vật Lại
- Huyện Phúc Thọ: Phù Xa, Cam Thịnh, Cựu Đình, Võng Xuyên, Vĩnh Phúc, Xuân Vân, Phú Châu, Phù Long, Phụng Thượng
- Huyện Thạch Thất: Kim Quan, Lạc Trị, Đại Đồng, Hương Ngải, Thạch Xá, Cần Kiệm
- Huyện Tùng Thiện: Thanh Vị, Cam Thượng, Nhân Lý, Thụy Phiêu, Mỹ Khê, Bối Sơn, Tường Phiêu, La Gián
- Huyện Bất Bạt: Thủ Pháp, Phú Nghĩa, Cẩm Đái, Phú Hữu, Khê Thượng
- Thị xã Sơn Tây: lập năm 1924, rộng 150 mẫu (0,54 km2 trong đó Thành cổ Sơn Tây rộng 0,16 km2), trên đất huyện Phúc Thọ và Tùng Thiện ở các làng: Phú Nhi, Thuần Nghệ, Phù Xa, Mai Đạm Chai và Nghĩa Phủ.
Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Con người[sửa | sửa mã nguồn]
Tính cách: Dư địa chí [2] của Nguyễn Trãi có lời bình: "Ở vùng Sơn Tây người thuần hậu, phong tục chất phác; tuy qua nhiễu loạn, chưa hề cường ngạnh bao giờ"
Dân tộc: Theo Tổng điều tra dân số 2019 [15] có 57,14% người Mường cả nước cư trú ở Xứ Đoài. Trong đó Hà Nội chỉ còn 4,29%, Phú Thọ 15,04% và Hòa Bình 37,81%. Dẫu vậy, từ tên các địa danh cổ (Mê Linh, Văn Lang, Sông Hát... đều có nguồn gốc tiếng Mường và vô nghĩa nếu xét theo Hán Nôm[16]) hay sự tương đồng về văn hóa và đặc biệt là giọng nói - đều cho thấy dân tỉnh Đoài là người Mường - Việt cổ.
Giọng nói: Theo Sơn Tây tỉnh địa chí [17]: "nhân dân nói tiếng nặng không khác gì nhân dân Trung Kỳ... lắm nơi nhân dân lại dùng các thổ âm khác hẳn với tiếng ta thường nói...". Theo PGS.TS Phạm Văn Hảo [18], thì dân tỉnh Đoài nói tiếng Mường được Việt hóa. Ngoài ra, Phủ Quốc Oai là nơi sinh sống của tù binh Chăm Pa cũng có thể là nguyên nhân tạo ra giọng nói khác biệt hoàn toàn với miền Bắc.[19]
Danh nhân: Quân chủ: Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Lý Phật Tử, Lý Thiên Bảo, Phùng Hưng, Phùng An, Ngô Quyền, Ngô Nhật Khánh, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Kiều Công Tiễn, Từ Đạo Hạnh. Quan lại: Tinh Thiều, Lý Phục Man, Tô Hiến Thành, Đỗ Kính Tu, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Sư Mạnh, Phùng Khắc Khoan, Giang Văn Minh, Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Kính, Phan Huy Chú, Phan Kế Toại... Chính khách: Phùng Quang Thanh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Thái Học, Xuân Thủy, Nguyễn Văn Huyên, Trần Duy Hưng, Khuất Duy Tiến, Phan Trọng Tuệ, Văn Tiến Dũng, Phạm Gia Khiêm, Lê Hiến Mai,... Văn học: Trần Thế Pháp, Tản Đà, Nguyễn Hiến Lê, Phạm Tiến Duật, Quang Dũng, Bút Tre... Âm nhạc: Duy Trác, Trần Hiếu, Trần Tiến, Phú Quang, Phan Lạc Hoa, Hoàng Lân, Hoàng Long... Hội họa: Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An... Sân khấu: Tào Mạt, Lại Văn Sâm, Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Ngạn... Thể thao: Nguyễn Lộc, Hoàng Xuân Vinh, Nguyễn Văn Quyết...
Di tích và danh thắng[sửa | sửa mã nguồn]
Đền và lăng: Đền Hùng với lễ Giổ Tổ mồng 10 tháng ba là cái tên nổi bật nhất ở Xứ Đoài. Kế đến là Đền Mẫu Âu Cơ khai hội mồng 6 tháng giêng.[20] Đền Hạ Lôi và Đền Hát Môn cùng thờ Hai Bà Trưng - làm lễ rước bánh trôi vào mồng 6 tháng ba.[21][22] Ngoài ra còn có Lăng Ngô Quyền và Đền Phùng Hưng ở Làng cổ Đường Lâm, Lăng Lý Nam Đế ở Tam Nông... Riêng những nơi thờ Sơn Tinh có tứ cung (nổi tiếng nhất là Đền Và), ba đền Thượng Trung Hạ trên núi Ba Vì, rất nhiều đình làng dưới chân núi (như Đình Tường Phiêu), các đền bên kia sông Đà (như Đền Lăng Sương) và bên kia sông Hồng (như Đền Ngự Dội)... đều tổ chức chính hội vào ngày 15 tháng giêng.[23]
Đình làng: Dân gian có câu "Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài" ý nói biểu tượng của Xứ Sơn Nam là những cây cầu, Xứ Kinh Bắc có nhiều chùa cổ và Xứ Đoải nổi tiếng nhất về kiến trúc đình làng. Toàn bộ 08 ngôi đình được xếp hạng di tích quốc gia Đặc biệt của Việt Nam đều nằm ở đây là: Đình So, Đình Chèm, Đình Tây Đằng, Đình Tường Phiêu, Đình Hạ Hiệp, Đình Đại Phùng, Đình Thổ Tang và cụm Đình Hương Canh.[24][25][26][27][28] Còn những ngôi đình là di tích quốc gia thì rất rất nhiều, như Đình Chu Quyến, Đình Mông Phụ, Đình Yên Sở... Trong đó hội làng dừa Yên Sở thờ tướng Lý Phục Man được tổ chức vào tháng ba rất hoành tráng.[29][30]
Chùa chiền: Phủ Quốc Oai nổi tiếng với Chùa Thầy trên núi Sài Sơn, thờ thánh Từ Đạo Hạnh và lễ hội mồng 7 tháng ba; Chùa Tây Phương trên núi Câu Lậu có 18 pho tượng La Hán tuyệt đẹp đi vào thơ ca,[31] và đặc biệt là Chùa Hương ở vùng núi Mỹ Lương với lễ hội kéo dài suốt ba tháng mùa xuân[32]. Còn ở Vĩnh Phúc có quần thể Chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo và Tháp Chùa Vĩnh Khánh. Tất cả đều là di tích quốc gia Đặc biệt.[33][34][35] Ngoài ra còn có Chùa Trăm Gian, Chùa Trầm, Chùa Mía...
Thắng cảnh: Ngoài Vườn quốc gia Ba Vì và Vườn quốc gia Tam Đảo với khí hậu mát mẻ, từ xưa đã được người Pháp chọn để xây dựng khu nghỉ mát; còn có Vườn quốc gia Xuân Sơn, Núi Viên Nam, Hồ Đồng Mô, Hồ Suối Hai, Hồ Đại Lải, Hồ Hòa Bình, Hồ Quan Sơn, Đầm Ao Châu, Suối nóng Kim Bôi, đồi chè Long Cốc...
Từ trái sang: Đình Tường Phiêu, Tháp Chùa Vĩnh Khánh, Chùa Tây Phương, Đền Hùng, Thủy đình Chùa Thầy, Lăng Ngô Quyền, Nhà thờ Tam Đảo, Gác chuông Chùa Hương, Thành cổ Sơn Tây
Di sản phi vật thể[sửa | sửa mã nguồn]
Phong tục và lễ hội: Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại [36]. Theo Đại Nam nhất thống chí [37] tới thời Nguyễn, ở Bất Bạt và Mỹ Lương vẫn lấy tháng 11 âm lịch (tháng Tý) làm đầu năm mới, theo truyền thống từ thời Vua Hùng [38]. Đến nay vẫn có một số nơi ăn Tết, xông đất, mở cửa rừng, ăn đất... (như ở Lập Thạch [39]). Ngoài những lễ hội gắn với các nhân vật lịch sử, còn có các lễ hội giải trí như Hội phết Hiền Quan, Chọi trâu Hải Lựu, Hội diều Bá Dương Nội [40]...
Nghệ thuật và mỹ nghệ: Xứ Đoài có hát xoan cũng được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.[41] Múa rối nước làng Ra là một phường nổi tiếng có từ thời Lý [42], khởi nguồn từ làng mộc Chàng Sơn với truyền thống từ thời Hùng Vương.[43] Ngoài ra còn có hát Chèo Tàu ở Đan Phượng [44], hát Dô ở Quốc Oai [45], dòng tranh Kim Hoàng ở Hoài Đức [46], làng gốm Hương Canh [47] và mây tre đan Phú Vinh [48][49]... đều rất đặc sắc.
Đặc sản: Bánh hòn là món ăn phổ biến khắp Xứ Đoài. Ở Phú Thọ có cọ ỏm, thịt chua, cá anh vũ, bưởi Đoan Hùng... Ở Vĩnh Phúc có rau su su, cá thính... Gần Sơn Tây có gà Mía, chè lam, bánh tẻ, nem Phùng, cà dầm tương, bưởi Diễn, miến So, rau sắng, sữa Ba Vì... Còn người Mường có rượu cần, cơm lam, cá nướng sông Đà...
Từ trái sang: Cà dầm tương, Bánh chè lam, Cọ ỏm, Bánh hòn, Cá thính, Nem Phùng, Cỗ Sơn Tây có bánh tẻ, gà Mía; Cỗ lá người Mường có cá nướng, măng rừng...
Từ trái sang: tranh gà Kim Hoàng, lồng bàn mây tre đan Phú Vinh, bình gốm Hương Canh, quạt giấy Chàng Sơn
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Xứ Mường * Xứ Kinh Bắc * Xứ Sơn Nam * Xứ Đông * Xứ Thanh * Xứ Nghệ
- Sơn Tây tỉnh địa chí, Phạm Xuân Độ, 1941
- Dư địa chí, Nguyễn Trãi, Nhà xuất bản Sử Học, 1960
- Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, Nhà xuất bản Khoa học, 1964
- Đại Nam nhất thống chí, Quốc Sử Quán, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006, Tập 4
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Nơi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, nay là xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ.
- ^ Nơi Hai Bà hy sinh dưới chân núi Ba Vì và Viên Nam, gần khu CNC Hòa Lạc.
- ^ Nơi Lý Nam Đế giao chiến với quân Lương, nay ở xã Tứ Yên, huyện Sông Lô.
- ^ Nơi Lý Nam Đế rút về và mất, nay thuộc huyện Tam Nông.
- ^ Nơi Lý Phật Tử giao chiến với Triệu Việt Vương, nay là xã Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm.
- ^ Được cho là kinh đô của Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế và Lý Phật Tử, nay thuộc xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng.
- ^ Nơi sinh ra hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền
- ^ Về thành Bình Kiều của Ngô Xương Xí hiện còn đang tranh cãi: 1 là ở Mỹ Lương và Hoài An (tức Phúc Lộc Châu - theo Ngô Thì Sĩ và Phan Huy Chú - nay có đền thờ ở xã An Tiến, huyện Mỹ Đức và xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa); 2 là ở huyện Triệu Sơn (Thanh Hóa - hiện không có đền thờ nào). Theo Nguyễn Trãi thì Thanh Hóa giáp Sơn Tây và theo Lê Quý Đôn thì các triều trước từ Mỹ Lương có đường tắt vào Thanh Hóa rất gần (hành lang Thiên Quan). Nếu tính cả Ngô Xương Xí thì sẽ có tới một nửa số sứ quân tập trung ở Xứ Đoài.
- ^ Năm 1891 tách phủ Lâm Thao về tỉnh Hưng Hóa, trước đó trị sở Hưng Hóa đã "đặt nhờ" tại huyện Tam Nông của Sơn Tây.
- ^ Năm 1888 tách phủ Đoan Hùng nhập vào tỉnh Tuyên Quang, nay là một phần Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.
- ^ Năm 1886 tách vùng người Mường, đặt tỉnh lỵ tại Phương Lâm, huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai, nay là trung tâm TP. Hòa Bình.
- ^ Năm 1891 tách huyện Mỹ Lương lập đạo Mỹ Đức, tách huyện Từ Liêm nhập tỉnh Hà Nội. Năm 1904 tách thêm huyện Đan Phượng lập tỉnh Hà Đông.
- ^ Năm 1890 tách phủ Vĩnh Tường lập tỉnh Vĩnh Yên, nay là Vĩnh Phúc.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại Cương Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997, Tập 1, trang 15-43
- ^ a b c d Nguyễn Trãi (1960), Sđd, trang 28-30.
- ^ Trần Quốc Vượng dịch, Việt sử lược, quyển I, trang 17-19
- ^ Truyện Mộc Tinh và truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, theo hai cuốn sách viết thời Trần là Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp) và Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên).
- ^ Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Khoa học
- ^ Phạm Xuân Độ (1941), Sđd, trang 12
- ^ Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc - Việt Nam. Hồ Bạch Thảo dịch (2010), NXB Hà Nội, tập 1, vb 280.
- ^ “Quyết định 103-NQ-TVQH”. 21 tháng 4 năm 1965.
- ^ “Nghị quyết 504-NQ-TVQH”. 26 tháng 1 năm 1968.
- ^ “Nghị quyết 15-2008-QH12”. 29 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Đền Hùng: Vùng đất thắng cảnh, phong thủy và địa linh”. 29 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Thập lục kỳ sơn của Phủ Quốc Oai”. 1 tháng 3 năm 2023.
- ^ Viện Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 36
- ^ Phạm Xuân Độ (1941), Sđd, trang 212
- ^ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 (PDF), Tổng cục Thống kê, tr. 43
- ^ Trần Quốc Vượng (1970), Từ truyền thuyết, ngữ ngôn đến lịch sử. Hùng Vương dựng nước, tập I. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
- ^ Phạm Xuân Độ (1941), Sđd, trang 45
- ^ “Giọng nói khác lạ của Tỉnh Đoài”. 5 tháng 7 năm 2014.
- ^ Đinh Đức Tiến, Vũ Diệu Trung. “Dấu tích một số làng Chăm trên đất Bắc”. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 354, tháng 12 năm 2013.
- ^ “Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ ở Phú Thọ”. phutho.gov.vn.
- ^ QĐ 2383/QĐ-TTg xếp hạng Đền Hạ Lôi và Đền Hát Môn chinhphu.vn
- ^ “Đền Hát Môn - Di tích quốc gia đặc biệt của Thủ Đô”. qdnd.vn.
- ^ “Đền Lăng Sương thờ Sơn Tinh ở Phú Thọ”. phutho.gov.vn.
- ^ QĐ 1820/QĐ-TTg xếp hạng Đình So, Đình Tường Phiêu và Đình Thổ Tang bvhttdl.gov.vn
- ^ QĐ 2280/QĐ-TTg xếp hạng Đình Hạ Hiệp chinhphu.vn
- ^ QĐ 2082/QĐ-TTg xếp hạng Đình Chèm chinhphu.vn
- ^ QĐ 1954/QĐ-TTg xếp hạng Đình Đại Phùng chinhphu.vn
- ^ QĐ 2383/QĐ-TTg xếp hạng Đình Tây Đằng chinhphu.vn
- ^ “Đình Quán Giá - Yên Sở”. hanoi.gov.vn.
- ^ “Lễ hội Quán Giá thế kỷ 20”.
- ^ Huy Cận (1960) Các vị La Hán chùa Tây Phương
- ^ “Xuân về trẩy hội chùa Hương”. Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam.
- ^ QĐ 2408/QĐ-TTg xếp hạng Chùa Thầy và Chùa Tây Phương chinhphu.vn
- ^ QĐ 2082/QĐ-TTg xếp hạng Chùa Hương chinhphu.vn
- ^ QĐ 2367/QĐ-TTg xếp hạng Tháp Chùa Vĩnh Khánh và Tây Thiên chinhphu.vn
- ^ “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2014.
- ^ Đại Nam nhất thống chí (2006), Sđd, trang 236
- ^ “Người Việt xưa ăn Tết tháng 11 âm lịch”. thanhnien.vn.
- ^ “Tục ăn đất ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc”. vnexpress.net.
- ^ “Lễ hội thả diều "ngàn năm tuổi" ở làng Bá Dương Nội”. dantri.com.vn.
- ^ “Hát xoan - Di sản phi vật thể của nhân loại”. vov.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2011.
- ^ “Nghệ thuật rối nước làng Ra, Thạch Thất”. hanoi.gov.vn.
- ^ “Chàng Sơn - ngôi làng nghìn năm tuổi gìn giữ tinh hoa đất Việt”. qdnd.vn.
- ^ “Lễ hội hát Chèo tàu Tổng Gối”. hanoi.gov.vn.
- ^ “Hát Dô - tục cổ Xứ Đoài”. nhandan.vn.
- ^ “Dòng tranh dân gian Kim Hoàng, Hoài Đức”. vov.vn.
- ^ “Gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc”. vov.vn.
- ^ “Làng nghề mây tre đan Phú Vinh”. hanoi.gov.vn.
- ^ “Sản phẩm tinh xảo giá trị cao của làng nghề mây tre đan Phú Vinh”. vnexpress.net.