Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Canada”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 93: Dòng 93:


Canada là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao thứ tám toàn cầu, và chỉ số phát triển con người cao thứ 11. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, và tự do kinh tế. Canada tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và liên chính phủ về kinh tế: [[G8]], [[G20]], [[Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ]], [[Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương]]. Canada là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ([[NATO]]).
Canada là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao thứ tám toàn cầu, và chỉ số phát triển con người cao thứ 11. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, và tự do kinh tế. Canada tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và liên chính phủ về kinh tế: [[G8]], [[G20]], [[Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ]], [[Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương]]. Canada là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ([[NATO]]).



==Từ nguyên==
==Từ nguyên==
Dòng 103: Dòng 102:
Đến khi liên bang hóa vào năm 1867, ''Canada'' được chọn làm tên gọi pháp lý của quốc gia mới, và từ ''Dominion'' (lãnh thổ tự trị) được ban để làm danh hiệu của quốc gia.<ref>{{cite book|last=O'Toole|first=Roger|title=Holy nations and global identities: civil religion, nationalism, and globalisation|year=2009|publisher=Brill|isbn=978-90-04-17828-1|editor=Hvithamar, Annika; Warburg, Margit; Jacobsen, Brian Arly|page=137|chapter=Dominion of the Gods: Religious continuity and change in a Canadian context}}</ref> Tuy nhiên, khi Canada khẳng định quyền tự chủ của mình khỏi Anh Quốc, chính phủ liên bang ngày càng chỉ sử dụng ''Canada'' trong các tài liệu nhà nước và hiệp định, sự thay đổi này được phản ánh thông qua việc đổi tên ngày lễ quốc gia từ Ngày Lãnh thổ tự trị sang Ngày Canada vào năm 1982.<ref name=buckner>{{cite book|title=Canada and the British Empire|editor= Buckner, Philip|publisher=Oxford University Press|year=2008|pages=37–40, 56–59, 114, 124–125|isbn=978-0-19-927164-1}}</ref>
Đến khi liên bang hóa vào năm 1867, ''Canada'' được chọn làm tên gọi pháp lý của quốc gia mới, và từ ''Dominion'' (lãnh thổ tự trị) được ban để làm danh hiệu của quốc gia.<ref>{{cite book|last=O'Toole|first=Roger|title=Holy nations and global identities: civil religion, nationalism, and globalisation|year=2009|publisher=Brill|isbn=978-90-04-17828-1|editor=Hvithamar, Annika; Warburg, Margit; Jacobsen, Brian Arly|page=137|chapter=Dominion of the Gods: Religious continuity and change in a Canadian context}}</ref> Tuy nhiên, khi Canada khẳng định quyền tự chủ của mình khỏi Anh Quốc, chính phủ liên bang ngày càng chỉ sử dụng ''Canada'' trong các tài liệu nhà nước và hiệp định, sự thay đổi này được phản ánh thông qua việc đổi tên ngày lễ quốc gia từ Ngày Lãnh thổ tự trị sang Ngày Canada vào năm 1982.<ref name=buckner>{{cite book|title=Canada and the British Empire|editor= Buckner, Philip|publisher=Oxford University Press|year=2008|pages=37–40, 56–59, 114, 124–125|isbn=978-0-19-927164-1}}</ref>


==Địa ==
==Lịch sử==
{{Main|Địa Canada}}
{{chính|Lịch sử Canada}}
===Các dân tộc Thổ dân===
Các nghiên cứu khảo cổ học và phân tích di truyền học cho biết có một sự hiện diện của loài người tại bắc bộ khu vực [[Yukon]] từ 24.500 TCN, và tại nam bộ [[Ontario]] từ 7500 TCN.<ref>{{cite web|year=2003 |url=http://www.ucl.ac.uk/tcga/tcgapdf/Bortolini-AJHG-03-YAmer.pdf |title=Y-Chromosome Evidence for Differing Ancient Demographic Histories in the Americas|format=PDF|publisher=University College London 73:524–539|doi=10.1086/377588|accessdate=May 23, 2011}}
</ref><ref>{{cite journal| last=Cinq-Mars| first=J| year=2001| title=On the significance of modified mammoth bones from eastern Beringia| journal=The World of Elephants&nbsp;– International Congress, Rome| url=https://web.archive.org/web/*/http://www.palanth.com/forum/upload_download/articles/cinqmars_elefanti_01.pdf|format=PDF| accessdate=May 23, 2011}}
</ref><ref>{{cite web| last=Wright|first=JV| publisher=[[Canadian Museum of Civilization]]| url=http://www.civilization.ca/cmc/exhibitions/archeo/hnpc/npvol04e.shtml| title=A History of the Native People of Canada: Early and Middle Archaic Complexes| date=September 27, 2009| accessdate=May 23, 2011}}</ref> Các di chỉ khảo cổ học người Da đỏ cổ đại (Paleo-Indian) tại bình nguyên Old Crow và các động Bluefish là hai trong số các di chỉ cổ nhất về sự cư trú của loài người tại Canada.<ref name="DirectorPresident1997">{{cite book|author1=Center for Archaeological Sciences Norman Herz Professor of Geology and Director|author2=Society of Archaelogical Sciences both at University of Georgia Ervan G. Garrison Associate Professor of Anthropology and Geology and President|title=Geological Methods for Archaeology|url=http://books.google.com/books?id=YSPkmV_mRvkC&pg=PA125|year=1997|publisher=Oxford University Press|isbn=978-0-19-802511-5|page=125}}</ref> Các đặc trưng của các xã hội Thổ dân Canada gồm có các khu định cư thường xuyên, nông nghiệp, kết cấu phân tầng xã hội phức tạp, và các mạng lưới mậu dịch.<ref>{{cite book|last=Hayes|first=Derek|title=Canada: an illustrated history|year=2008|publisher=Douglas & Mcintyre|isbn=978-1-55365-259-5|pages=7, 13}}</ref><ref>{{cite book |url=http://books.google.com/books?id=quM1xyFyfhQC&pg=PA170| title=Indigenous difference and the Constitution of Canada| first= Patrick| last=Macklem|year=2001|publisher=University of Toronto Press|page=170|isbn=978-0-8020-4195-1}}</ref> Một số trong các nền văn hóa này đã bị sụp đổ vào lúc những nhà thám hiểm người châu Âu đến vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16, và chỉ khám phá ra nhờ các điều tra nghiên cứu khảo cổ học.<ref>{{cite book|author=Sonneborn, Liz|title=Chronology of American Indian History|date=January 2007|publisher=Infobase Publishing|isbn=978-0-8160-6770-1|pages=2–12}}</ref>


Vào thời điểm người châu Âu thiết lập các khu định cư đầu tiên, dân số thổ dân Canada được ước tính là từ 200.000<ref name="dying"/> đến hai triệu,<ref name=Steckel>{{cite book|last=Thornton|first=Russell|title=A population history of North America|editors=Haines, Michael R; Steckel, Richard Hall|publisher=Cambridge University Press|year=2000|pages=13, 380|chapter=Population history of Native North Americans|isbn=978-0-521-49666-7}}</ref> còn Uỷ ban Hoàng gia Canada về Sức khỏe Thổ dân chấp nhận con số 500.000.<ref>{{cite book|title=Handbook of North American Indians: Indians in contemporary society|first= Garrick Alan |last=Bailey |year=2008|publisher= Government Printing Office|url=http://books.google.com/books?id=Z1IwUbZqjTUC&pg=PA285|page=285|isbn=978-0-16-080388-8}}</ref> Do hậu quả từ quá trình thực dân hóa của người châu Âu, các dân tộc Thổ dân Canada phải chịu tổn thất do các dịch bệnh truyền nhiễm mới được đưa đến bùng phát lặp lại nhiều lần, như dịch cúm, dịch sởi, dịch đầu mùa (do Thổ dân không có miễn dịch tự nhiên), kết quả là dân số của họ giảm từ 40-80% trong các thế kỷ sau khi người châu Âu đến.<ref name="dying">{{cite book|last=Wilson|first=Donna M|coauthors= Northcott, Herbert C|url=http://books.google.com/books?id=p_pMVs53mzQC&pg=PA25|title=Dying and Death in Canada|publisher=University of Toronto Press|year=2008|isbn=978-1-55111-873-4|pages=25–27}}</ref> Các dân tộc Thổ dân tại Canada ngày nay gồm có [[Các dân tộc Trước tiên]] (First Nations),<ref>{{cite web| title = Gateway to Aboriginal Heritage: Culture| publisher = Canadian Museum of Civilization| date = May 12, 2000| url = http://www.civilization.ca/cmc/exhibitions/tresors/ethno/etb0170e.shtml| accessdate =May 23, 2011}}</ref> [[Inuit]],<ref>{{cite web| title=ICC Charter| publisher=Inuit Circumpolar Council| year=2007| url=http://inuitcircumpolar.com/index.php?auto_slide=&ID=374&Lang=En&Parent_ID=&current_slide_num=| archiveurl = https://web.archive.org/web/20080226023243/http://inuitcircumpolar.com/index.php?auto_slide=&ID=374&Lang=En&Parent_ID=&current_slide_num=| archivedate=February 26, 2008| accessdate=May 23, 2011 }}</ref> và [[người Métis (Canada)|Métis]].<ref>{{cite web| title = In the Kawaskimhon Aboriginal Moot Court Factum of the Federal Crown Canada| publisher =[[University of Manitoba]] Faculty of Law|year=2007|url= http://www.umanitoba.ca/law/newsite/kawaskimhon_factums/FINALWrittenSubmissionsofFederalCrown_windsor.pdf|archiveurl = http://www.webcitation.org/5lOHtrRJy|archivedate=November 19, 2009|page=2| accessdate=May 23, 2011}}</ref> Người Métis là một dân tộc hỗn huyết, họ hình thành từ thế kỷ 17 khi những người Dân tộc Trước tiên và người Inuit kết hôn với dân định cư người châu Âu.<ref>{{cite web| title = What to Search: Topics| work = Ethno-Cultural and Aboriginal Groups| publisher = Library and Archives Canada| date = May 27, 2005| url = http://www.collectionscanada.gc.ca/genealogie/022-905.004-e.html| accessdate=May 23, 2011 }}</ref> Nhìn chung, người Inuit có ảnh hưởng tương hỗ hạn chế hơn với người châu Âu định cư trong thời kỳ thuộc địa hóa.<ref>{{cite web|url=http://www.heritage.nf.ca/aboriginal/innu_culture.html|work=Innu Culture|title=3. Innu-Inuit 'Warfare'|year=1999|author=Tanner, Adrian|publisher=Department of Anthropology, Memorial University of Newfoundland| accessdate=May 23, 2011 }}</ref>
Canada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, có biên giới trên bộ với [[Hoa Kỳ lục địa|Hoa Kỳ liền kề]] ở phía nam và bang [[Alaska]] của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông đến Thái Bình Dương ở phía tây, phía bắc là [[Bắc Băng Dương]].<ref name="cia">
{{cite web |publisher= CIA |url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ca.html|title=Canada |work=World Factbook |date=May 16, 2006 |accessdate=May 23, 2011}}</ref> [[Greenland]] thuộc Vương quốc Đan Mạch nằm ở phía đông bắc, còn [[Saint Pierre và Miquelon]] thuộc Pháp thì nằm ở phía nam đảo [[Newfoundland (đảo)|Newfoundland]] của Canada. Theo tổng diện tích, Canada là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Nga. Theo diện tích đất, Canada xếp thứ tư.<ref name="cia" /> Quốc gia nằm giữa các vĩ độ 41°B và 84°B, và giữa các kinh độ 52° T và 141°T.


===Người châu Âu thuộc địa hóa===
[[File:Canada-satellite.jpg|thumb|250px|Ảnh vệ tinh ghép của Canada. [[Taiga|Các khu rừng phương Bắc]] chiếm ưu thế trên [[khiên Canada]] nhiều đá, trong khi băng và [[đài nguyên]] chiếm ưu thế tại [[vùng Bắc Cực]].]]
Nỗ lực đầu tiên được biết đến nhằm thuộc địa hóa lãnh thổ nay là Canada của người châu Âu bắt đầu khi người Norse định cư trong một thời gian ngắn tại [[L'Anse aux Meadows]] thuộc Newfoundland vào khoảng năm 1000 CN.<ref>
{{cite book|title=The Norse Discovery of America|first=Arthur Middleton|last=Reeves|url=http://books.google.com/books?id=HkoPUdPM3V8C&pg=PA7|publisher=BiblioLife|page=82|year=2009|isbn=978-0-559-05400-6}}</ref> Không có thêm hành động thám hiểm của người châu Âu cho đến năm 1497, khi đó thủy thủ người Ý [[John Cabot]] khám phá ra vùng duyên hải Đại Tây Dương của Canada cho [[Vương quốc Anh]].<ref>{{cite web|title=John Cabot's voyage of 1497|url=http://www.heritage.nf.ca/exploration/cabot1497.html |publisher=Memorial University of Newfoundland|year=2000|accessdate=August 15, 2012}}</ref> Các thủy thủ [[người Basque]] và người Bồ Đào Nha thiết lập các tiền đồn săn bắt cá voi và cá dọc theo vùng duyên hải Đại Tây Dương của Canada vào đầu thế kỷ 16.<ref name=hornsby/> Năm 1534, nhà thám hiểm người Pháp [[Jacques Cartier]] khám phá ra sông St. Lawrence, vào ngày 24 tháng 7 ông cắm một thánh giá cao {{convert|10|m|ft|adj=on}} mang dòng chữ "Pháp quốc quốc vương vạn tuế", và đoạt quyền chiếm hữu lãnh thổ nhân danh [[François I của Pháp|Quốc vương François I]].<ref name=CartierBiggar1993>{{cite book|author1=Cartier, Jacques; Biggar, Henry Percival; Cook, Ramsay|title=The Voyages of Jacques Cartier|url=http://books.google.com/books?id=VcKEk7hRTmYC&pg=PA26|year=1993|publisher=University of Toronto Press|isbn=978-0-8020-6000-6|page=26}}</ref>


[[Tập tin:The Arrival of the French Girls at Quebec, 1667 - C.W. Jefferys.jpg|nhỏ|trái|Các "cô nương của Quốc vương" đến Québec vào năm 1667, họ nhập cư đến Tân Pháp theo một chương trình của Quốc vương Pháp [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]]]]
Kể từ năm 1925, Canada tuyên bố chủ quyền với phần thuộc vùng Bắc Cực nằm giữa 60°T và 141°T,<ref name="West2004">{{cite book|author=Niels West|title=Marine Affairs Dictionary: Terms, Concepts, Laws, Court Cases, and International Conventions and Agreements|url=http://books.google.com/books?id=wd2pbRxuW0QC&pg=PA31|year=2004|publisher=Greenwood Publishing Group|isbn=978-0-313-30421-7|page=31}}</ref> song yêu sách này không được công nhận phổ biến. Canada là nơi có khu định cư viễn bắc nhất của thế giới, đó là trạm Alert của Quân đội Canada, nằm ở mũi phía bắc của [[đảo Ellesmere]] – vĩ độ 82,5°B – cách Bắc Cực {{convert|817|km|mi}}.<ref>{{cite book|title=Canadian Geographic|year=2008|publisher=Royal Canadian Geographical Society|page=20}}</ref> Phần lớn vùng Bắc Cực thuộc Canada bị băng và tầng đất đóng băng vĩnh cửu bao phủ. Canada có đường bờ biển dài nhất trên thế giới, với tổng chiều dài là {{convert|202080|km|mi}};<ref name="cia"/> thêm vào đó, biên giới Canada-Hoa Kỳ là biên giới trên bộ dài nhất thế giới, trải dài {{convert|8891|km|mi}}.<ref>{{cite web |publisher= International Boundary Commission |url=http://www.internationalboundarycommission.org/boundary.html |title=The Boundary |year=1985|accessdate=May 17, 2012}}</ref>


Năm 1583, nhà thám hiểm người Anh [[Humphrey Gilbert]] tuyên bố chủ quyền đối với [[St. John's, Newfoundland và Labrador|St. John's, Newfoundland]], nơi này trở thành thuộc địa đầu tiên của Anh tại Bắc Mỹ theo đặc quyền vương thất của [[Elizabeth I của Anh|Nữ vương Elizabeth I]].<ref name=Rose2007>{{cite book|author=Rose, George A|title=Cod: The Ecological History of the North Atlantic Fisheries|url=http://books.google.com/books?id=tDNe7GOOwfwC&pg=PA209|date=October 1, 2007|publisher=Breakwater Books|isbn=978-1-55081-225-1|page=209}}</ref> Nhà thám hiểm người Pháp [[Samuel de Champlain]] đến vào năm 1603, và thiết lập các khu định cư thường xuyên đầu tiên của người châu Âu tại Port Royal vào năm 1605 và thành phố Québec vào năm 1608.<ref name="KelleyTrebilcock2010">{{cite book|author1=Ninette Kelley|author2=Michael J. Trebilcock|title=The Making of the Mosaic: A History of Canadian Immigration Policy|url=http://books.google.com/books?id=3IHyRvsCiKMC&pg=PA27|date=September 30, 2010|publisher=University of Toronto Press|isbn=978-0-8020-9536-7|page=27}}</ref> Trong số những người Pháp thực dân tại [[Tân Pháp]], người Canada định cư rộng rãi tại thung lũng sông St. Lawrence và người Acadia định cư tại các tỉnh Hàng hải (Maritimes) ngày nay, trong khi các thương nhân da lông thú và các nhà truyền giáo Cơ Đốc thăm dò Ngũ Đại Hồ, [[vịnh Hudson]], và lưu vực [[sông Mississippi]] đến [[Louisiana (Tân Pháp)|Louisiana]]. Các cuộc chiến tranh Hải ly bùng nổ vào giữa thế kỷ 17 do tranh chấp quyền kiểm soát đối với mậu dịch da lông thú tại Bắc Mỹ.<ref name="TuckerArnold2011">{{cite book|author=Tucker, Spencer C; Arnold, James; Wiener, Roberta |title=The Encyclopedia of North American Indian Wars, 1607–1890: A Political, Social, and Military History|url=http://books.google.com/books?id=JsM4A0GSO34C&pg=PA394|date=September 30, 2011|publisher=ABC-CLIO|isbn=978-1-85109-697-8|page=394}}</ref>
Từ khi kỷ băng hà cuối cùng kết thúc, Canada gồm có tám miền rừng riêng biệt, gồm có rừng [[taiga|phương Bắc]] rộng lớn trên khiên Canada.<ref>{{cite book
|title = National Atlas of Canada
|publisher = Natural Resources Canada
|year = 2005
|isbn = 978-0-7705-1198-2 |page = 1}}
</ref> Canada có khoảng 31.700 hồ lớn hơn {{convert|3|km2|ha}},<ref>{{cite book|author=Thomas V. Cech|title=Principles of Water Resources: History, Development, Management, and Policy|url=http://books.google.com/books?id=A2nJCPPixGQC&pg=PA83|year=2010|publisher=John Wiley & Sons|isbn=978-0-470-13631-7|page=83}}</ref> nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, và chứa nhiều nước ngọt của thế giới.<ref>{{cite book|last=Bailey|first=William G|coauthors=Oke, TR; Rouse, Wayne R|title=The surface climates of Canada|publisher=McGill-Queen's University Press|year=1997|page=124|url=http://books.google.com/books?id=oxNMhw-rRrQC&pg=PA244|isbn=978-0-7735-1672-4}}</ref> Cũng có một số sông băng nước ngọt trên [[Dãy núi Rocky của Canada]] và [[Dãy núi Coast]]. Canada là khu vực hoạt động về mặt địa chất, có nhiều động đất và núi lửa hoạt động tiềm năng, đáng chú ý là núi Meager, núi Garibaldi, núi Cayley, và tổ hợp núi lửa núi Edziza.<ref>{{cite book | last = Etkin | first = David | coauthors = Haque, CE; Brooks, Gregory R | title = An Assessment of Natural Hazards and Disasters in Canada | publisher = Springer | date = April 30, 2003 | pages =569, 582, 583 |isbn = 978-1-4020-1179-5}}</ref> Vụ [[Tseax Cone]] phun trào núi lửa vào năm 1775 nằm trong số các thảm họa tự nhiên tệ nhất tại Canada, sát hại 2.000 [[người Nisga'a]] và hủy diệt làng của họ tại thung lũng [[sông Nass]] ở bắc bộ British Columbia. Vụ phun trào tạo ra dòng chảy nham thạch dài {{convert|22,5|km|adj=on}}, và theo truyền thuyết của người Nisga'a thì nó chặn dòng chảy của sông Nass.<ref name="Asd">{{cite book|author=Jessop, A|title=Geological Survey of Canada, Open File 5906|url=http://books.google.com/books?id=z7IL9hO-_6cC&pg=PA18|publisher=Natural Resources Canada|pages=18–|id=GGKEY:6DLTQFWQ9HG}}</ref> Mật độ dân số của Canada là {{convert|3,3|PD/km2}}, nằm vào hàng thấp nhất trên thế giới. Phần có mật độ dân số đông đúc nhất của quốc gia là hành lang Thành phố Québec – Windsor, nằm tại Nam bộ Québec và Nam bộ Ontario dọc theo Ngũ Đại Hồ và sông St. Lawrence.<ref name="McMurryShepherd2004">{{cite book|author1=Peter H. McMurry|author2=Marjorie F. Shepherd|author3=James S. Vickery|title=Particulate Matter Science for Policy Makers: A NARSTO Assessment|url=http://books.google.com/books?id=1giH-mvhhw8C&pg=PA391|year=2004|publisher=Cambridge University Press|isbn=978-0-521-84287-7|page=391}}</ref>


Người Anh thiết lập thêm các thuộc địa tại Cupids và Ferryland trên đảo [[Newfoundland (đảo)|Newfoundland]], bắt đầu vào năm 1610.<ref name=BucknerReid1994>{{cite book|author1=Phillip Alfred Buckner|author2=John G. Reid|title=The Atlantic Region to Confederation: A History|url=http://books.google.com/books?id=_5AHjGRigpYC&pg=PA55|year=1994|publisher=University of Toronto Press|isbn=978-0-8020-6977-1|pages=55–56}}</ref> [[Mười ba thuộc địa]] ở phía nam được thành lập ngay sau đó.<ref name=hornsby>{{cite book|last=Hornsby|first=Stephen J|title=British Atlantic, American frontier: spaces of power in early modern British America|year=2005|publisher=University Press of New England|isbn=978-1-58465-427-8|pages=14, 18–19, 22–23}}</ref> Một loạt bốn cuộc chiến bùng nổ tại Bắc Mỹ thuộc địa hóa từ năm 1689 đến năm 1763; các cuộc chiến sau của giai đoạn này tạo thành Mặt trận Bắc Mỹ trong [[Chiến tranh Bảy năm]].<ref name=Nolan2008>{{cite book|author= Nolan, Cathal J|title=Wars of the age of Louis XIV, 1650–1715: an encyclopedia of global warfare and civilization|url=http://books.google.com/books?id=Nn_61ts-hQwC&pg=PA160|year=2008|publisher=ABC-CLIO|isbn=978-0-313-33046-9|page=160}}</ref> [[Nova Scotia]] đại lục nằm dưới quyền cai trị của người Anh theo [[Hiệp định Utrecht]] 1713; [[Hiệp định Paris (1763)]] nhượng lại Canada và hầu hết Tân Pháp cho [[Đế quốc Anh]] sau Chiến tranh Bảy năm.<ref>{{cite journal|last=Allaire|first=Gratien|title=From "Nouvelle-France" to "Francophonie canadienne": a historical survey|journal=International Journal of the Sociology of Language|date=May 2007|issue=185|pages=25–52|doi=10.1515/IJSL.2007.024|volume=2007}}</ref>
Nhiệt độ tối cao trung bình mùa đông và mùa hè tại Canada khác biệt giữa các khu vực. Mùa đông có thể khắc nghiệt tại nhiều nơi của quốc gia, đặc biệt là trong vùng nội địa và các tỉnh thảo nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa với nhiệt độ trung bình ngày là gần −15&nbsp;°[[Celsius|C]] (5&nbsp;°[[Fahrenheit|F]]), song có thể xuống dưới {{convert|-40|°C|°F|abbr=on}} với các cơn gió lạnh dữ dội.<ref>{{cite web |author=[[The Weather Network]]|url=http://www.theweathernetwork.com/statistics/C02072/CASK0261?CASK0261 |title=Statistics, Regina SK |accessdate=January 18, 2010 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20090105062344/http://www.theweathernetwork.com/statistics/C02072/CASK0261?CASK0261 |archivedate=January 5, 2009}}</ref> Tại các vùng không nằm ven biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng mỗi năm, trong khi các phần ở phía bắc có thể dai dẳng quanh năm. British Columbia Duyên hải có một khí hậu ôn hòa, với một mùa đông ôn hòa và mưa nhiều. Ở các vùng bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ tối cao trung bình thường là dưới hai mươi mấy độ C, trong khi tại lãnh thổ giữa các vùng bờ biển thì nhiệt độ tối cao vào mùa hạ biến động từ {{convert|25|to|30|C|F}}, nhiệt độ tại một số nơi ở nội địa thỉnh thoảng vượt quá {{convert|40|°C|°F|abbr=on}}.<ref>{{cite web |publisher= Environment Canada |url=http://climate.weatheroffice.gc.ca/climate_normals/index_e.html |title=Canadian Climate Normals or Averages 1971–2000|date=March 25, 2004|accessdate=May 23, 2011}}</ref>{{Clear right}}


Tuyên ngôn Vương thất 1763 tạo nên [[tỉnh Quebec (1763–1791)|tỉnh Quebec]] từ Tân Pháp, và sáp nhập [[đảo Cape Breton]] vào Nova Scotia.<ref name=buckner/> Đảo St. John's (nay là [[đảo Prince Edward]]) trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1769.<ref>{{cite journal|last=Hicks|first=Bruce M|title=Use of Non-Traditional Evidence: A Case Study Using Heraldry to Examine Competing Theories for Canada's Confederation|journal=British Journal of Canadian Studies|date=March 2010|volume=23|issue=1|pages=87–117|doi=10.3828/bjcs.2010.5}}</ref> Nhằm ngăn ngừa xung đột tại Québec, Anh Quốc thông qua đạo luật Québec vào năm 1774, mở rộng lãnh thổ của Québec đến Ngũ Đại Hồ và thung lũng sông Ohio. Anh Quốc cũng tái lập ngôn ngữ Pháp, đức tin Công giáo La Mã, và dân luật Pháp tại đây. Điều này khiến cho nhiều cư dân Mười ba Thuộc địa thức giận, kích động tình cảm chống Anh trong những năm trước khi bùng nổ [[Cách mạng Mỹ]].<ref name=buckner/>
== Lịch sử ==
{{Chính|Lịch sử Canada}}


Theo [[Hiệp định Paris (1783)|Hiệp định Paris]] 1783, Anh Quốc công nhận tình trạng độc lập của Hoa Kỳ và nhượng lại các lãnh thổ ở phía nam của Ngũ Đại Hồ cho Hoa Kỳ.<ref name=LeahyWilson2009>{{cite book|author1=Todd Leahy|author2=Raymond Wilson|title=Native American Movements|url=http://books.google.com/books?id=999tRpj8VGQC&pg=PR49|date=September 30, 2009|publisher=Scarecrow Press|isbn=978-0-8108-6892-2|page=49}}</ref> [[New Brunswick]] tách khỏi Nova Scotia trong một chiến dịch tái tổ chức các khu định cư trung thành tại The Maritime. Nhằm hòa giải những người nói tiếng Anh trung thành tại Quebec, Đạo luật Hiến pháp 1791 chia tỉnh này thành [[Hạ Canada]] (sau là Québec) Pháp ngữ và [[Thượng Canada]] (sau là Ontario) Anh ngữ, trao cho mỗi nơi quyền có riêng hội đồng lập pháp được bầu cử.<ref>{{cite book|last=McNairn|first=Jeffrey L|title=The capacity to judge|publisher=University of Toronto Press|year=2000|page=24|url=http://books.google.com/books?id=T_A3pZQrHzIC&pg=PA24|isbn=978-0-8020-4360-3}}</ref>
=== Thời tiền sử ===
Theo phán đoán của các nhà sử học và khảo cổ học, người thổ dân Canada (''Indian'') là các tộc người [[du mục]] đến từ khu vực [[Ấn Độ]]-[[Tây Tạng]]-[[Trung Quốc]]. Khoảng 10.000 đến 12.000 năm [[Công Nguyên|TCN]], những người này đã đến châu Mỹ. Vì những lý do như bị kẻ thù đuổi, săn bắt sinh vật, hay tìm nơi ở mới, họ đã tình cờ băng qua lớp băng đá trên [[eo biển Bering]] để đến [[Alaska]]. Từ đây, họ tiếp tục di cư đến khắp châu lục [[Bắc Mỹ]], [[biển Caribe|biển Caribbean]] và [[Nam Mỹ]], phát triển ra thành hàng chục ngàn bộ tộc mới.


Hai thuộc địa là chiến trường chính trong [[Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812)|Chiến tranh năm 1812]] giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc. Sau chiến tranh là
Còn người [[Inuit]] được cho là xuất xứ từ khu vực [[Xibia|Siberia]], [[Nga]]. Họ cũng di cư qua eo Bering, nhưng lại định cư hoàn toàn ở miền Bắc Canada, từ [[vĩ tuyến]] 60° trở lên.
hiện tượng nhập cư quy mô lớn từ đảo Anh và đảo Ireland bắt đầu vào năm 1815.<ref name=Steckel/> Từ năm 1825 đến năm 1846, 626.628 người nhập cư châu Âu được ghi chép là đã đặt chân lên các cảng tại Canada.<ref>{{cite web|url=http://faculty.marianopolis.edu/c.belanger/QuebecHistory/encyclopedia/ImmigrationHistoryofCanada.htm|archiveurl=https://web.archive.org/web/20071216101207/http://faculty.marianopolis.edu/c.belanger/QuebecHistory/encyclopedia/ImmigrationHistoryofCanada.htm|archivedate=December 16, 2007|title=Immigration History of Canada|year=2004|publisher=Marianopolis College|accessdate=May 23, 2011}}</ref> Họ gồm có những người Ireland chạy trốn Nạn đói lớn Ireland cũng như ngững người Scot nói tiếng Gael phải dời đi theo Thanh trừ Cao địa (Highland Clearances).<ref>{{cite web |url=http://www.cchahistory.ca/journal/CCHA1935-36/Gallagher.html |work=cchahistory.ca |title=The Irish Emigration of 1847 and Its Canadian Consequences}}</ref> Khoảng từ một phần tư đến một phần ba tổng số người châu Âu nhập cư đến Canada trước năm 1891 đã thiệt mạng do các bệnh truyền nhiễm.<ref name="dying"/>


Nguyện vọng của người Canada về việc có chính phủ chịu trách nhiệm dẫn đến các cuộc Nổi dậy năm 1837 song kết quả là nhanh chóng thất bại. Báo cáo Durham sau đó đề xuất về chính phủ chịu trách nhiệm và đồng hóa người Canada gốc Pháp vào văn hóa Anh.<ref name=buckner/> Đạo luật Liên minh 1840 hợp nhất Thượng và Hạ Canada thành [[tỉnh Canada]] thống nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm được thành lập cho toàn bộ các tỉnh Bắc Mỹ thuộc Anh từ năm 1849.<ref>{{cite journal|last=Romney|first=Paul|date=Spring 1989|title=From Constitutionalism to Legalism: Trial by Jury, Responsible Government, and the Rule of Law in the Canadian Political Culture|journal=Law and History Review|publisher=University of Illinois Press|volume=7|issue=1|page=128}}</ref> Anh Quốc và Hoa Kỳ ký kết [[Hiệp định Oregon]] vào năm 1846, qua đó kết thúc tranh chấp biên giới Oregon, kéo dài biên giới về phía tây dọc theo vĩ độ 49° Bắc. Hiệp định này mở đường cho việc hình thành các thuộc địa [[đảo Vancouver]] (1849) và [[British Columbia]] (1858).<ref>{{cite book|last=Evenden|first=Leonard J|coauthors=Turbeville, Daniel E|title=Geographical snapshots of North America|editor=Janelle, Donald G|publisher=Guilford Press|year=1992|page=52|chapter=The Pacific Coast Borderland and Frontier|isbn=978-0-89862-030-6}}</ref>
Khoảng năm 1000, một vài người [[Người Viking|Viking]] ở Bắc Âu đã đặt chân đến [[Newfoundland]]. Nhưng họ không định cư mà trở về nước.


=== Thời thực dân Châu Âu ===
===Liên bang khuếch trương===
[[File:Canada provinces evolution 2.gif|thumb|left|300px|Phát triển và thay đổi các tỉnh và lãnh thổ của Canada kể từ khi lập liên minh vào năm 1867]]
Khoảng cuối [[thế kỷ 15]], một vài nhà thám hiểm châu Âu đã theo chân [[Cristoforo Colombo|Christopher Columbus]] thám hiểm châu Mỹ.
Sau một vài hội nghị hiến pháp, Đạo luật Hiến pháp 1867 chính thức tuyên bố thành lập Liên minh Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1867, ban đầu gồm có bốn tỉnh – Ontario, Québec, [[Nova Scotia]], và [[New Brunswick]].<ref name="DijkinkKnippenberg2001">{{cite book|author1=Gertjan Dijkink|author2=Hans Knippenberg|title=The Territorial Factor: Political Geography in a Globalising World|url=http://books.google.com/books?id=3RRJr-5q1H0C&pg=PA226|year=2001|publisher=Amsterdam University Press|isbn=978-90-5629-188-4|page=226}}</ref><ref name=bothwell>
{{cite book|title = History of Canada Since 1867|first = Robert | last = Bothwell|publisher = Michigan State University Press|year = 1996|isbn = 978-0-87013-399-2|pages=31, 207–310}}</ref> Canada đảm nhận quyền kiểm soát Đất Rupert và Lãnh thổ Tây-Bắc để hình thành nên [[các Lãnh thổ Tây Bắc]], tại lãnh thổ này sự bất bình của người Métis bùng phát thành Nổi dậy Red River và hình thành tỉnh [[Manitoba]] vào tháng 7 năm 1870.<ref>{{cite book|last=Bumsted|first=JM|title=The Red River Rebellion|publisher=Watson & Dwyer|year=1996|isbn=978-0-920486-23-8}}</ref> British Columbia và Đảo Vancouver (được hợp nhất vào năm 1866) gia nhập Liên minh vào năm 1871, còn đảo Prince Edward gia nhập vào năm 1873.<ref name=canatlas>{{cite web|url=http://www.canadiangeographic.ca/Atlas/themes.aspx?id=building&sub=building_basics_confederation&lang=En|title=Building a nation|work=Canadian Atlas|publisher=Canadian Geographic|accessdate=May 23, 2011}}</ref>


Thủ tướng [[John A. Macdonald]] và chính phủ Bảo thủ của ông lập ra một chính sách quốc gia về thuế quan nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo còn non trẻ của Canada.<ref name=bothwell/> Để khai thông phía Tây, chính phủ tài trợ việc xây dựng ba tuyến đường sắt xuyên lục địa, mở cửa các thảo nguyên cho hoạt động định cư theo Đạo luật Thổ địa Lãnh thổ tự trị, và thiết lập Kị cảnh Tây-Bắc để khẳng định quyền lực trên lãnh thổ này.<ref>{{cite web|url=http://www.collectionscanada.gc.ca/sir-john-a-macdonald/023013-5000-e.html|title=Sir John A. Macdonald|year=2008|publisher=Library and Archives Canada|accessdate=May 23, 2011}}
Năm [[1497]], [[Giovanni Caboto|John Cabot]] khám phá Newfoundland và tuyên bố thuộc về vùng đất đó thuộc về Anh. Năm [[1534]], [[Jacques Cartier]] tìm ra khu vực [[sông Saint Lawrence|sông Saint-Laurent]] cho [[Pháp]]. Năm [[1603]], [[Samuel de Champlain]] đã thành lập khu dân cư đầu tiên, [[Thành phố Québec|thành Québec]] trên bờ sông Saint-Laurent và trở thành thống đốc [[Nouvelle-France|Tân Pháp]] (''Nouvelle-France'') tại [[Bắc Mỹ]].
</ref><ref>{{cite web|url=http://www.collectionscanada.gc.ca/publications/archivist-magazine/015002-2230-e.html|title=The Canadian West: An Archival Odyssey through the Records of the Department of the Interior|last=Cook|first=Terry|year=2000|work=The Archivist|publisher=Library and Archives Canada|accessdate=May 23, 2011}}</ref> Năm 1898, trong Cơn sốt vàng Klondike tại các Lãnh thổ Tây Bắc, chính phủ Canada lập ra [[Lãnh thổ Yukon]]. Dưới thời Chính phủ Tự do của Thủ tướng [[Wilfrid Laurier]], những người nhập cư đến từ lục địa châu Âu đến định cư trên các thảo nguyên, rồi [[Alberta]] và [[Saskatchewan]] trở thành các tỉnh vào năm 1905.<ref name="canatlas" />


===Đầu thế kỷ 20 ===
Các công ty [[Anh]] và [[Pháp]] đến Bắc Mỹ trao đổi, buôn bán với dân bản địa, mặt hàng quan trọng nhất là lông thú. Từ đó các cuộc tranh chấp đất đai và giành quyền kiểm soát giao thương diễn ra liên tục. Bộ tộc [[Huron]] thân với Pháp bị tiêu diệt bởi bộ tộc [[Iroquois]] thân với Anh. Thuộc địa Pháp liền bị đẩy vào thế nguy hiểm. Vua Pháp nhanh chóng ra nhiều chính sách để thu hút thêm dân nhập cư vào Tân Pháp. Năm [[1760]], dân số Tân Pháp đã tăng lên 70.000.
[[File:Canadian tank and soldiers Vimy 1917.jpg|thumb|Các binh sĩ Canada và một tăng Mark II trong [[Trận cao điểm Vimy]] tại Pháp vào năm 1917]]
Anh Quốc vẫn duy trì quyền kiểm soát trên lĩnh vực đối ngoại của Canada theo Đạo luật Liên minh, do vậy việc cường quốc này tuyên chiến vào năm 1914 tự động đưa Canada vào [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Các quân nhân tình nguyện được đưa đến [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] và sau đó trở thành một phần của [[Quân đoàn Canada]]. Quân đoàn đóng một vai trò quan trọng trong [[trận cao điểm Vimy]] và các hoạt động giao chiến khác trong cuộc chiến.<ref name=morton-milhist>{{cite book|last=Morton|first=Desmond|title=A military history of Canada|publisher=McClelland & Stewart|year=1999|edition=4th|pages=130–158, 173, 203–233, 258|isbn=978-0-7710-6514-9}}</ref> Trong số xấp xỉ 625.000 người Canada phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, có khoảng 60.000 bị giết và 173.000 bị thương.<ref>{{cite book|last=Haglund|first=David G|coauthors= MacFarlane, S Neil|title=Security, strategy and the global economics of defence production|publisher=McGill-Queen's University Press|year=1999|page=12|isbn=978-0-88911-875-1}}</ref> Khủng hoảng Tòng quân năm 1917 nổ ra khi Thủ tướng Bảo thủ [[Robert Borden]] cho tiến hành nghĩa vụ quân sự cưỡng bách bất chấp sự phản đối dữ dội của người Québec Pháp ngữ. Cuộc khủng hoảng này, cùng với các tranh chấp về các trường tiếng Pháp bên ngoài Quebec, tạo ra hố ngăn cách sâu sắc với người Canada Pháp ngữ và chia rẽ tạm thời Đảng Tự do. Chính phủ Liên minh của Robert Borden bao gồm cả nhiều người Tự do Anh ngữ, đã giành được chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử năm 1917. Năm 1919, Canada gia nhập [[Hội Quốc Liên]] với tư cách độc lập với Anh,<ref name=morton-milhist/> Quy chế Westminster 1931 xác nhận tình trạng độc lập của Canada.<ref name=hail>{{cite journal |last=Hail |first=M |coauthors=Lange, S |title=Federalism and Representation in the Theory of the Founding Fathers: A Comparative Study of US and Canadian Constitutional Thought |journal=Publius: the Journal of Federalism |date=February 25, 2010 |volume=40 |issue=3 |pages=366–388 |doi=10.1093/publius/pjq001}}</ref>


Trong Đại khủng hoảng tại Canada vào đầu thập kỷ 1930, kinh tế bị suy thoái, khiến toàn quốc gặp cảnh gian khổ.<ref name=Bryce1986>{{cite book|author=Robert B. Bryce|title=Maturing in Hard Times: Canada's Department of Finance through the Great Depression|url=http://books.google.com/books?id=y2XU2UzE-vUC&pg=PA41|date=June 1, 1986|publisher=McGill-Queens|isbn=978-0-7735-0555-1|page=41}}</ref> Ba ngày sau khi Anh Quốc tuyên chiến với Đức Quốc Xã trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], chính phủ Tự do của Thủ tướng [[William Lyon Mackenzie King]] tuyên chiến với Đức một cách độc lập. Các đơn vị lục quân Canada đầu tiên đến Anh Quốc vào tháng 12 năm 1939.<ref name=morton-milhist/> Quân Canada đóng vai trò quan trọng trong nhiều trận chiến then chốt của đại chiến, gồm có [[Trận Dieppe]] năm 1942, [[Đồng Minh xâm chiếm Ý]], [[đổ bộ Normandie]], [[Hành quân Overlord|trận Normandie]], và [[trận Scheldt]] vào năm 1944.<ref name="morton-milhist"/> Canada cung cấp nơi tị nạn cho quân chủ Hà Lan khi quốc gia này bị Đức chiếm đóng, và được người Hà Lan tín nhiệm vì có đóng góp lớn vào việc giải phóng quốc gia này khỏi Đức Quốc Xã.<ref name=netherlands>{{cite book|last=Goddard|first=Lance|title=Canada and the Liberation of the Netherlands|publisher=Dundurn Press|year=2005|pages=225–232|isbn=978-1-55002-547-7}}</ref> Kinh tế Canada bùng nổ trong chiến tranh khi mà các ngành công nghiệp của quốc gia sản xuất các trang thiết bị quân sự cho Canada, Anh Quốc, [[Trung Hoa Dân Quốc|Trung Quốc]] và [[Liên Xô]].<ref name=morton-milhist/> Mặc dù có một cuộc khủng hoảng tòng quân khác tại Québec vào năm 1944, song Canada kết thúc chiến tranh với một quân đội lớn và kinh tế mạnh.<ref>{{cite book|last=Bothwell|first=Robert|title=Alliance and illusion: Canada and the world, 1945–1984|year=2007|publisher=UBC Press|isbn=978-0-7748-1368-6|pages=11, 31}}</ref>
Vào năm [[1756]], cuộc [[Chiến tranh Bảy năm]] giữa hai đế quốc thực dân Anh và Pháp ở châu Mỹ nổ ra. Vào năm [[1759]], tướng Anh là [[James Wolfe]] xua quân tấn công thành Québec của tướng [[Vương quốc Pháp|Pháp]] là Hầu tước [[Louis Joseph de Montcalm-Gozon]] và chiến thắng. Thành phố-pháo đài rơi vào tay quân Anh, còn Montcalm thì bị thương nặng. Vào năm 1760, quân Anh tiến đánh, chiếm được thành [[Montréal]] của quân Pháp. Vào năm [[1763]], Anh và Pháp ký hòa ước. Pháp nhường toàn bộ thuộc địa Bắc Mỹ cho Anh.


=== Thời thực dân Anh ===
===Thời hiện đại===
[[File:Alexander-NFLD.jpg|thumb|Tại [[Hội trường Rideau Hall]], [[Toàn quyền Canada|Toàn quyền]] [[Harold Alexander]] (giữa) nhận dự luật về các điều khoản liên minh giữa [[Newfoundland và Labrador|Newfoundland]] và Canada vào ngày 31 tháng 3 năm 1949]]
[[Nouvelle-France|Tân Pháp]] sau khi thuộc về Anh được đổi tên thành Quebec. Người dân (nói [[tiếng Pháp]]) và chính quyền ([[tiếng Anh]]) chống đối lẫn nhau. Thống đốc [[James Murray]] đã giải quyết bằng cách bỏ bớt các luật lệ của người Anh và ban cho người nói tiếng Pháp nhiều quyền hơn.


Khủng hoảng tài chính trong đại suy thoái khiến cho [[Lãnh thổ tự trị Newfoundland]] từ bỏ chính phủ chịu trách nhiệm vào năm 1934 và trở thành một thuộc địa vương thất do một Thống đốc Anh cai trị. Sau hai cuộc trưng cầu dân ý gay cấn vào năm năm 1948, người dân Newfoundland bỏ phiếu chấp thuận gia nhập Canada vào năm 1949 với địa vị một tỉnh.<ref name="Boyer1996">{{cite book|author=J. Patrick Boyer|title=Direct Democracy in Canada: The History and Future of Referendums|url=http://books.google.com/books?id=CWGN-RZcqNoC&pg=PA119|year=1996|publisher=Dundurn|isbn=978-1-4597-1884-5|page=119}}</ref>
[[1774]], [[Guy Carleton]] được vua Anh giao quyền thống đốc và đã ra [[Đạo luật Quebec]] (''Quebec Act''). Theo đó, dân Pháp chiếm đa số sẽ có quyền hơn trong [[chính phủ]]. Điều này gây bất mãn cho nhiều người gốc Anh.


Tăng trưởng kinh tế thời hậu chiến của Canada là sự kết hợp các chính sách của các chính phủ Tự do kế tiếp nhau, dẫn đến hình thành một bản sắc Canada mới, biểu thị thông qua việc chấp thuận [[quốc kỳ Canada|quốc kỳ lá phong]] hiện nay vào năm 1965,<ref>{{cite book|last=Mackey|first=Eva|title=The house of difference: cultural politics and national identity in Canada|publisher=University of Toronto Press|year=2002|isbn=978-0-8020-8481-1|page=57}}</ref> thi hành song ngữ chính thức (tiếng Anh và tiếng Pháp) vào năm 1969,<ref>{{cite journal|last=Landry|first=Rodrigue|coauthors=Forgues, Éric|title=Official language minorities in Canada: an introduction|journal=International Journal of the Sociology of Language|date=May 2007|issue=185|pages=1–9|doi=10.1515/IJSL.2007.022|volume=2007}}</ref> và lập thể chế đa nguyên văn hóa chính thức vào năm 1971.<ref>{{cite journal|last=Esses|first=Victoria M|coauthors= Gardner, RC|date=July 1996|title=Multiculturalism in Canada: Context and current status|journal=Canadian Journal of Behavioural Science|volume=28|issue=3|pages=145–152|doi=10.1037/h0084934}}</ref> Các chương trình dân chủ xã hội cũng được tiến hành, chẳng hạn như Medicare (bảo hiểm y tế), Kế hoạch Trợ cấp Canada, và Cho vay sinh viên Canada, song chính phủ các tỉnh, đặc biệt là tại Quebec và Alberta, phản đối nhiều chương trình trong số đó vì nó xâm phạm đến phạm vi quyền hạn của họ.<ref>{{cite web|url=http://www.escwa.un.org/information/publications/edit/upload/sd-01-09.pdf|archiveurl=http://www.webcitation.org/5nDiozOLF|archivedate=February 1, 2010|title=Social Policies in Canada: A Model for Development|last=Sarrouh|first=Elissar|date=January 22, 2002|work=Social Policy Series, No. 1|publisher=United Nations|pages=14–16, 22–37|accessdate=May 23, 2011}}</ref>
Năm [[1776]], [[Hoa Kỳ]] giành được độc lập, những người trung thành với vua Anh nhưng không muốn chống đối đã di cư đến Québec, New Brunswick và Nova Scotia. Dân số Anh tăng lên đáng kể ở đây, và [[Đạo luật Hiến pháp]] ra đời. Nó chia đôi Québec làm hai tỉnh: [[Thượng Canada]] (''Upper Canada'', là [[Ontario]] ngày nay) của dân nói tiếng Anh và [[Hạ Canada]] (''Lower Canada'', là [[Québec|Quebec]] ngày nay) của dân nói tiếng Pháp.


Một loạt các hội nghị hiến pháp khác dẫn đến kết quả là hiến pháp Canada đoạn tuyệt với Anh Quốc vào năm 1982, đồng thời với việc tạo thành Hiến chương Canada về Quyền lợi và tự do.<ref name=bickerton>{{cite book| editor=Bickerton, James; Gagnon, Alain| title=Canadian Politics| publisher=Broadview Press| edition=4th| isbn=978-1-55111-595-5| year=2004|pages=250–254, 344–347}}</ref> Năm 1999, [[Nunavut]] trở thành lãnh thổ thứ ba của Canada sau một loạt đàm phán với chính phủ liên bang.<ref>{{cite journal|last=Légaré|first=André|year=2008|title=Canada's Experiment with Aboriginal Self-Determination in Nunavut: From Vision to Illusion |journal=International Journal on Minority and Group Rights|volume=15|issue=2–3|pages=335–367|doi=10.1163/157181108X332659}}</ref>
Năm [[1838]], cuộc nổi loạn giữa dân Anh và Pháp ở hai tỉnh Thượng và Hạ diễn ra. Hai dân tộc đánh nhau loạn xạ giữa các đường phố, số người chết rất cao. Điều này khiến vua Anh cử [[Lord Durham]] sang Canada. Durham đã ra [[Đạo luật Hợp nhất]] (''Act of Union''). Đạo luật này nhập hai tỉnh Canada thành một. Durham mong rằng như vậy có thể làm cho dân Pháp bị đồng hóa và sẽ dễ dàng cai trị hơn. Dân nói tiếng Pháp chống đối chính phủ và tìm nhiều cách để duy trì [[văn hóa Pháp]].


Đồng thời, Quebec trải qua các biến đổi xã hội và kinh tế sâu sắc do [[Cách mạng Yên tĩnh]] trong thập niên 1960, sản sinh ra một phong trào dân tộc chủ nghĩa hiện đại. [[Mặt trận giải phóng Québec]] (FLQ) cấp tiến kích động [[Khủng thoảng Tháng Mười]] với một loạt vụ đánh bom và bắt cóc vào năm 1970,<ref>{{cite journal|last=Munroe|first=HD|title=The October Crisis Revisited: Counterterrorism as Strategic Choice, Political Result, and Organizational Practice|journal=Terrorism and Political Violence|year=2009|volume=21|issue=2|pages=288–305|doi=10.1080/09546550902765623}}</ref> [[Đảng Người Québec]] ủng hộ chủ quyền đã đắc cử trong cuộc tuyển cử tại Québec năm 1976, họ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý thất bại về chủ quyền-liên kết vào năm 1980. Các nỗ lực nhằm hòa giải với chủ nghĩa dân tộc Québec bằng hiến pháp thông qua Hòa ước Hồ Meech đã thất bại vào năm 1990.<ref name=sorens>{{cite journal|last=Sorens|first=J|title=Globalization, secessionism, and autonomy|journal=Electoral Studies|date=December 2004|volume=23|issue=4|pages=727–752|doi=10.1016/j.electstud.2003.10.003}}</ref> Điều này dẫn đến việc hình thành [[Bloc Québécois|khối Người Québec]] tại Québec và cổ vũ [[Đảng Cải cách Canada]] tại [[Tây bộ Canada|Tây bộ]] Canada.<ref>{{cite news|url=http://www.theglobeandmail.com/news/politics/a-brief-history-of-the-bloc-qubcois/article1672831/|title=A brief history of the Bloc Québécois |newspaper= The Globe and Mail|first=Daniel |last=Leblanc|date=August 13, 2010 |accessdate=November 25, 2010}}</ref><ref>{{cite book|title=The new politics of the Right: neo-Populist parties and movements in established democracies|first1=Hans-Georg |last1=Betz|first2= Stefan|last2= Immerfall|url=http://books.google.com/books?id=H9cGkDJgW7wC&pg=PA173|page=173|publisher=St. Martinʼs Press|year=1998|isbn=978-0-312-21134-9}}</ref> Một cuộc [[Trưng cầu dân ý độc lập Québec, 1995|trưng cầu dân ý thứ nhì]] được tiến hành vào năm 1995, kết quả là chủ quyền bị từ chối với đa số mỏng manh. Năm 1997, Tối cao pháp viện phán quyết rằng ly khai đơn phương của một tỉnh là điều vi hiến, và Nghị viện Canada thông qua Đạo luật Rõ ràng (Clarity Act), phác thảo các điều khoản về một xuất phát điểm đàm phán từ Liên minh.<ref name=sorens/>
Năm [[1858]], [[Anh]] mở ra thêm thuộc địa [[British Columbia]] ở bờ biển [[Thái Bình Dương]], nằm ở tây bắc của [[Bắc Mỹ]].


Ngoài vấn đề chủ quyền của Québec, một số cuộc khủng hoảng làm náo động xã hội Canada vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1960. Chúng gồm có [[Chuyến bay 182 của Air India]] phát nổ vào năm 1985, vụ mưu sát hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Canada;<ref>{{cite web|url=http://www.majorcomm.ca/en/termsofreference/|archiveurl=https://web.archive.org/web/20080622063429/http://www.majorcomm.ca/en/termsofreference/|archivedate=June 22, 2008|title=Commission of Inquiry into the Investigation of the Bombing of Air India Flight 182|publisher=Government of Canada |accessdate=May 23, 2011}}</ref> [[Thảm sát trường Bách khoa École]] vào năm 1989, một vụ xả súng đại học với mục tiêu là các nữ sinh;<ref>{{cite web|last= Sourour|first=Teresa K|url=http://www.diarmani.com/Montreal_Coroners_Report.pdf|year=1991 |format=PDF|title=Report of Coroner's Investigation|accessdate=May 23, 2011}}</ref> và [[Khủng hoảng Oka]] năm 1990,<ref>{{cite news|title=The Oka Crisis|url=http://archives.cbc.ca/politics/civil_unrest/topics/99/|format=Digital Archives |publisher=CBC|year=2000|accessdate=May 23, 2011}}</ref> là diễn biến đầu tiên trong một loạt các xung đột bạo lực giữa chính phủ và các nhóm Thổ dân.<ref>{{cite book|last=Roach|first=Kent|title=September 11: consequences for Canada|publisher=McGill-Queen's University Press|year=2003|pages=15, 59–61, 194|isbn=978-0-7735-2584-9}}</ref> Canada tham gia trong [[Chiến tranh vùng Vịnh]] năm 1990 với vị thế là một phần trong lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo, và hoạt động trong một số sứ mệnh gin giữ hòa bình trong thập kỷ 1990, bao gồm sứ mệnh [[UNPROFOR]] tại [[Nam Tư]] cũ.<ref>{{cite web|title=Canada and Multilateral Operations in Support of Peace and Stability|url=http://www.forces.gc.ca/en/news/article.page?doc=canada-and-multilateral-operations-in-support-of-peace-and-stability/hnlhlxfi|publisher=National Defence and the Canadian Forces|year=2010|accessdate=Feb 2, 2014}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.dragoons.ca/unprofor.html|title=UNPROFOR|publisher=Royal Canadian Dragoons|accessdate=October 24, 2012}}</ref>
=== Thành lập liên bang ===
Canada cử quân đến Afghanistan vào năm 2001, song từ chối tham gia cuộc xâm chiếm Iraq do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003.<ref>{{cite journal|last=Jockel|first=Joseph T|coauthors=Sokolsky, Joel B|year=2008|title=Canada and the war in Afghanistan: NATO's odd man out steps forward|journal=Journal of Transatlantic Studies|volume=6|issue=1|pages=100–115|doi=10.1080/14794010801917212}}</ref> Năm 2009, kinh tế Canada chịu tổn thất trong [[Đại suy thoái]] toàn cầu, song đã phục hồi một cách khiêm tốn.<ref name=3YearsOn>{{cite web|url=http://www.huffingtonpost.ca/2012/07/22/canada-recession-recovery_n_1692607.html|title=Canada Recession: Global Recovery Still Fragile 3 Years On|work=[[Huffington Post]]|date=July 22, 2012|accessdate=September 1, 2012}}</ref> Năm 2011, các lực lượng của Canada tham gia vào cuộc can thiệp do NATO dẫn đầu trong [[Nội chiến Libya]].<ref>{{cite news|url=http://www.cbc.ca/news/world/story/2011/10/20/f-libya-nato-mission.html|title=Canada's military contribution in Libya|publisher=CBC|date=October 20, 2011|accessdate=November 27, 2011}}</ref>
[[Ngày 1 tháng 7]] năm [[1867]], [[John Alexander Macdonald]] đã khánh thành Nước Tự trị Canada (''Dominion of Canada'') theo [[Đạo luật Anh Bắc Mỹ]] (''British North America Act''). Canada lúc bấy giờ gồm bốn tỉnh: Ontario, Québec, [[Nova Scotia]] và [[New Brunswick]].


==Địa lý==
[[1870]], [[Manitoba]] gia nhập Canada. [[1871]], [[British Columbia]] gia nhập. [[1873]], [[Đảo Hoàng tử Edward|Prince Edward Island]] gia nhập. [[1905]], [[Alberta]] và [[Saskatchewan]] gia nhập. [[1949]] Newfoundland gia nhập.
{{Main|Địa Canada}}


Canada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, có biên giới trên bộ với [[Hoa Kỳ lục địa|Hoa Kỳ liền kề]] ở phía nam và bang [[Alaska]] của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông đến Thái Bình Dương ở phía tây, phía bắc là [[Bắc Băng Dương]].<ref name="cia">
Do Anh vẫn giữ quyền kiểm soát các vấn đề đối ngoại của Canada theo Đạo luật Anh Bắc Mỹ, sự kiện Anh tuyên chiến với [[Đế quốc Đức|Đức]] vào năm [[1914]] đã lôi kéo [[Lịch sử quân sự Canada trong Thế chiến thứ nhất|Canada]] vào cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Quân tình nguyện được đưa đến [[Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|Mặt trận phía Tây]] về sau đã trở thành một phần thuộc [[Quân đoàn Canada]]. Quân đoàn đã giành [[chiến thắng]] trong [[trận cao điểm Vimy]] năm [[1917]] và đóng vai trò quan trọng trong những trận đánh lớn khác trong cuộc chiến.<ref name="morton-milhist">{{chú thích sách|last=Morton|first=Desmond|title=A military history of Canada|publisher=McClelland & Stewart|year=1999|edition=4th|pages=130–158, 173, 203–233, 258|isbn=978-0-7710-6514-9}}</ref> Ước tính có 625.000 người Canada phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong đó 60.000 người [[chết]] và 173.000 người khác bị thương.<ref>{{chú thích sách|last=Haglund|first=David G|coauthors= MacFarlane, S Neil|title=Security, strategy and the global economics of defence production|publisher=McGill-Queen's University Press|year=1999|page=12|isbn=978-0-88911-875-1}}</ref>
{{cite web |publisher= CIA |url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ca.html|title=Canada |work=World Factbook |date=May 16, 2006 |accessdate=May 23, 2011}}</ref> [[Greenland]] thuộc Vương quốc Đan Mạch nằm ở phía đông bắc, còn [[Saint Pierre và Miquelon]] thuộc Pháp thì nằm ở phía nam đảo [[Newfoundland (đảo)|Newfoundland]] của Canada. Theo tổng diện tích, Canada là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Nga. Theo diện tích đất, Canada xếp thứ tư.<ref name="cia" /> Quốc gia nằm giữa các vĩ độ 41°B và 84°B, và giữa các kinh độ 52° T và 141°T.


[[File:Canada-satellite.jpg|thumb|250px|Ảnh vệ tinh ghép của Canada. [[Taiga|Các khu rừng phương Bắc]] chiếm ưu thế trên [[khiên Canada]] nhiều đá, trong khi băng và [[đài nguyên]] chiếm ưu thế tại [[vùng Bắc Cực]].]]
[[1982]], [[Đạo luật Canada]] (''Canada Act'') được thông qua. Québec là tỉnh bang duy nhất không đồng ý thông qua. [[Đàm phán Hồ Meech]] (''Meech Lake Accord'') giữa thủ tướng [[Brian Mulroney]] và thủ hiến Québec [[Robert Bourassa]] nhằm thuyết phục tỉnh này ký vào đạo luật thất bại.

Kể từ năm 1925, Canada tuyên bố chủ quyền với phần thuộc vùng Bắc Cực nằm giữa 60°T và 141°T,<ref name="West2004">{{cite book|author=Niels West|title=Marine Affairs Dictionary: Terms, Concepts, Laws, Court Cases, and International Conventions and Agreements|url=http://books.google.com/books?id=wd2pbRxuW0QC&pg=PA31|year=2004|publisher=Greenwood Publishing Group|isbn=978-0-313-30421-7|page=31}}</ref> song yêu sách này không được công nhận phổ biến. Canada là nơi có khu định cư viễn bắc nhất của thế giới, đó là trạm Alert của Quân đội Canada, nằm ở mũi phía bắc của [[đảo Ellesmere]] – vĩ độ 82,5°B – cách Bắc Cực {{convert|817|km|mi}}.<ref>{{cite book|title=Canadian Geographic|year=2008|publisher=Royal Canadian Geographical Society|page=20}}</ref> Phần lớn vùng Bắc Cực thuộc Canada bị băng và tầng đất đóng băng vĩnh cửu bao phủ. Canada có đường bờ biển dài nhất trên thế giới, với tổng chiều dài là {{convert|202080|km|mi}};<ref name="cia"/> thêm vào đó, biên giới Canada-Hoa Kỳ là biên giới trên bộ dài nhất thế giới, trải dài {{convert|8891|km|mi}}.<ref>{{cite web |publisher= International Boundary Commission |url=http://www.internationalboundarycommission.org/boundary.html |title=The Boundary |year=1985|accessdate=May 17, 2012}}</ref>

Từ khi kỷ băng hà cuối cùng kết thúc, Canada gồm có tám miền rừng riêng biệt, gồm có rừng [[taiga|phương Bắc]] rộng lớn trên khiên Canada.<ref>{{cite book
|title = National Atlas of Canada
|publisher = Natural Resources Canada
|year = 2005
|isbn = 978-0-7705-1198-2 |page = 1}}
</ref> Canada có khoảng 31.700 hồ lớn hơn {{convert|3|km2|ha}},<ref>{{cite book|author=Thomas V. Cech|title=Principles of Water Resources: History, Development, Management, and Policy|url=http://books.google.com/books?id=A2nJCPPixGQC&pg=PA83|year=2010|publisher=John Wiley & Sons|isbn=978-0-470-13631-7|page=83}}</ref> nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, và chứa nhiều nước ngọt của thế giới.<ref>{{cite book|last=Bailey|first=William G|coauthors=Oke, TR; Rouse, Wayne R|title=The surface climates of Canada|publisher=McGill-Queen's University Press|year=1997|page=124|url=http://books.google.com/books?id=oxNMhw-rRrQC&pg=PA244|isbn=978-0-7735-1672-4}}</ref> Cũng có một số sông băng nước ngọt trên [[Dãy núi Rocky của Canada]] và [[Dãy núi Coast]]. Canada là khu vực hoạt động về mặt địa chất, có nhiều động đất và núi lửa hoạt động tiềm năng, đáng chú ý là núi Meager, núi Garibaldi, núi Cayley, và tổ hợp núi lửa núi Edziza.<ref>{{cite book | last = Etkin | first = David | coauthors = Haque, CE; Brooks, Gregory R | title = An Assessment of Natural Hazards and Disasters in Canada | publisher = Springer | date = April 30, 2003 | pages =569, 582, 583 |isbn = 978-1-4020-1179-5}}</ref> Vụ [[Tseax Cone]] phun trào núi lửa vào năm 1775 nằm trong số các thảm họa tự nhiên tệ nhất tại Canada, sát hại 2.000 [[người Nisga'a]] và hủy diệt làng của họ tại thung lũng [[sông Nass]] ở bắc bộ British Columbia. Vụ phun trào tạo ra dòng chảy nham thạch dài {{convert|22,5|km|adj=on}}, và theo truyền thuyết của người Nisga'a thì nó chặn dòng chảy của sông Nass.<ref name="Asd">{{cite book|author=Jessop, A|title=Geological Survey of Canada, Open File 5906|url=http://books.google.com/books?id=z7IL9hO-_6cC&pg=PA18|publisher=Natural Resources Canada|pages=18–|id=GGKEY:6DLTQFWQ9HG}}</ref> Mật độ dân số của Canada là {{convert|3,3|PD/km2}}, nằm vào hàng thấp nhất trên thế giới. Phần có mật độ dân số đông đúc nhất của quốc gia là hành lang Thành phố Québec – Windsor, nằm tại Nam bộ Québec và Nam bộ Ontario dọc theo Ngũ Đại Hồ và sông St. Lawrence.<ref name="McMurryShepherd2004">{{cite book|author1=Peter H. McMurry|author2=Marjorie F. Shepherd|author3=James S. Vickery|title=Particulate Matter Science for Policy Makers: A NARSTO Assessment|url=http://books.google.com/books?id=1giH-mvhhw8C&pg=PA391|year=2004|publisher=Cambridge University Press|isbn=978-0-521-84287-7|page=391}}</ref>

Nhiệt độ tối cao trung bình mùa đông và mùa hè tại Canada khác biệt giữa các khu vực. Mùa đông có thể khắc nghiệt tại nhiều nơi của quốc gia, đặc biệt là trong vùng nội địa và các tỉnh thảo nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa với nhiệt độ trung bình ngày là gần −15&nbsp;°[[Celsius|C]] (5&nbsp;°[[Fahrenheit|F]]), song có thể xuống dưới {{convert|-40|°C|°F|abbr=on}} với các cơn gió lạnh dữ dội.<ref>{{cite web |author=[[The Weather Network]]|url=http://www.theweathernetwork.com/statistics/C02072/CASK0261?CASK0261 |title=Statistics, Regina SK |accessdate=January 18, 2010 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20090105062344/http://www.theweathernetwork.com/statistics/C02072/CASK0261?CASK0261 |archivedate=January 5, 2009}}</ref> Tại các vùng không nằm ven biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng mỗi năm, trong khi các phần ở phía bắc có thể dai dẳng quanh năm. British Columbia Duyên hải có một khí hậu ôn hòa, với một mùa đông ôn hòa và mưa nhiều. Ở các vùng bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ tối cao trung bình thường là dưới hai mươi mấy độ C, trong khi tại lãnh thổ giữa các vùng bờ biển thì nhiệt độ tối cao vào mùa hạ biến động từ {{convert|25|to|30|C|F}}, nhiệt độ tại một số nơi ở nội địa thỉnh thoảng vượt quá {{convert|40|°C|°F|abbr=on}}.<ref>{{cite web |publisher= Environment Canada |url=http://climate.weatheroffice.gc.ca/climate_normals/index_e.html |title=Canadian Climate Normals or Averages 1971–2000|date=March 25, 2004|accessdate=May 23, 2011}}</ref>{{Clear right}}


== Nhân khẩu học ==
== Nhân khẩu học ==

Phiên bản lúc 05:57, ngày 16 tháng 4 năm 2014

Canada
Quốc kỳ Huy hiệu
Bản đồ
Vị trí của Canada
Vị trí của Canada
Tiêu ngữ
[A Mari Usque Ad Mare] lỗi: {{lang}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp)  (Latin)
"Từ biển tới biển"
Quốc ca
"O Canada"
Hành chính
Dân chủ nghị viện, quân chủ lập hiến[1]
Nữ hoàngElizabeth II
Toàn quyềnDavid Lloyd Johnston
Thủ tướngStephen Harper
Chánh tư phápBeverley McLachlin
Lập phápNghị viện
Thượng việnThượng nghị viện
Hạ việnHạ nghị viện
Thủ đôOttawa
45°24′B 75°40′T / 45,4°B 75,667°T / 45.400; -75.667
Thành phố lớn nhấtToronto
Địa lý
Diện tích9,984,670 km²
3,854,085 mi² (hạng thứ 2)
Diện tích nước8.92 (891,163 km2/344,080 mi2) %
Múi giờUTC−3.5 tới −8; mùa hè: UTC−2.5 tới −7
Lịch sử
Thành lập
1 tháng 7 năm 1867Luật Anh Bắc Mỹ
11 tháng 12 năm 1931Quy chế Westminster
17 tháng 4 năm 1982Đạo luật Canada
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Anhtiếng Pháp
Dân số ước lượng (2012)34.300.083[2][3] người (hạng thứ 35)
Dân số (2011)33,476,688[4] người
Mật độ (hạng thứ 228)
8.3 người/mi²
Kinh tế
GDP (PPP) (2011)Tổng số: $1.391 tỷ Mỹ kim[5] (hạng thứ 14)
Bình quân đầu người: $40,457[5] (hạng thứ 15)
GDP (danh nghĩa) (2011)Tổng số: $1.758 tỷ Mỹ kim[5] (hạng thứ 11)
Bình quân đầu người: $51,147[5] (hạng thứ 10)
HDI (2011)Tăng 0.908[6] rất cao (hạng thứ 6)
Hệ số Gini (2005)32.1[7] trung bình
Đơn vị tiền tệĐô la Canada ($) (CAD)
Thông tin khác
Tên miền Internet.ca
Mã điện thoại+1
Cách ghi ngày thángnn-tt-nnnn, tt-nn-nnnn, nnnn-tt-nn (CE)
Lái xe bênPhải

Canada (phiên âm tiếng Việt: Ca-na-đa; âm Hán-Việt: Gia Nã Đại), là quốc gia có diện tích lớn thứ hai trên thế giới, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ. Lãnh thổ Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái Bình Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Về phía nam, Canada giáp với Hoa Kỳ bằng một biên giới không bảo vệ dài nhất thế giới. Phía tây bắc của Canada giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ, đông bắc của Canada có đảo Greenland (thuộc Đan Mạch). Ở bờ biển phía đông có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon thuộc Pháp. Biên giới chung của Canada với Hoa Kỳ về phía nam và phía tây bắc là đường biên giới dài nhất thế giới.

Nhiều dân tộc Thổ dân cư trú tại lãnh thổ nay là Canada trong hàng thiên niên kỷ. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 15, người Anh và người Pháp thành lập các thuộc địa trên vùng duyên hải Đại Tây Dương của khu vực. Sau các xung đột khác nhau, Anh Quốc giành được rồi để mất nhiều lãnh thổ tại Bắc Mỹ, và đến cuối thế kỷ 18 thì còn lại lãnh thổ chủ yếu thuộc Canada ngày nay. Căn cứ theo Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh vào ngày 1 tháng 7 năm 1867, ba thuộc địa hợp thành thuộc địa liên bang tự trị Canada. Sau đó thuộc địa tự trị dần sáp nhập thêm các tỉnh và lãnh thổ. Năm 1931, theo Quy chế Westminster 1931, Anh Quốc trao cho Canada tình trạng độc lập hoàn toàn trên hầu hết các vấn đề. Các quan hệ cuối cùng giữa hai bên bị đoạn tuyệt vào năm 1982 theo Đạo luật Canada 1982.

Canada là một nền dân chủ đại nghị liên bang và một quốc gia quân chủ lập hiến, Nữ vương Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia. Canada là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia. Canada là quốc gia song ngữ chính thức (tiếng Anhtiếng Pháp) tại cấp liên bang. Do tiếp nhận người nhập cư quy mô lớn từ nhiều quốc gia, Canada là một trong các quốc gia đa dạng sắc tộc và đa nguyên văn hóa nhất trên thế giới, với dân số xấp xỉ 35 triệu người vào tháng 12 năm 2012. Canada có nền kinh tế tiến bộ và đứng vào nhóm hàng đầu thế giới, kinh tế Canada dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú và hệ thống thương mại phát triển cao. Canada có quan hệ lâu dài và phức tạp với Hoa Kỳ, mối quan hệ này có tác động đáng kể đến kinh tế và văn hóa của quốc gia.

Canada là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao thứ tám toàn cầu, và chỉ số phát triển con người cao thứ 11. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, và tự do kinh tế. Canada tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và liên chính phủ về kinh tế: G8, G20, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương. Canada là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Từ nguyên

Tên gọi Canada bắt nguồn từ kanata trong ngôn ngữ của người Iroquois Saint Lawrence, nghĩa là "làng" hay "khu định cư".[8] Năm 1535, các cư dân bản địa của khu vực nay là thành phố Québec sử dụng từ này để chỉ đường cho nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier đến làng Stadacona.[9] Cartier sau đó sử dụng từ Canada để nói đến không chỉ riêng ngôi làng, mà là toàn bộ khu vực lệ thuộc vào Donnacona (tù trưởng tại Stadacona); đến khoảng năm 1545, các sách và bản đồ tại châu Âu bắt đầu gọi khu vực này là Canada.[9]

Trong thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, "Canada" nói đến phần lãnh thổ nằm dọc theo sông Saint-Laurent thuộc Tân Pháp. Nhằm trừng phạt việc Mười ba thuộc địa kháng cự, Anh Quốc mở rộng trên quy mô rất lớn lãnh thổ Canada theo Đạo luật Quebec 1774, bao gồm cả lãnh thổ chưa được định cư tại khu vực Ngũ Đại hồ kéo xuống sông Ohio. Một phần lãnh thổ đơn phương thêm vào này được chuyển giao cho Hoa Kỳ vào năm 1783, song Canada thuộc Anh vẫn giữ lại toàn bộ vùng đất phía bắc của Ngũ Đại Hồ (tạo thành phần lớn Ontario hiện nay). Năm 1791, người Anh định danh khu vực này là Thượng Canada và khu vực có truyền thống nói tiếng Pháp là Hạ Canada, chúng tái thống nhất thành tỉnh Canada vào năm 1841.[10]

Đến khi liên bang hóa vào năm 1867, Canada được chọn làm tên gọi pháp lý của quốc gia mới, và từ Dominion (lãnh thổ tự trị) được ban để làm danh hiệu của quốc gia.[11] Tuy nhiên, khi Canada khẳng định quyền tự chủ của mình khỏi Anh Quốc, chính phủ liên bang ngày càng chỉ sử dụng Canada trong các tài liệu nhà nước và hiệp định, sự thay đổi này được phản ánh thông qua việc đổi tên ngày lễ quốc gia từ Ngày Lãnh thổ tự trị sang Ngày Canada vào năm 1982.[12]

Lịch sử

Các dân tộc Thổ dân

Các nghiên cứu khảo cổ học và phân tích di truyền học cho biết có một sự hiện diện của loài người tại bắc bộ khu vực Yukon từ 24.500 TCN, và tại nam bộ Ontario từ 7500 TCN.[13][14][15] Các di chỉ khảo cổ học người Da đỏ cổ đại (Paleo-Indian) tại bình nguyên Old Crow và các động Bluefish là hai trong số các di chỉ cổ nhất về sự cư trú của loài người tại Canada.[16] Các đặc trưng của các xã hội Thổ dân Canada gồm có các khu định cư thường xuyên, nông nghiệp, kết cấu phân tầng xã hội phức tạp, và các mạng lưới mậu dịch.[17][18] Một số trong các nền văn hóa này đã bị sụp đổ vào lúc những nhà thám hiểm người châu Âu đến vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16, và chỉ khám phá ra nhờ các điều tra nghiên cứu khảo cổ học.[19]

Vào thời điểm người châu Âu thiết lập các khu định cư đầu tiên, dân số thổ dân Canada được ước tính là từ 200.000[20] đến hai triệu,[21] còn Uỷ ban Hoàng gia Canada về Sức khỏe Thổ dân chấp nhận con số 500.000.[22] Do hậu quả từ quá trình thực dân hóa của người châu Âu, các dân tộc Thổ dân Canada phải chịu tổn thất do các dịch bệnh truyền nhiễm mới được đưa đến bùng phát lặp lại nhiều lần, như dịch cúm, dịch sởi, dịch đầu mùa (do Thổ dân không có miễn dịch tự nhiên), kết quả là dân số của họ giảm từ 40-80% trong các thế kỷ sau khi người châu Âu đến.[20] Các dân tộc Thổ dân tại Canada ngày nay gồm có Các dân tộc Trước tiên (First Nations),[23] Inuit,[24]Métis.[25] Người Métis là một dân tộc hỗn huyết, họ hình thành từ thế kỷ 17 khi những người Dân tộc Trước tiên và người Inuit kết hôn với dân định cư người châu Âu.[26] Nhìn chung, người Inuit có ảnh hưởng tương hỗ hạn chế hơn với người châu Âu định cư trong thời kỳ thuộc địa hóa.[27]

Người châu Âu thuộc địa hóa

Nỗ lực đầu tiên được biết đến nhằm thuộc địa hóa lãnh thổ nay là Canada của người châu Âu bắt đầu khi người Norse định cư trong một thời gian ngắn tại L'Anse aux Meadows thuộc Newfoundland vào khoảng năm 1000 CN.[28] Không có thêm hành động thám hiểm của người châu Âu cho đến năm 1497, khi đó thủy thủ người Ý John Cabot khám phá ra vùng duyên hải Đại Tây Dương của Canada cho Vương quốc Anh.[29] Các thủy thủ người Basque và người Bồ Đào Nha thiết lập các tiền đồn săn bắt cá voi và cá dọc theo vùng duyên hải Đại Tây Dương của Canada vào đầu thế kỷ 16.[30] Năm 1534, nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier khám phá ra sông St. Lawrence, vào ngày 24 tháng 7 ông cắm một thánh giá cao 10 mét (33 ft) mang dòng chữ "Pháp quốc quốc vương vạn tuế", và đoạt quyền chiếm hữu lãnh thổ nhân danh Quốc vương François I.[31]

Các "cô nương của Quốc vương" đến Québec vào năm 1667, họ nhập cư đến Tân Pháp theo một chương trình của Quốc vương Pháp Louis XIV

Năm 1583, nhà thám hiểm người Anh Humphrey Gilbert tuyên bố chủ quyền đối với St. John's, Newfoundland, nơi này trở thành thuộc địa đầu tiên của Anh tại Bắc Mỹ theo đặc quyền vương thất của Nữ vương Elizabeth I.[32] Nhà thám hiểm người Pháp Samuel de Champlain đến vào năm 1603, và thiết lập các khu định cư thường xuyên đầu tiên của người châu Âu tại Port Royal vào năm 1605 và thành phố Québec vào năm 1608.[33] Trong số những người Pháp thực dân tại Tân Pháp, người Canada định cư rộng rãi tại thung lũng sông St. Lawrence và người Acadia định cư tại các tỉnh Hàng hải (Maritimes) ngày nay, trong khi các thương nhân da lông thú và các nhà truyền giáo Cơ Đốc thăm dò Ngũ Đại Hồ, vịnh Hudson, và lưu vực sông Mississippi đến Louisiana. Các cuộc chiến tranh Hải ly bùng nổ vào giữa thế kỷ 17 do tranh chấp quyền kiểm soát đối với mậu dịch da lông thú tại Bắc Mỹ.[34]

Người Anh thiết lập thêm các thuộc địa tại Cupids và Ferryland trên đảo Newfoundland, bắt đầu vào năm 1610.[35] Mười ba thuộc địa ở phía nam được thành lập ngay sau đó.[30] Một loạt bốn cuộc chiến bùng nổ tại Bắc Mỹ thuộc địa hóa từ năm 1689 đến năm 1763; các cuộc chiến sau của giai đoạn này tạo thành Mặt trận Bắc Mỹ trong Chiến tranh Bảy năm.[36] Nova Scotia đại lục nằm dưới quyền cai trị của người Anh theo Hiệp định Utrecht 1713; Hiệp định Paris (1763) nhượng lại Canada và hầu hết Tân Pháp cho Đế quốc Anh sau Chiến tranh Bảy năm.[37]

Tuyên ngôn Vương thất 1763 tạo nên tỉnh Quebec từ Tân Pháp, và sáp nhập đảo Cape Breton vào Nova Scotia.[12] Đảo St. John's (nay là đảo Prince Edward) trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1769.[38] Nhằm ngăn ngừa xung đột tại Québec, Anh Quốc thông qua đạo luật Québec vào năm 1774, mở rộng lãnh thổ của Québec đến Ngũ Đại Hồ và thung lũng sông Ohio. Anh Quốc cũng tái lập ngôn ngữ Pháp, đức tin Công giáo La Mã, và dân luật Pháp tại đây. Điều này khiến cho nhiều cư dân Mười ba Thuộc địa thức giận, kích động tình cảm chống Anh trong những năm trước khi bùng nổ Cách mạng Mỹ.[12]

Theo Hiệp định Paris 1783, Anh Quốc công nhận tình trạng độc lập của Hoa Kỳ và nhượng lại các lãnh thổ ở phía nam của Ngũ Đại Hồ cho Hoa Kỳ.[39] New Brunswick tách khỏi Nova Scotia trong một chiến dịch tái tổ chức các khu định cư trung thành tại The Maritime. Nhằm hòa giải những người nói tiếng Anh trung thành tại Quebec, Đạo luật Hiến pháp 1791 chia tỉnh này thành Hạ Canada (sau là Québec) Pháp ngữ và Thượng Canada (sau là Ontario) Anh ngữ, trao cho mỗi nơi quyền có riêng hội đồng lập pháp được bầu cử.[40]

Hai thuộc địa là chiến trường chính trong Chiến tranh năm 1812 giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc. Sau chiến tranh là hiện tượng nhập cư quy mô lớn từ đảo Anh và đảo Ireland bắt đầu vào năm 1815.[21] Từ năm 1825 đến năm 1846, 626.628 người nhập cư châu Âu được ghi chép là đã đặt chân lên các cảng tại Canada.[41] Họ gồm có những người Ireland chạy trốn Nạn đói lớn Ireland cũng như ngững người Scot nói tiếng Gael phải dời đi theo Thanh trừ Cao địa (Highland Clearances).[42] Khoảng từ một phần tư đến một phần ba tổng số người châu Âu nhập cư đến Canada trước năm 1891 đã thiệt mạng do các bệnh truyền nhiễm.[20]

Nguyện vọng của người Canada về việc có chính phủ chịu trách nhiệm dẫn đến các cuộc Nổi dậy năm 1837 song kết quả là nhanh chóng thất bại. Báo cáo Durham sau đó đề xuất về chính phủ chịu trách nhiệm và đồng hóa người Canada gốc Pháp vào văn hóa Anh.[12] Đạo luật Liên minh 1840 hợp nhất Thượng và Hạ Canada thành tỉnh Canada thống nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm được thành lập cho toàn bộ các tỉnh Bắc Mỹ thuộc Anh từ năm 1849.[43] Anh Quốc và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Oregon vào năm 1846, qua đó kết thúc tranh chấp biên giới Oregon, kéo dài biên giới về phía tây dọc theo vĩ độ 49° Bắc. Hiệp định này mở đường cho việc hình thành các thuộc địa đảo Vancouver (1849) và British Columbia (1858).[44]

Liên bang và khuếch trương

Phát triển và thay đổi các tỉnh và lãnh thổ của Canada kể từ khi lập liên minh vào năm 1867

Sau một vài hội nghị hiến pháp, Đạo luật Hiến pháp 1867 chính thức tuyên bố thành lập Liên minh Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1867, ban đầu gồm có bốn tỉnh – Ontario, Québec, Nova Scotia, và New Brunswick.[45][46] Canada đảm nhận quyền kiểm soát Đất Rupert và Lãnh thổ Tây-Bắc để hình thành nên các Lãnh thổ Tây Bắc, tại lãnh thổ này sự bất bình của người Métis bùng phát thành Nổi dậy Red River và hình thành tỉnh Manitoba vào tháng 7 năm 1870.[47] British Columbia và Đảo Vancouver (được hợp nhất vào năm 1866) gia nhập Liên minh vào năm 1871, còn đảo Prince Edward gia nhập vào năm 1873.[48]

Thủ tướng John A. Macdonald và chính phủ Bảo thủ của ông lập ra một chính sách quốc gia về thuế quan nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo còn non trẻ của Canada.[46] Để khai thông phía Tây, chính phủ tài trợ việc xây dựng ba tuyến đường sắt xuyên lục địa, mở cửa các thảo nguyên cho hoạt động định cư theo Đạo luật Thổ địa Lãnh thổ tự trị, và thiết lập Kị cảnh Tây-Bắc để khẳng định quyền lực trên lãnh thổ này.[49][50] Năm 1898, trong Cơn sốt vàng Klondike tại các Lãnh thổ Tây Bắc, chính phủ Canada lập ra Lãnh thổ Yukon. Dưới thời Chính phủ Tự do của Thủ tướng Wilfrid Laurier, những người nhập cư đến từ lục địa châu Âu đến định cư trên các thảo nguyên, rồi AlbertaSaskatchewan trở thành các tỉnh vào năm 1905.[48]

Đầu thế kỷ 20

Các binh sĩ Canada và một tăng Mark II trong Trận cao điểm Vimy tại Pháp vào năm 1917

Anh Quốc vẫn duy trì quyền kiểm soát trên lĩnh vực đối ngoại của Canada theo Đạo luật Liên minh, do vậy việc cường quốc này tuyên chiến vào năm 1914 tự động đưa Canada vào Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các quân nhân tình nguyện được đưa đến Mặt trận phía Tây và sau đó trở thành một phần của Quân đoàn Canada. Quân đoàn đóng một vai trò quan trọng trong trận cao điểm Vimy và các hoạt động giao chiến khác trong cuộc chiến.[51] Trong số xấp xỉ 625.000 người Canada phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, có khoảng 60.000 bị giết và 173.000 bị thương.[52] Khủng hoảng Tòng quân năm 1917 nổ ra khi Thủ tướng Bảo thủ Robert Borden cho tiến hành nghĩa vụ quân sự cưỡng bách bất chấp sự phản đối dữ dội của người Québec Pháp ngữ. Cuộc khủng hoảng này, cùng với các tranh chấp về các trường tiếng Pháp bên ngoài Quebec, tạo ra hố ngăn cách sâu sắc với người Canada Pháp ngữ và chia rẽ tạm thời Đảng Tự do. Chính phủ Liên minh của Robert Borden bao gồm cả nhiều người Tự do Anh ngữ, đã giành được chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử năm 1917. Năm 1919, Canada gia nhập Hội Quốc Liên với tư cách độc lập với Anh,[51] Quy chế Westminster 1931 xác nhận tình trạng độc lập của Canada.[1]

Trong Đại khủng hoảng tại Canada vào đầu thập kỷ 1930, kinh tế bị suy thoái, khiến toàn quốc gặp cảnh gian khổ.[53] Ba ngày sau khi Anh Quốc tuyên chiến với Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Tự do của Thủ tướng William Lyon Mackenzie King tuyên chiến với Đức một cách độc lập. Các đơn vị lục quân Canada đầu tiên đến Anh Quốc vào tháng 12 năm 1939.[51] Quân Canada đóng vai trò quan trọng trong nhiều trận chiến then chốt của đại chiến, gồm có Trận Dieppe năm 1942, Đồng Minh xâm chiếm Ý, đổ bộ Normandie, trận Normandie, và trận Scheldt vào năm 1944.[51] Canada cung cấp nơi tị nạn cho quân chủ Hà Lan khi quốc gia này bị Đức chiếm đóng, và được người Hà Lan tín nhiệm vì có đóng góp lớn vào việc giải phóng quốc gia này khỏi Đức Quốc Xã.[54] Kinh tế Canada bùng nổ trong chiến tranh khi mà các ngành công nghiệp của quốc gia sản xuất các trang thiết bị quân sự cho Canada, Anh Quốc, Trung QuốcLiên Xô.[51] Mặc dù có một cuộc khủng hoảng tòng quân khác tại Québec vào năm 1944, song Canada kết thúc chiến tranh với một quân đội lớn và kinh tế mạnh.[55]

Thời hiện đại

Tại Hội trường Rideau Hall, Toàn quyền Harold Alexander (giữa) nhận dự luật về các điều khoản liên minh giữa Newfoundland và Canada vào ngày 31 tháng 3 năm 1949

Khủng hoảng tài chính trong đại suy thoái khiến cho Lãnh thổ tự trị Newfoundland từ bỏ chính phủ chịu trách nhiệm vào năm 1934 và trở thành một thuộc địa vương thất do một Thống đốc Anh cai trị. Sau hai cuộc trưng cầu dân ý gay cấn vào năm năm 1948, người dân Newfoundland bỏ phiếu chấp thuận gia nhập Canada vào năm 1949 với địa vị một tỉnh.[56]

Tăng trưởng kinh tế thời hậu chiến của Canada là sự kết hợp các chính sách của các chính phủ Tự do kế tiếp nhau, dẫn đến hình thành một bản sắc Canada mới, biểu thị thông qua việc chấp thuận quốc kỳ lá phong hiện nay vào năm 1965,[57] thi hành song ngữ chính thức (tiếng Anh và tiếng Pháp) vào năm 1969,[58] và lập thể chế đa nguyên văn hóa chính thức vào năm 1971.[59] Các chương trình dân chủ xã hội cũng được tiến hành, chẳng hạn như Medicare (bảo hiểm y tế), Kế hoạch Trợ cấp Canada, và Cho vay sinh viên Canada, song chính phủ các tỉnh, đặc biệt là tại Quebec và Alberta, phản đối nhiều chương trình trong số đó vì nó xâm phạm đến phạm vi quyền hạn của họ.[60]

Một loạt các hội nghị hiến pháp khác dẫn đến kết quả là hiến pháp Canada đoạn tuyệt với Anh Quốc vào năm 1982, đồng thời với việc tạo thành Hiến chương Canada về Quyền lợi và tự do.[61] Năm 1999, Nunavut trở thành lãnh thổ thứ ba của Canada sau một loạt đàm phán với chính phủ liên bang.[62]

Đồng thời, Quebec trải qua các biến đổi xã hội và kinh tế sâu sắc do Cách mạng Yên tĩnh trong thập niên 1960, sản sinh ra một phong trào dân tộc chủ nghĩa hiện đại. Mặt trận giải phóng Québec (FLQ) cấp tiến kích động Khủng thoảng Tháng Mười với một loạt vụ đánh bom và bắt cóc vào năm 1970,[63] Đảng Người Québec ủng hộ chủ quyền đã đắc cử trong cuộc tuyển cử tại Québec năm 1976, họ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý thất bại về chủ quyền-liên kết vào năm 1980. Các nỗ lực nhằm hòa giải với chủ nghĩa dân tộc Québec bằng hiến pháp thông qua Hòa ước Hồ Meech đã thất bại vào năm 1990.[64] Điều này dẫn đến việc hình thành khối Người Québec tại Québec và cổ vũ Đảng Cải cách Canada tại Tây bộ Canada.[65][66] Một cuộc trưng cầu dân ý thứ nhì được tiến hành vào năm 1995, kết quả là chủ quyền bị từ chối với đa số mỏng manh. Năm 1997, Tối cao pháp viện phán quyết rằng ly khai đơn phương của một tỉnh là điều vi hiến, và Nghị viện Canada thông qua Đạo luật Rõ ràng (Clarity Act), phác thảo các điều khoản về một xuất phát điểm đàm phán từ Liên minh.[64]

Ngoài vấn đề chủ quyền của Québec, một số cuộc khủng hoảng làm náo động xã hội Canada vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1960. Chúng gồm có Chuyến bay 182 của Air India phát nổ vào năm 1985, vụ mưu sát hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Canada;[67] Thảm sát trường Bách khoa École vào năm 1989, một vụ xả súng đại học với mục tiêu là các nữ sinh;[68]Khủng hoảng Oka năm 1990,[69] là diễn biến đầu tiên trong một loạt các xung đột bạo lực giữa chính phủ và các nhóm Thổ dân.[70] Canada tham gia trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1990 với vị thế là một phần trong lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo, và hoạt động trong một số sứ mệnh gin giữ hòa bình trong thập kỷ 1990, bao gồm sứ mệnh UNPROFOR tại Nam Tư cũ.[71][72] Canada cử quân đến Afghanistan vào năm 2001, song từ chối tham gia cuộc xâm chiếm Iraq do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003.[73] Năm 2009, kinh tế Canada chịu tổn thất trong Đại suy thoái toàn cầu, song đã phục hồi một cách khiêm tốn.[74] Năm 2011, các lực lượng của Canada tham gia vào cuộc can thiệp do NATO dẫn đầu trong Nội chiến Libya.[75]

Địa lý

Canada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, có biên giới trên bộ với Hoa Kỳ liền kề ở phía nam và bang Alaska của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông đến Thái Bình Dương ở phía tây, phía bắc là Bắc Băng Dương.[76] Greenland thuộc Vương quốc Đan Mạch nằm ở phía đông bắc, còn Saint Pierre và Miquelon thuộc Pháp thì nằm ở phía nam đảo Newfoundland của Canada. Theo tổng diện tích, Canada là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Nga. Theo diện tích đất, Canada xếp thứ tư.[76] Quốc gia nằm giữa các vĩ độ 41°B và 84°B, và giữa các kinh độ 52° T và 141°T.

Ảnh vệ tinh ghép của Canada. Các khu rừng phương Bắc chiếm ưu thế trên khiên Canada nhiều đá, trong khi băng và đài nguyên chiếm ưu thế tại vùng Bắc Cực.

Kể từ năm 1925, Canada tuyên bố chủ quyền với phần thuộc vùng Bắc Cực nằm giữa 60°T và 141°T,[77] song yêu sách này không được công nhận phổ biến. Canada là nơi có khu định cư viễn bắc nhất của thế giới, đó là trạm Alert của Quân đội Canada, nằm ở mũi phía bắc của đảo Ellesmere – vĩ độ 82,5°B – cách Bắc Cực 817 kilômét (508 mi).[78] Phần lớn vùng Bắc Cực thuộc Canada bị băng và tầng đất đóng băng vĩnh cửu bao phủ. Canada có đường bờ biển dài nhất trên thế giới, với tổng chiều dài là 202.080 kilômét (125.570 mi);[76] thêm vào đó, biên giới Canada-Hoa Kỳ là biên giới trên bộ dài nhất thế giới, trải dài 8.891 kilômét (5.525 mi).[79]

Từ khi kỷ băng hà cuối cùng kết thúc, Canada gồm có tám miền rừng riêng biệt, gồm có rừng phương Bắc rộng lớn trên khiên Canada.[80] Canada có khoảng 31.700 hồ lớn hơn 3 kilômét vuông (300 ha),[81] nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, và chứa nhiều nước ngọt của thế giới.[82] Cũng có một số sông băng nước ngọt trên Dãy núi Rocky của CanadaDãy núi Coast. Canada là khu vực hoạt động về mặt địa chất, có nhiều động đất và núi lửa hoạt động tiềm năng, đáng chú ý là núi Meager, núi Garibaldi, núi Cayley, và tổ hợp núi lửa núi Edziza.[83] Vụ Tseax Cone phun trào núi lửa vào năm 1775 nằm trong số các thảm họa tự nhiên tệ nhất tại Canada, sát hại 2.000 người Nisga'a và hủy diệt làng của họ tại thung lũng sông Nass ở bắc bộ British Columbia. Vụ phun trào tạo ra dòng chảy nham thạch dài 22,5 kilômét (14,0 mi), và theo truyền thuyết của người Nisga'a thì nó chặn dòng chảy của sông Nass.[84] Mật độ dân số của Canada là 3,3 người trên kilômét vuông (8,5/sq mi), nằm vào hàng thấp nhất trên thế giới. Phần có mật độ dân số đông đúc nhất của quốc gia là hành lang Thành phố Québec – Windsor, nằm tại Nam bộ Québec và Nam bộ Ontario dọc theo Ngũ Đại Hồ và sông St. Lawrence.[85]

Nhiệt độ tối cao trung bình mùa đông và mùa hè tại Canada khác biệt giữa các khu vực. Mùa đông có thể khắc nghiệt tại nhiều nơi của quốc gia, đặc biệt là trong vùng nội địa và các tỉnh thảo nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa với nhiệt độ trung bình ngày là gần −15 °C (5 °F), song có thể xuống dưới −40 °C (−40 °F) với các cơn gió lạnh dữ dội.[86] Tại các vùng không nằm ven biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng mỗi năm, trong khi các phần ở phía bắc có thể dai dẳng quanh năm. British Columbia Duyên hải có một khí hậu ôn hòa, với một mùa đông ôn hòa và mưa nhiều. Ở các vùng bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ tối cao trung bình thường là dưới hai mươi mấy độ C, trong khi tại lãnh thổ giữa các vùng bờ biển thì nhiệt độ tối cao vào mùa hạ biến động từ 25 đến 30 °C (77 đến 86 °F), nhiệt độ tại một số nơi ở nội địa thỉnh thoảng vượt quá 40 °C (104 °F).[87]

Nhân khẩu học

Dân số Canada năm 2005 được ước lượng vào khoảng 32 triệu người. Dù là một nước có diện tích lớn thứ hai thế giới – khoảng 10 triệu km² – nhưng mật độ dân số của Canada lại cực thấp – khoảng 4 người/km². Canada lớn hơn Hoa Kỳ nhưng dân số chỉ bằng 1/9 của Hoa Kỳ.

Trước thế kỷ 19, toàn bộ dân Canada đều là người thổ dân, người Anhngười Pháp. Mãi cho đến Đệ Nhị Thế Chiến, dân Scotland, IrelandĐông Âu bắt đầu nhập cư vào Canada. Từ năm 1945, diện mạo văn hoá sắc tộc của Canada phát triển phong phú hơn do số lượng di dân từ Nam Âu, Nam Mỹ, quần đảo Caribbean, Trung ĐôngChâu Á-Thái Bình Dương càng ngày càng tăng. Ngày nay dân Canada hầu như đến từ khắp nơi trên thế giới.

Theo kết quả điều tra dân số gần đây nhất, hơn 50% dân số có nguồn gốc không phải là Anh hay Pháp. Trong số đó, số người không phải là dân da trắng chiếm 13%; các thổ dân, chiếm 3%; gốc người Scotland chiếm 14%; gốc người Ireland chiếm 13%; gốc Đức chiếm 9,25% và gốc Ý 4,3%. Con số này sẽ còn tăng thêm nữa theo quá trình "toàn cầu hóa" hiện nay.

Danh sách vùng đô thị lớn nhất Canada theo dân số (thống kê 2006)
Tên Tỉnh Dân số Tên Tỉnh Dân số
Toronto Ontario 5.113.149 Kitchener–Waterloo Ontario 451.235
Montreal Quebec 3.635.571 St. CatharinesNiagara Ontario 390.317
Vancouver British Columbia 2.116.581 Halifax Nova Scotia 372.858
OttawaGatineau Ontario–Quebec 1.130.761 Oshawa Ontario 330.594
Calgary Alberta 1.079.310 Victoria British Columbia 330.088
Edmonton Alberta 1.034.945 Windsor Ontario 323.342
Thành phố Quebec Quebec 715.515 Saskatoon Saskatchewan 233.923
Winnipeg Manitoba 694.668 Regina Saskatchewan 194.971
Hamilton Ontario 692.911 Sherbrooke Quebec 186.952
London Ontario 457.720 St. John's Newfoundland and Labrador 181.113

Ngôn ngữ

Hai ngôn ngữ chính thức của Liên bang Canada là tiếng Anhtiếng Pháp. Gần 60% dân Canada có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, 22% là tiếng Pháp. Đại đa số người nói tiếng Pháp sống tại tỉnh bang Québec, sau đó là các tỉnh bang Ontario, New Brunswick và Manitoba. Một số ngôn ngữ của các thổ dân cũng được xem là ngôn ngữ chính thức tại các lãnh thổ tự trị, đặc biệt là tiếng Inuktitut. Rất nhiều thứ tiếng của các thổ dân đã bị mai một hay đang đi đến tình trạng đó. Những tiếng khác được nhiều người nói là: tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tây Ban Nha.

Québec là tỉnh bang độc nhất ban hành một đạo luật bảo vệ tiếng Pháp, mục đích để bảo vệ sắc thái văn hóa đặc biệt nhất Bắc Mỹ của họ. Tuy nhiên quyền lợi về ngôn ngữ và giáo dục của các cộng đồng nói tiếng Anh và các tiếng thổ dân cũng được bảo vệ. Ngoài ra, dân chúng có quyền dùng hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Pháp trong khi giao tiếp với chính phủ.

Kinh tế

A vertical set of specimen banknotes, with $5 (blue) on top, followed by $10 (purple), $20 (green), $50 (red), and $100 (brown)
Tiền giấy hiện tại của Canada, hình mô tả (từ trên xuống dưới) Wilfrid Laurier, John A. Macdonald, Nữ hoàng Elizabeth II, William Lyon Mackenzie King, và Robert Borden

Canada là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao, quốc gia này là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OEDC) và G8. Đây là một trong mười quốc gia thương mại hàng đầu thế giới.[88] Canada có một nền kinh tế hỗn hợp, theo Heritage Foundation's thì quốc gia này xếp trên Hoa Kỳ và phần lớn các quốc gia Tây Âu về chỉ số tự do kinh tế.[89] Những bạn hàng nhập khẩu lớn nhất hàng hóa của Canada là Hoa Kỳ, Vương quốc AnhNhật Bản.[90] Năm 2008, giá trị nhập khẩu hàng hóa của Canada là 442.9 tỉ USD, trong đó các nước mà Canada nhập khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Vương quốc Anh.[90] Thâm hụt thương mại của quốc gia này là 4.8 tỉ đô Canada năm 2009, so với thặng dư thương mại 46.9 tỉ đô Canada năm 2008.[91]

Tính đến tháng 10 năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp ở Canada là 8.6%. Tỉ lệ thất nghiệp ở các tỉnh đa dạng từ rất thấp chỉ 5.8% ở Manitoba cho tới tỉ lệ cao tới 17% ở NewfoundlandLabrador.[92] Nợ liên bang của Canada ước tính khoảng 566.7 tỉ USD trong tài khóa 2010–11, tăng so với 463.7 tỉ năm 2008-2009.[93]

Trong thế kỷ trước, sự tăng trưởng trong lĩnh vực khai thác, sản xuất, và các ngành dịch vụ đã chuyển đổi đất nước từ một nền kinh tế đa phần nông thôn sang một nền kinh tế công nghiệp và đô thị. Giống như những quốc gia phát triển trên thế giới, nền kinh tế Canada bị chi phối bởi các ngành công nghiệp dịch vụ, ngành chiếm khoảng ba phần tư dân số Canada.[94] Trong số các quốc gia phát triển, Canada là quốc gia hàng đầu trong ngành công nghiệp khai thác gỗ và dầu khí.[95]

Canada là một trong số ít các nước phát triển xuất khẩu ròng năng lượng.[96] Biển Đại Tây Dương của Canada có trữ lượng khí tự nhiên lớn, khu vực Alberta có nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt dồi dào. Những bãi cát dầu Athabasca có dự trự dầu mỏ lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Ả Rập Xê Út.[97]

Canada là một trong những quốc gia cung cấp nông sản lớn nhất thế giới, vùng đồng bằng của Canada là một trong những khu vực sản xuất quan trọng nhất trên thế giới các sản phẩm lúa mì, hạt cải và các loại ngũ cốc.[98] Canada là nước sản xuất kẽmuranium lớn nhất thế giới, và là nguồn cung toàn cầu các loại tài nguyên như vàng, niken, nhôm, và chì.[96] Rất nhiều thị trấn ở miền bắc Canada, nơi mà nông nghiệp khó phát triển, có nền kinh tế dựa chủ yếu vào các mỏ quặng và gỗ gần đó. Canada cũng có lĩnh vực sản xuất tương đối lớn, tập trung chủ yếu ở nam Ontario và Quebec, với ngành công nghiệp ô tôhàng không là mũi nhọn.[99]

Hội nhập kinh tế với Hoa Kỳ đã tăng lên đáng kể kể từ Thế chiến II. Điều này đã thu hút nhiều sự chú ý từ những người theo chủ nghĩa dân tộc Canada, những người quan tâm về quyền tự trị văn hóa và kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa, khi mà hàng hoá và các sản phẩm truyền thông của Mỹ trở nên phổ biến.[100] Hiệp định Thương mại các sản phẩm ô tô năm 1965 đã mở biên giới cho thương mại trong lĩnh vực sản xuất ô tô. Trong những năm 1970, những lo ngại về khả năng tự cung tự cấp năng lượng và quyền sở hữu của nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất đã thúc đẩy chính phủ Tự do của Thủ tướng Pierre Trudeau ban hành các Chương trình năng lượng quốc gia (NEP) và thành lập Cơ quan Đầu tư nước ngoài (FIRA).[101]

Trong những năm 1980, những người theo khuynh hướng bảo thủ tiến bộ trong chính phủ của Brian Mulroney đã bãi bỏ NEP và đổi tên FIRA thành "Investment Canada" (Đầu tư Canada) để khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài.[102] Hiệp định Thương mại Tự do Canada - Hoa Kỳ kí kết năm 1988 đã xóa bỏ hàng rào thuế quan giữa hai nước, trong khi đó, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) mở rộng khu vực tự do thương mại bao gồm cả Mexico trong những năm 1990.[98] Giữa thập niên 1990, chính phủ tự do dưới thời Thủ tướng Jean Chrétien bắt đầu có thặng dư ngân sách hàng năm và bắt đầu giảm dần các khoản nợ quốc gia.[103] Năm 2008 một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một cuộc suy thoái, cuộc khủng hoảng có thể đẩy tỷ lệ thất nghiệp của nước này lên tới 10%.[104]

Chính phủ và chính trị

Đồi Nghị viện tại thủ đô Ottawa của Canada

Canada có một hệ thống nghị viện trong khuôn khổ chế độ quân chủ lập hiến, chế độ quân chủ của Canada là nền tảng của các nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp.[105][106][107][108] Quân chủ của Canada là Nữ vương Elizabeth II, bà cũng đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia của 15 quốc gia khác và là nguyên thủ của mỗi tỉnh tại Canada. Đại diện cho Nữ vương là Toàn quyền Canada, người này thực hiện hầu hết các chức trách của quân chủ liên bang tại Canada.[109][110]

Các nhân vật quân chủ và phó quân chủ bị hạn chế trong việc tham gia trực tiếp vào các lĩnh vực cai trị.[107][111][112] Trong thực tiễn, họ sử dụng các quyền hành pháp theo chỉ dẫn của Nội các, đây là một hội đồng gồm các bộ trưởng của Vương quốc chịu trách nhiệm trước Chúng nghị viện, do Thủ tướng Canada lựa chọn và đứng đầu,[113] thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Trong các tình thế khủng hoảng nhất định, Toàn quyền hay quân chủ có thể thực thi quyền lực của họ mà không phải dựa theo cố vấn của các bộ trưởng.[111] Nhằm đảm bảo tính ổn định của chính phủ, toàn quyền theo thường lệ sẽ bổ nhiệm thủ tướng là người đang giữ chức lãnh tụ của chính đảng có thể đạt được một đa số tại Chúng nghị viện.[114] Văn phòng Thủ tướng (PMO) do đó là một trong những cơ quan quyền lực nhất trong chính phủ, đề xuất hầu hết các pháp luật để nghị viện phê chuẩn và lựa chọn chức vụ được Quân chủ bổ nhiệm. Các chức vụ này, ngoài đã được nhắc đến ở trên, còn có toàn quyền, phó tổng đốc, tham nghị sĩ, thẩm phán tòa án liên bang, và người đứng đầu các công ty quốc doanh (Crown corporations), và các cơ quan của chính phủ.[111] Lãnh tụ của chính đảng có số ghế nhiều thứ hai thường trở thành 'Lãnh tụ phe đối lập trung thành của Bệ hạ' và là một phần trong một hệ thống nghị viện đối kháng nhằm duy trì sự kiểm tra đối với chính phủ.[115]

Mỗi một trong số 308 nghị sĩ tại Chúng nghị viện được bầu theo đa số giản đơn trong một khu vực tuyển cử. Tổng tuyển cử phải do toàn quyền yêu cầu, theo cố vấn của thủ tướng trong vòng bốn năm tính từ cuộc bầu cử trước đó, hoặc nếu chính phủ thất bại trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại nghị viện.[116] 105 thành viên của Tham nghị viện, với số ghế được phân chia theo một cơ sở vùng miền, họ phục vụ cho đến tuổi 75.[117] Năm chính đảng có đại biểu được bầu vào nghị viện liên bang trong cuộc bầu cử năm 2011: Đảng Bảo thủ (đảng cầm quyèn), Đảng Tân Dân chủ (đối lập chính thức), Đảng Tự do, Khối Người Québec, và Đảng Xanh.

Cấu trúc liên bang của Canada phân chia các trách nhiệm của chính phủ giữa chính phủ liên bang và 10 tỉnh. Các cơ quan lập pháp cấp tỉnh theo đơn viện chế và hoạt động theo kiểu cách nghị viện tương tự như Chúng nghị viện.[112] Ba lãnh thổ của Canada cũng có các cơ quan lập pháp, song chúng không có chủ quyền và có ít trách nhiệm hiến pháp hơn so với các tỉnh.[118] Cơ quan lập pháp của các lãnh thổ cũng có cấu trúc khác biệt so với cơ quan tơ]ng đương của các tỉnh.[119]

Pháp luật

Hiến pháp Canada là phát luật tối cao của quốc gia, và gồm có các bản văn bằng văn bản và các quy ước bất thành văn. Đạo luật Hiến pháp 1867 (trước năm 1982 gọi là Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh), khẳng định sự cai trị dựa trên tiền lệ nghị viện và phân chia quyền lực giữa các chính phủ liên bang và cấp tỉnh. Quy chế Westminster 1931 trao đầy đủ quyền tự trị và Đạo luật Hiến pháp 1982 kết thúc toàn bộ liên kết lâph pháp giữa Canada với Anh Quốc, cũng như thêm một thể thức tu chính hiến pháp và Hiến chương Canada về Quyền lợi và Tự do. Hiến chương đảm bảo các quyền lợi và quyền tự do mà theo thường lệ không thể bị chà đạp bởi bất kỳ chính phủ nào-tuy thế một điều khoản tuy nhiên cho phép nghị liên bang và các cơ quan lập pháp cấp tỉnh được phủ quyết một số điều khoản nhất định của Hiến chương trong một giai đoạn 5 năm.[120]

Mặc dù không phải là không có xung đột, các ảnh hưởng tương hỗ ban đầu giữa người Canada gốc châu Âu với người Dân tộc Trước tiên và người Inuit tương đối hòa bình.[121] Đạo luật người Da đỏ (Indian Act), các hiệp định khác nhau và các án lệ pháp được lập ra để điều đình các quan hệ giữa người châu Âu và các dân tộc bản địa.[122] Đảng chú ý nhất là một loạt 11 hiệp định được gọi là Các hiệp định Được đánh số, chúng được ký giữa các dân tộc Thổ dân tại Canada và Quân chủ tại vị của Canada từ năm 1871 đến năm 1921.[123] Các hiệp định này là những thỏa thuận với Hội đồng Xu mật viện quân chủ Canada, được quản lý theo luật Thổ dân Canada, và do Bộ trưởng Sự vụ dân nguyên trú và Phát triển phương Bắc giám sát. Vai trò của các hiệp định và các quyền lợi họ được cấp được tác khẳng định qua Điều 35 của Đạo luật Hiến pháp 1982.[122] Các quyền lợi này có thể bao gồm cung cấp các dịch vụ như y tế, và miễn thuế.[124]

Tối cao pháp viện Canada tại Ottawa, phía tây của Đồi Nghị viện

Bộ máy tư pháp của Canada đóng một vai trò quan trọng trong giải thích các pháp luật và có quyền phủ định các đạo luật của nghị viện nếu chúng vi hiến. Tối cao pháp viện Canada là tòa án cao nhất và nơi phân xử cuối cùng, từ năm 2000 đứng đầu tòa là Chánh án Beverley McLachlin.[125] Chín thành viên của Tối cao pháp viện do toàn quyền bổ nhiệm theo cố vấn của thủ tướng và bộ trưởng tư pháp. Tất cả thẩm phán ở cấp cao và cấp phúc thẩm đều được bổ nhiệm sau khi hội ý với các cơ cấu pháp luật phi chính phủ. Nội các liên bang cũng bổ nhiệm các thẩm phán cho các tòa cấp cao có quyền hạn cấp tỉnh và lãnh thổ.[126]

Thông luật phổ biến tại hầu hết các khu vực, ngoại trừ tại Québec, trong tỉnh này dân luật chiếm ưu thế. Luật hình sự là trách nhiệm của liên bang và thống nhất trên toàn Canada.[127] Thực thi pháp luật, trong đó có các tòa án hình sự, về chính thức là một trách nhiệm của cấp tỉnh, do lực lượng cảnh sát cấp tỉnh và thành phố thực hiện.[128] Tuy nhiên, tại hầu hết các khu vực nông thôn và một số khu vực thành thị, trách nhiệm được giao ước cho Kị cảnh vương thất Canada cấp liên bang.[129]

Quan hệ đối ngoại và quân sự

Thủ tướng Stephen Harper hội đàm với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama năm 2009

Canada đang sử dụng một lực lượng quân sự chuyên nghiệp, tình nguyện gồm 68.250 nhân viên và khoảng 47.081 quân dự bị.[130] Quân đội Canada (CF) gồm có Lục quân Canada, Hải quân Hoàng gia Canada, và Không quân Hoàng gia Canada. Năm 2011, tổng chi tiêu quân sự của Canada là khoảng 24,5 tỷ đô la Canada.[131]

Canada và Hoa Kỳ chia sẻ đường biên giới không được bảo vệ dài nhất thế giới, hợp tác trong các chiến dịch và tập luyện quân sự, và là đối tác thương mại lớn nhất của nhau.[132] Canada tuy vậy vẫn có một chính sách đối ngoại độc lập, đáng chú ý nhất là việc duy trì quan hệ đầy đủ với Cuba và từ chối chính thức tham gia trong Cuộc xâm chiếm Iraq năm 2013. Canada cũng duy trì các quan hệ mang tính lịch sử với Anh Quốc và Pháp và với các cựu thuộc địa của Anh và Pháp thông qua tư cách viên của minh trong Thịnh vượng chung các quốc gia và Cộng đồng Pháp ngữ.[133] Canada có quan hệ tích cực với Hà Lan, một phần là do Canada từng góp phần giải phóng Hà Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[54]

Canada gắn bó chặt chẽ với Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung, do vậy quốc gia này tham gia nhiều trong các nỗ lực quân sự của Anh Quốc trong Chiến tranh Boer lần thứ hai, Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai. Kể từ đó, Canada chủ trương đa phương hóa, tiến hành các nỗ lực nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu bằng cách cộng tác với các quốc gia khác.[134][135] Canada là một thành viên snags lập của Liên Hiệp Quốc vào năm 1945 và của NATO vào năm 1949. Trong Chiến tranh Lạnh, Canada là một nước đóng góp lớn cho lực lượng của Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên và cùng với Hoa Kỳ thành lập Bộ Tư lệnh phòng thủ hành không vũ trụ Bắc Mỹ (NORAD) nhằm hợp tác để phòng thủ chống lại các cuộc tấn công trên không tiềm tàng của Liên Xô.[136]

Binh sĩ Lục quân Canada thuộc Trung đoàn Hoàng gia 22 triển khai trong cuộc diễn tập UNITAS vào tháng 4 năm 2009

Trong Khủng hoảng Kênh đào Suez năm 1956, Thủ tướng tương lai Lester B. Pearson làm giảm căng thẳng bằng đề xuất triển khai Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc, do hành động này mà ông nhận được Giải Nobel Hòa bình năm 1957.[137] Đây là sứ mệnh gìn giữ hòa bình đầu tiên của Liên Hiệp Quốc, do vậy Lester B. Pearson thường được công nhận là người sáng tạo ra khái niệm này. Kể từ đó, Canada tham gia trong 50 sứ mệnh gìn giữ hòa bình, bao gồm mọi nỗ lực gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cho đến năm 1989,[51] và từ đó duy trì lực lượng trong các sứ mệnh quốc tế tại Rwanda, Nam Tư cũ, và những nơi khác; Canada thỉnh thoảng phải đối mặt với các tranh luận về sự dính líu của họ đến các quốc gia khác, đáng chú ý là trong Vụ việc Somalia năm 1993.[138]

Canada gia nhập Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) vào năm 1990 và tổ chức hội nghị Đại hội đồng OAS tại Windsor, Ontario vào tháng 6 năm 2000 và Hội nghị thượng đỉnh thứ ba của OAS tại thành phố Québec vào tháng 4 năm 2001.[139] Canada mưu cầu mở rộng các quan hệ của mình với các nền kinh tế trong vành đai Thái Bình Dương thông qua tư cách thành viên trong diễn đàn Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).[140]

Năm 2001, Canada triển khai quân nhân đến Afghanistan với tư cách là một phần của lực lượng ôn định Mỹ và Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế (ISAF) do NATO lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc cho phép. Trong cuộc chiến này, Canada mất 158 binh sĩ,[141] với chi phí khoảng 11,3 tỷ đô la Canada.[142]

Vào tháng 2 năm 2007, Canada, Ý, Anh Quốc, Na Uy, và Nga tuyên bố cam kết chung của họ cho một dự án 1,5 tỷ đô la Mỹ nhằm giúp đỡ phát triển vắc-xin cho các quốc gia đang phát triển, và kêu gọi các quốc gia khác cùng tham gia.[143] Vào tháng 8 năm 2007, tuyên bố chủ quyền đối với vùng Bắc Cực của Canada bị thử thách sau khi Nga tiến hành chiếm thám hiểm dưới nước đến Bắc Cực; kể từ năm 1925 thì Canada nhìn nhận khu vực này thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình.[144] Từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2011, quân đội Canada tham gia vào cuộc can thiệp của NATO do Liên Hiệp Quốc ủy thác trong Nội chiến Libya.[145]

Canada được công nhận là một cường quốc bậc trung do vai trò của quốc gia này trong các quan hệ quốc tế với một xu hướng theo đuổi các giải pháp đa phương.[146] Ngoài việc là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giớiTổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Canada còn là một thành viên của các tổ chức và diễn đàn khu vực và quốc tế khác trên các vấn đề kinh tế và văn hóa.[147] Canada tham gia vào Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1976.[148]

Các tỉnh và lãnh thổ

Canada là một liên bang gồm có mưới tỉnh và ba lãnh thổ. Các đơn vị hành chính này có thể được nhóm thành bốn vùng chính: Tây bộ Canada, Trung bộ Canada, Canada Đại Tây Dương, và Bắc bộ Canada ("Đông bộ Canada" nói chung Trung bộ Canada và Canada Đại Tây Dương). Các tỉnh có quyền tự trị lớn hơn các lãnh thổ, chịu trách nhiệm đối với các chương trình xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục, và phúc lợi. Tổng thu nhập của các tỉnh nhiều hơn của chính phủ liên bang. Sử dụng quyền hạn chi tiêu của mình, chính phủ liên bang có thể bắt đầu các chính sách quốc gia tại các tỉnh, như Đạo luật Y tế Canada; các tỉnh có thể chọn ở ngoài chúng, song hiếm khi làm vậy trên thực tế. Chính phủ liên bang thực thi thanh toán cân bằng nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống nhất hợp lý về các dịch vụ và thuế được thi hành giữa các tỉnh giàu hơn và nghèo hơn.[149]

.YellowknifeWinnipegIqaluitTorontoOttawaThành phố QuébecFrederictonCharlottetownCác Lãnh thổ Tây BắcSaskatchewanNewfoundland và LabradorNew BrunswickYukonBritish ColumbiaWhitehorse, YukonAlbertaYellowknifeNunavutWinnipegManitobaOntarioIqaluitOttawaQuébecTorontoThành phố QuébecFrederictonCharlottetownNova ScotiaĐảo Hoàng tử EdwardSt. John's, Newfoundland và Labrador
.

Văn hóa

Văn hóa Canada rút ra từ những ảnh hưởng của các dân tộc thành phần, và các chính sách nhằm thúc đẩy đa nguyên văn hóa được bảo vệ theo hiến pháp .[150] Québec là nơi có bản sắc mạnh hóa mạnh, và nhiều nhà bình luận nói tiếng Pháp nói về một văn hóa Québec khác biệt với văn hóa Canada Anh ngữ.[151] Tuy nhiên, về tổng thể, Canada ở trong thuyết một khảm văn hóa- một tập hợp của vài tiểu văn hóa vùng miền, thổ dân, và dân tộc.[152] Các chính sách của chính phủ như tài trợ công khai chăm sóc sức khỏe, áp thuế cao hơn để tái phân phối của cải, xóa bỏ tử hình, những nôc lự mạnh mẽ nhằm loại trừ nghèo khổ, kiểm soát súng nghiêm ngặt, và hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính là những chỉ thị xã hội hơn nữa của các giá trị chính trị và văn hóa Canada.[153]

Về mặt lịch sử, Canada chịu ảnh hưởng của các văn hóa và truyền thống Anh Quốc, Pháp, và thổ dân. Thông qua ngôn ngữ, nghệ thuật và âm nhạc, các dân tộc thổ dân tiếp tục có ảnh hưởng đến bản sắc Canada.[154] Nhiều người Canada xem trọng đa nguyên văn hóa và nhìn nhận Canada vốn đã đa nguyên văn hóa.[61] Truyền thông và giải trí Mỹ phổ biến, nếu không nói là chi phối, tại Canada Anh ngữ; ngược lại, nhiều văn hóa phẩm và nghệ sĩ giải trí của Canada thành công tại Hoa Kỳ và toàn cầu.[155] Việc duy trì một văn hóa Canada riêng biệt được chính phủ ủng hộ thông qua các chương trình, các đạo luật, và các thể chế như Công ty Phát thanh-Truyền hình Canada (CBC), Cục Điện ảnh Quốc gia Canada (NFB), và Ủy ban Phát thanh-Truyền hình và Viễn thông Canada (CRTC).[156]

The Jack Pine của Tom Thomson. Tranh sơn dầu trên vải bạt, 1916, trong bộ sưu tập của Nhà mỹ thuật quốc gia Canada.

Nghệ thuật thị giác Canada chịu sự chi phối của các cá nhân như Tom Thomson – họa sĩ nổi tiếng nhất của quốc gia – hay Group of Seven (nhóm 7 họa sĩ). Sự nghiệp hội họa phong cảnh Canada của Tom Thomson kéo dài một thập kỷ cho đến khi ông mất vào năm 1917 ở tuổi 39.[157] Group of Seven là các họa sĩ mang một tiêu điểm dân tộc chủ nghĩa và duy tâm chủ nghĩa, họ trưng bày các tác phẩm đặc biệt của mình lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1920. Mặc dù theo tên gọi thì có nghĩa là có bảy thành viên, song năm họa sĩ – Lawren Harris, A. Y. Jackson, Arthur Lismer, J. E. H. MacDonald, và Frederick Varley – chịu trách nhiệm về khớp nối các ý tưởng của Nhóm. Frank Johnston, và Franklin Carmichael cũng từng tham gia Nhóm. A. J. Casson trở thành một phần của Nhóm vào năm 1926.[158] Một nghệ sĩ Canada nổi tiếng khác cũng liên kết với Group of Seven, đó là Emily Carr, bà được biết đến với các bức họa phong cảnh và chân dung về những người bản địa tại vùng Duyên hải Tây Bắc Thái Bình Dương.[159] Kể từ thập niên 1950, các tác phẩm nghệ thuật Inuit được chính phủ Canada dùng làm quà tặng cho giới chức ngoại quốc cấp cao.[160]

Ngành công nghiệp âm nhạc của Canada sản sinh ra những nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, ban nhạc nổi tiếng ở tầm quốc tế.[161] Ủy ban Phát thanh-Truyền hình và Viễn thông Canada quy định về âm nhạc phát sóng trong nước. Viện Hàn lâm Canada về Nghệ thuật và Khoa học Ghi âm trao giải thưởng Juno cho các thành tựu trong ngành công nghiệp âm nhạc Canada, giải được trao thưởng lần đầu tiên vào năm 1970.[162] Âm nhạc ái quốc tại Canada đã có từ trên 200 năm, khi đó là một thể loại riêng biệt với chủ nghĩa ái quốc Anh Quốc, trên 50 năm trước khi có các bước pháp lý đầu tiên hướng đến độc lập. Tác phẩm ái quốc sớm nhất là The Bold Canadian (người Canada Dũng cảm), được viết vào năm 1812.[163] Quốc ca của Canada là "O Canada" ban đầu do Phó tổng đốc Québec Théodore Robitaille đặt sáng tác cho ngày lễ Thánh Jean-Baptiste năm 1880, và được chấp thuận chính thức vào năm 1980.[164] Calixa Lavallée là người viết nhạc, phổ theo một bài thơ ái quốc do Adolphe-Basile Routhier sáng tác. Nguyên bản lời bài chỉ viết bằng tiếng Pháp, rồi được dịch sang tiếng Anh vào năm 1906.[165]

Đội tuyển khúc côn cầu trên băng Canada giành chiến thắng tại Thế vận hội Mùa đông 2010 tổ chức tại Vancouver

Các môn thể thao có tổ chức tại Canada khởi đầu từ thập niên 1770.[166] Các môn thể thao quốc gia chính thức của Canada là khúc côn cầu trên băngbóng vợt.[167] Bảy trong số tám vùng đô thị lớn nhất của Canada – Toronto, Montréal, Vancouver, Ottawa, Calgary, Edmonton và Winnipeg – có câu lạc bộ có tư cách tham gia Giải khúc côn cầu Quốc gia (NHL). Các môn thể thao đông khán giả khác tại Canada gồm có bi đá trên băngbóng đá Canada; giải vô địch bóng đá [kiểu Canada] Canada (CFL) là giải đấu chuyên nghiệp. Golf, quần vợt, bóng chày, trượt tuyết, cricket, bóng chuyền, bóng bầu dục kiểu liên hiệp, bóng đábóng rổ được chơi nhiều trong giới thanh thiếu niên và ở mức nghiệp dư, song các giải đấu chuyên nghiệp và franchises không phổ biến.[168] Canada có một đội tuyển bóng chày chuyên nghiệp là Toronto Blue Jays, và một đội tuyển bóng rổ chuyên nghiệp là Toronto Raptors. Canada tham gia vào hầu như mọi kỳ Thế vận hội kể từ lần đầu tham gia vào năm 1900, và từng tổ chức một số sự kiện thể thao quốc tế cao cấp, bao gồm Thế vận hội Mùa hè 1976 tại Montréal, Thế vận hội Mùa đông 1988 tại Calgary, Thế vận hội Mùa đông 2010 tại Vancouver và Giải vô địch bóng chày thế giới 1994Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2007.

Các biểu tượng quốc gia của Canada chịu ảnh hưởng từ các nguồn tự nhiên, lịch sử, và Thổ dân. Việc sử dụng lá phong làm một biểu tượng của Canada bắt đầu từ đầu thế kỷ 18. Lá phong được mô tả trên các quốc kỳ hiện nay và trước đây, trên tiền xu, và trên quốc huy.[169] Các biểu tượng đáng chú ý khác gồm có hải ly, ngỗng Canada, chim lặn mỏ đen, vương vị, Kị cảnh vương thất Canada,[169] và gần đây hơn là 'cột vật tổ' và cột hay ụ đá nhân tạo Inuksuk.[170]

Tôn giáo

Theo khảo sát năm 2011, có 67% người dân Canada theo Kitô giáo. Trong đó có 1/3 là Công giáo Rôma, còn lại là các giáo phái Tin Lành khác.[171]

Bốn năm sau khi giành được độc lập tức năm 1871, theo cuộc điều tra dân số đầu tiên cho thấy có 13 người Hồi giáo ở Canada. Đến năm 1938, có 700 người Hồi giáo trên lãnh thổ Canada và Thánh đường Hồi giáo đầu tiên của Canada cũng được xây dựng trong năm này. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, có một sự gia tăng đáng kể người Hồi giáo. Đến cuối những năm 1960, với việc các nước châu Âu siết chặt vấn đề nhập cư, một số lượng lớn người Hồi giáo đã chuyển hướng nhập cư sang Canada.[172]

Theo điều tra dân số của Canada năm 2001, đã có 579.740 người Hồi giáo ở Canada, chỉ dưới 2% dân số.[173] Năm 2006, dân số Hồi giáo được ước tính là 0,8 triệu hay khoảng 2,6%. Trong năm 2010, Trung tâm nghiên cứu Pew ước tính có khoảng 0,9 triệu người Hồi giáo ở Canada. Khoảng 65% trong số đó là người Sunni, trong khi 15% là người Shia.

Ấn giáo ở Canada có 3 cộng đồng chính là người Ấn Độ, người Tamil Sri Lanka, và người Nepal. Người Ấn giáo gốc Ấn Độ di cư sang Canada từ hơn một trăm năm trước. Những năm 1940, có khoảng vài trăm người Sri Lanka thuộc sắc tộc Tamil sang định cư ở Canada. Các cuộc bạo loạn diễn ra ở Sri Lanka những năm 1980 giữa người Phật giáo và Ấn giáo đã dẫn đến làn sống di cư hàng loạt của người Tamil Sri Lanka theo Ấn giáo đến nước này. Cuối cùng là cộng đồng nhỏ người Nepal cũng theo Ấn giáo sang Canada trong những năm gần đây.

Theo điều tra dân số năm 2001 của Canada, có 297.200 tín đồ Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, Hiệp hội tổ chức phi lợi nhuận nghiên cứu Canada ước tính dân số Ấn Độ giáo đã tăng lên 372.500 vào năm 2006, hoặc chỉ dưới 1,2% dân số của Canada. Phần lớn của người Ấn giáo sinh sống tại Ontario (tập trung chủ yếu ở Toronto, Scarborough, Brampton, Hamilton, Windsor & Ottawa), Quebec (chủ yếu xung quanh khu vực Montreal) và British Columbia, (chủ yếu là xung quanh khu vực Vancouver).[174]

Có một cộng đồng Phật giáo nhỏ hiện đang phát triển nhanh chóng ở Canada. Tính đến số 2001, có 300.346 người Canada xác định tôn giáo của họ là Phật giáo (khoảng 1% dân số).[173]

Phật giáo đã được thực hành ở Canada trong hơn một thế kỷ và trong những năm gần đây đã gia tăng đáng kể về số lượng Phật tử. Phật giáo đến Canada với sự xuất hiện của người lao động Trung Quốc tại các vùng lãnh thổ trong thế kỷ 19.[175] Phật giáo hiện nay ở Canada chịu ảnh hưởng của Phật giáo Nhật Bản do sự nhập cư của người Nhật Bản trong thời gian cuối thế kỷ 19. Các ngôi chùa Phật giáo Nhật Bản đầu tiên ở Canada được xây dựng ở Vancouver vào năm 1905. Theo thời gian, người Nhật đã thành lập tổ chức Phật giáo Jodo Shinshu và là tổ chức Phật giáo lớn nhất ở Canada hiện nay.

Đạo Cao Đài xuất hiện ở Canada từ sau năm 1975, do sự di cư của người Việt sau sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Hiện nay, có 2 Thánh thất Cao Đài[176] và khoảng 2.000 tín đồ Cao Đài ở Canada.[177]

Theo điều tra dân số năm 2001 có 278.410 người đạo Sikh ở Canada. Đạo Sikh đã có mặt ở Canada ít nhất là từ năm 1887.

Các tỉnh bang và lãnh thổ tự trị

Canada có 10 tỉnh bang và 3 lãnh thổ tự trị phía bắc.

Các tỉnh bang của Canada mang tên province để giữ truyền thống của thời họ thực sự là các tỉnh (hay province) của Đế quốc Anh. Trên thực tế, mỗi đơn vị hành chính này là một bang tự trị (tương đối, nhưng không hoàn toàn, giống một tiểu bang - state - của Hoa Kỳ hay một bang - Bundesland - của Đức) với một chính phủ bao gồm các hệ thống hành pháp, tư pháp, luật pháp, thuế, giáo dục, y tế, xã hội... riêng của họ. Để tránh sự ngộ nhận với các tỉnh của nhiều quốc gia khác, cộng đồng người Việt tại Canada đã gọi đơn vị hành chính này là tỉnh bang. Từ tỉnh bang đã được dùng rất phổ biến trên các báo chí tiếng Việt phát hành tại Canada, tuy nhiên nhiều người vẫn dùng từ tỉnh, nhất là trong lối dùng hàng ngày.

Cơ chế hành chính của mỗi tỉnh bang tương đối giống trường hợp của liên bang. Với lời đề nghị của Thủ tướng Canada, Nữ hoàng cử một người dân trong tỉnh bang làm đại diện cho mình (Lieutenant governor). Về mặt lập pháp, thay vì có hai viện như liên bang, quốc hội của mỗi tỉnh bang chỉ có một viện với tên khác nhau tuỳ theo từng tỉnh bang. Về mặt hành pháp, đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội sẽ thành lập chính phủ, đảng chiếm nhiều ghế thứ nhì sẽ thành lập đối lập chính thức.

Cờ Tỉnh bang Thủ phủ Múi giờ
(UTC)
Vùng
British Columbia Victoria -8 (Pacific),
-7 (Mountain)
Western, Pacific
Alberta Edmonton -7 (Mountain) Western, Prairies
Saskatchewan Regina -7 (Mountain),
-6 (Central)
Manitoba Winnipeg -6 (Central)
Ontario Toronto -6 (Central),
-5 (Eastern)
Central, Eastern
Quebec Thành phố Québec -5 (Eastern)
-4 (Magdalen Islands)
New Brunswick Fredericton -4 (Atlantic) Atlantic, Maritimes
Nova Scotia Halifax
Đảo hoàng tử Edward Charlottetown
Newfoundland và Labrador St. John's -4 (Atlantic),
-3.5 (Newfoundland)
Atlantic
Cờ Lãnh thổ Thủ phủ Múi giờ
(UTC)
Vùng
Yukon Whitehorse -8 Northern hay Arctic
Các Lãnh thổ Tây Bắc Yellowknife -7
Nunavut Iqaluit -7, -6, -5,

Đọc thêm

  • Bumsted, J. 2004. History of the Canadian Peoples, Oxford: Oxford University Press
  • Mann, S. 2002. The Dream of Nation, Second edition. Montreal: McGill-Queens University Press, Carleton Library Series #198.
  • Chú thích trống (trợ giúp)
  • Required”. Chú thích có các tham số trống không rõ: |month=|coauthors= (trợ giúp); Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)

Ghi chú

  1. ^ a b Hail, M (25 tháng 2 năm 2010). “Federalism and Representation in the Theory of the Founding Fathers: A Comparative Study of US and Canadian Constitutional Thought”. Publius: the Journal of Federalism. 40 (3): 366–388. doi:10.1093/publius/pjq001. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “hail” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
  3. ^ “Canada's population clock”. Cục thống kê Canada. Truy cập 2024–05-19. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  4. ^ “2011 Census: Population and dwelling counts”. Statistics Canada. 8 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2012.
  5. ^ a b c d “Canada”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  6. ^ “Human Development Report 2011” (PDF). United Nations. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2011.
  7. ^ “Distribution of family income – Gini index”. World Factbook. CIA. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2009.
  8. ^ “Origin of the Name, Canada”. Canadian Heritage. 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  9. ^ a b Maura, Juan Francisco (2009). “Nuevas aportaciones al estudio de la toponimia ibérica en la América Septentrional en el siglo XVI”. Bulletin of Spanish Studies. 86 (5): 577–603. doi:10.1080/14753820902969345.
  10. ^ Rayburn, Alan (2001). Naming Canada: Stories of Canadian Place Names (ấn bản 2). University of Toronto Press. tr. 1–22. ISBN 978-0-8020-8293-0.
  11. ^ O'Toole, Roger (2009). “Dominion of the Gods: Religious continuity and change in a Canadian context”. Trong Hvithamar, Annika; Warburg, Margit; Jacobsen, Brian Arly (biên tập). Holy nations and global identities: civil religion, nationalism, and globalisation. Brill. tr. 137. ISBN 978-90-04-17828-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  12. ^ a b c d Buckner, Philip biên tập (2008). Canada and the British Empire. Oxford University Press. tr. 37–40, 56–59, 114, 124–125. ISBN 978-0-19-927164-1.
  13. ^ “Y-Chromosome Evidence for Differing Ancient Demographic Histories in the Americas” (PDF). University College London 73:524–539. 2003. doi:10.1086/377588. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  14. ^ Cinq-Mars, J (2001). “On the significance of modified mammoth bones from eastern Beringia” (PDF). The World of Elephants – International Congress, Rome. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  15. ^ Wright, JV (27 tháng 9 năm 2009). “A History of the Native People of Canada: Early and Middle Archaic Complexes”. Canadian Museum of Civilization. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  16. ^ Center for Archaeological Sciences Norman Herz Professor of Geology and Director; Society of Archaelogical Sciences both at University of Georgia Ervan G. Garrison Associate Professor of Anthropology and Geology and President (1997). Geological Methods for Archaeology. Oxford University Press. tr. 125. ISBN 978-0-19-802511-5.
  17. ^ Hayes, Derek (2008). Canada: an illustrated history. Douglas & Mcintyre. tr. 7, 13. ISBN 978-1-55365-259-5.
  18. ^ Macklem, Patrick (2001). Indigenous difference and the Constitution of Canada. University of Toronto Press. tr. 170. ISBN 978-0-8020-4195-1.
  19. ^ Sonneborn, Liz (tháng 1 năm 2007). Chronology of American Indian History. Infobase Publishing. tr. 2–12. ISBN 978-0-8160-6770-1.
  20. ^ a b c Wilson, Donna M (2008). Dying and Death in Canada. University of Toronto Press. tr. 25–27. ISBN 978-1-55111-873-4. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  21. ^ a b Thornton, Russell (2000). “Population history of Native North Americans”. A population history of North America. Cambridge University Press. tr. 13, 380. ISBN 978-0-521-49666-7. Đã bỏ qua tham số không rõ |editors= (gợi ý |editor=) (trợ giúp)
  22. ^ Bailey, Garrick Alan (2008). Handbook of North American Indians: Indians in contemporary society. Government Printing Office. tr. 285. ISBN 978-0-16-080388-8.
  23. ^ “Gateway to Aboriginal Heritage: Culture”. Canadian Museum of Civilization. 12 tháng 5 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  24. ^ “ICC Charter”. Inuit Circumpolar Council. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  25. ^ “In the Kawaskimhon Aboriginal Moot Court Factum of the Federal Crown Canada”. University of Manitoba Faculty of Law. 2007. tr. 2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  26. ^ “What to Search: Topics”. Ethno-Cultural and Aboriginal Groups. Library and Archives Canada. 27 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  27. ^ Tanner, Adrian (1999). “3. Innu-Inuit 'Warfare'. Innu Culture. Department of Anthropology, Memorial University of Newfoundland. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  28. ^ Reeves, Arthur Middleton (2009). The Norse Discovery of America. BiblioLife. tr. 82. ISBN 978-0-559-05400-6.
  29. ^ “John Cabot's voyage of 1497”. Memorial University of Newfoundland. 2000. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2012.
  30. ^ a b Hornsby, Stephen J (2005). British Atlantic, American frontier: spaces of power in early modern British America. University Press of New England. tr. 14, 18–19, 22–23. ISBN 978-1-58465-427-8.
  31. ^ Cartier, Jacques; Biggar, Henry Percival; Cook, Ramsay (1993). The Voyages of Jacques Cartier. University of Toronto Press. tr. 26. ISBN 978-0-8020-6000-6.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  32. ^ Rose, George A (1 tháng 10 năm 2007). Cod: The Ecological History of the North Atlantic Fisheries. Breakwater Books. tr. 209. ISBN 978-1-55081-225-1.
  33. ^ Ninette Kelley; Michael J. Trebilcock (30 tháng 9 năm 2010). The Making of the Mosaic: A History of Canadian Immigration Policy. University of Toronto Press. tr. 27. ISBN 978-0-8020-9536-7.
  34. ^ Tucker, Spencer C; Arnold, James; Wiener, Roberta (30 tháng 9 năm 2011). The Encyclopedia of North American Indian Wars, 1607–1890: A Political, Social, and Military History. ABC-CLIO. tr. 394. ISBN 978-1-85109-697-8.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  35. ^ Phillip Alfred Buckner; John G. Reid (1994). The Atlantic Region to Confederation: A History. University of Toronto Press. tr. 55–56. ISBN 978-0-8020-6977-1.
  36. ^ Nolan, Cathal J (2008). Wars of the age of Louis XIV, 1650–1715: an encyclopedia of global warfare and civilization. ABC-CLIO. tr. 160. ISBN 978-0-313-33046-9.
  37. ^ Allaire, Gratien (tháng 5 năm 2007). “From "Nouvelle-France" to "Francophonie canadienne": a historical survey”. International Journal of the Sociology of Language. 2007 (185): 25–52. doi:10.1515/IJSL.2007.024.
  38. ^ Hicks, Bruce M (tháng 3 năm 2010). “Use of Non-Traditional Evidence: A Case Study Using Heraldry to Examine Competing Theories for Canada's Confederation”. British Journal of Canadian Studies. 23 (1): 87–117. doi:10.3828/bjcs.2010.5.
  39. ^ Todd Leahy; Raymond Wilson (30 tháng 9 năm 2009). Native American Movements. Scarecrow Press. tr. 49. ISBN 978-0-8108-6892-2.
  40. ^ McNairn, Jeffrey L (2000). The capacity to judge. University of Toronto Press. tr. 24. ISBN 978-0-8020-4360-3.
  41. ^ “Immigration History of Canada”. Marianopolis College. 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  42. ^ “The Irish Emigration of 1847 and Its Canadian Consequences”. cchahistory.ca.
  43. ^ Romney, Paul (Spring 1989). “From Constitutionalism to Legalism: Trial by Jury, Responsible Government, and the Rule of Law in the Canadian Political Culture”. Law and History Review. University of Illinois Press. 7 (1): 128.
  44. ^ Evenden, Leonard J (1992). “The Pacific Coast Borderland and Frontier”. Trong Janelle, Donald G (biên tập). Geographical snapshots of North America. Guilford Press. tr. 52. ISBN 978-0-89862-030-6. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  45. ^ Gertjan Dijkink; Hans Knippenberg (2001). The Territorial Factor: Political Geography in a Globalising World. Amsterdam University Press. tr. 226. ISBN 978-90-5629-188-4.
  46. ^ a b Bothwell, Robert (1996). History of Canada Since 1867. Michigan State University Press. tr. 31, 207–310. ISBN 978-0-87013-399-2.
  47. ^ Bumsted, JM (1996). The Red River Rebellion. Watson & Dwyer. ISBN 978-0-920486-23-8.
  48. ^ a b “Building a nation”. Canadian Atlas. Canadian Geographic. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  49. ^ “Sir John A. Macdonald”. Library and Archives Canada. 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  50. ^ Cook, Terry (2000). “The Canadian West: An Archival Odyssey through the Records of the Department of the Interior”. The Archivist. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  51. ^ a b c d e f Morton, Desmond (1999). A military history of Canada (ấn bản 4). McClelland & Stewart. tr. 130–158, 173, 203–233, 258. ISBN 978-0-7710-6514-9.
  52. ^ Haglund, David G (1999). Security, strategy and the global economics of defence production. McGill-Queen's University Press. tr. 12. ISBN 978-0-88911-875-1. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  53. ^ Robert B. Bryce (1 tháng 6 năm 1986). Maturing in Hard Times: Canada's Department of Finance through the Great Depression. McGill-Queens. tr. 41. ISBN 978-0-7735-0555-1.
  54. ^ a b Goddard, Lance (2005). Canada and the Liberation of the Netherlands. Dundurn Press. tr. 225–232. ISBN 978-1-55002-547-7.
  55. ^ Bothwell, Robert (2007). Alliance and illusion: Canada and the world, 1945–1984. UBC Press. tr. 11, 31. ISBN 978-0-7748-1368-6.
  56. ^ J. Patrick Boyer (1996). Direct Democracy in Canada: The History and Future of Referendums. Dundurn. tr. 119. ISBN 978-1-4597-1884-5.
  57. ^ Mackey, Eva (2002). The house of difference: cultural politics and national identity in Canada. University of Toronto Press. tr. 57. ISBN 978-0-8020-8481-1.
  58. ^ Landry, Rodrigue (tháng 5 năm 2007). “Official language minorities in Canada: an introduction”. International Journal of the Sociology of Language. 2007 (185): 1–9. doi:10.1515/IJSL.2007.022. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  59. ^ Esses, Victoria M (tháng 7 năm 1996). “Multiculturalism in Canada: Context and current status”. Canadian Journal of Behavioural Science. 28 (3): 145–152. doi:10.1037/h0084934. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  60. ^ Sarrouh, Elissar (22 tháng 1 năm 2002). “Social Policies in Canada: A Model for Development”. Social Policy Series, No. 1. United Nations. tr. 14–16, 22–37. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  61. ^ a b Bickerton, James; Gagnon, Alain biên tập (2004). Canadian Politics (ấn bản 4). Broadview Press. tr. 250–254, 344–347. ISBN 978-1-55111-595-5.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  62. ^ Légaré, André (2008). “Canada's Experiment with Aboriginal Self-Determination in Nunavut: From Vision to Illusion”. International Journal on Minority and Group Rights. 15 (2–3): 335–367. doi:10.1163/157181108X332659.
  63. ^ Munroe, HD (2009). “The October Crisis Revisited: Counterterrorism as Strategic Choice, Political Result, and Organizational Practice”. Terrorism and Political Violence. 21 (2): 288–305. doi:10.1080/09546550902765623.
  64. ^ a b Sorens, J (tháng 12 năm 2004). “Globalization, secessionism, and autonomy”. Electoral Studies. 23 (4): 727–752. doi:10.1016/j.electstud.2003.10.003.
  65. ^ Leblanc, Daniel (13 tháng 8 năm 2010). “A brief history of the Bloc Québécois”. The Globe and Mail. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  66. ^ Betz, Hans-Georg; Immerfall, Stefan (1998). The new politics of the Right: neo-Populist parties and movements in established democracies. St. Martinʼs Press. tr. 173. ISBN 978-0-312-21134-9.
  67. ^ “Commission of Inquiry into the Investigation of the Bombing of Air India Flight 182”. Government of Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  68. ^ Sourour, Teresa K (1991). “Report of Coroner's Investigation” (PDF). Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  69. ^ “The Oka Crisis” (Digital Archives). CBC. 2000. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  70. ^ Roach, Kent (2003). September 11: consequences for Canada. McGill-Queen's University Press. tr. 15, 59–61, 194. ISBN 978-0-7735-2584-9.
  71. ^ “Canada and Multilateral Operations in Support of Peace and Stability”. National Defence and the Canadian Forces. 2010. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
  72. ^ “UNPROFOR”. Royal Canadian Dragoons. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
  73. ^ Jockel, Joseph T (2008). “Canada and the war in Afghanistan: NATO's odd man out steps forward”. Journal of Transatlantic Studies. 6 (1): 100–115. doi:10.1080/14794010801917212. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  74. ^ “Canada Recession: Global Recovery Still Fragile 3 Years On”. Huffington Post. 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
  75. ^ “Canada's military contribution in Libya”. CBC. 20 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2011.
  76. ^ a b c “Canada”. World Factbook. CIA. 16 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  77. ^ Niels West (2004). Marine Affairs Dictionary: Terms, Concepts, Laws, Court Cases, and International Conventions and Agreements. Greenwood Publishing Group. tr. 31. ISBN 978-0-313-30421-7.
  78. ^ Canadian Geographic. Royal Canadian Geographical Society. 2008. tr. 20.
  79. ^ “The Boundary”. International Boundary Commission. 1985. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2012.
  80. ^ National Atlas of Canada. Natural Resources Canada. 2005. tr. 1. ISBN 978-0-7705-1198-2.
  81. ^ Thomas V. Cech (2010). Principles of Water Resources: History, Development, Management, and Policy. John Wiley & Sons. tr. 83. ISBN 978-0-470-13631-7.
  82. ^ Bailey, William G (1997). The surface climates of Canada. McGill-Queen's University Press. tr. 124. ISBN 978-0-7735-1672-4. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  83. ^ Etkin, David (30 tháng 4 năm 2003). An Assessment of Natural Hazards and Disasters in Canada. Springer. tr. 569, 582, 583. ISBN 978-1-4020-1179-5. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  84. ^ Jessop, A. Geological Survey of Canada, Open File 5906. Natural Resources Canada. tr. 18–. GGKEY:6DLTQFWQ9HG.
  85. ^ Peter H. McMurry; Marjorie F. Shepherd; James S. Vickery (2004). Particulate Matter Science for Policy Makers: A NARSTO Assessment. Cambridge University Press. tr. 391. ISBN 978-0-521-84287-7.
  86. ^ The Weather Network. “Statistics, Regina SK”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
  87. ^ “Canadian Climate Normals or Averages 1971–2000”. Environment Canada. 25 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  88. ^ “Latest release”. World Trade Organization. 17 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2008.
  89. ^ “Index of Economic Freedom”. The Heritage Foundation and the Wall Street Journal. 2009. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2009.
  90. ^ a b “Imports, exports and trade balance of goods on a balance-of-payments basis, by country or country grouping”. Statistics Canada. 16 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  91. ^ "Canada has first yearly trade deficit since 1975". The Globe and Mail. February 10, 2010.
  92. ^ “Latest release from Labour Force Survey”. Statistics Canada. 6 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2009.
  93. ^ "Budget fights deficit with freeze on future spending". CTV News. March 4, 2010.
  94. ^ “Employment by Industry”. Statistics Canada. 8 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2009.
  95. ^ Easterbrook, WT (tháng 3 năm 1995). “Recent Contributions to Economic History: Canada”. Journal of Economic History. Economic History Society. 19: 98.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  96. ^ a b Brown, Charles E (2002). World energy resources. Springer. tr. 323, 378–389. ISBN 3540426345.
  97. ^ Clarke, Tony; Campbell, Bruce; Laxer, Gordon (10 tháng 3 năm 2006). “US oil addiction could make us sick” (PDF). Parkland Institute. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2006.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  98. ^ a b Britton, John NH (1996). Canada and the Global Economy: The Geography of Structural and Technological Change. McGill-Queen's University Press. tr. 26–27, 155–163. ISBN 0773513566.
  99. ^ Leacy, FH (ed.) (1983). “Vl-12”. Statistics Canada. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  100. ^ Granatstein, JL (1997). Yankee Go Home: Canadians and Anti-Americanism. Toronto: HarperCollins. ISBN 0-00-638541-9.
  101. ^ Morck, Randall (2005). “Who owns whom? Economic nationalism and family controlled pyramidal groups in Canada”. Trong Lorraine Eden, Wendy Dobson (biên tập). Governance, multinationals, and growth. Edward Elgar Publishing. tr. 50. ISBN 1843769093. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  102. ^ Jenkins, Barbara L (1992). The paradox of continental production. Cornell University Press. tr. 117. ISBN 0801426766.
  103. ^ “Jean Chrétien”. CBC. 13 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
  104. ^ Sturgeon, Jamie (13 tháng 3 năm 2009). “Jobless rate to peak at 10%: TD”. National Post. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
  105. ^ Queen Victoria (29 tháng 3 năm 1867). “Constitution Act, 1867: Preamble”. Queen's Printer. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  106. ^ Smith, David E (10 tháng 6 năm 2010). “The Crown and the Constitution: Sustaining Democracy?”. The Crown in Canada: Present Realities and Future Options. Queen's University. tr. 6. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  107. ^ a b MacLeod, Kevin S (2012). A Crown of Maples (PDF) (ấn bản 2). Queen's Printer for Canada. tr. 16. ISBN 978-0-662-46012-1. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  108. ^ Canadian Heritage (tháng 2 năm 2009). “Canadian Heritage Portfolio” (PDF) (ấn bản 2). Queen's Printer: 3–4. ISBN 978-1-100-11529-0. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  109. ^ “The Governor General of Canada: Roles and Responsibilities”. Queen's Printer. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  110. ^ Commonwealth public administration reform 2004. Commonwealth Secretariat. 2004. tr. 54–55. ISBN 978-0-11-703249-1.
  111. ^ a b c Forsey, Eugene (2005). How Canadians Govern Themselves (ấn bản 6). Queen's Printer. tr. 1, 16, 26. ISBN 978-0-662-39689-5. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  112. ^ a b Marleau, Robert; Montpetit, Camille. “House of Commons Procedure and Practice: Parliamentary Institutions”. Queen's Printer. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  113. ^ “Prime Minister of Canada”. Queen's Printer. 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  114. ^ Johnson, David (2006). Thinking government: public sector management in Canada (ấn bản 2). University of Toronto Press. tr. 134–135, 149. ISBN 978-1-55111-779-9.
  115. ^ “The Opposition in a Parliamentary System”. Library of Parliament. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  116. ^ O'Neal, Brian; Bédard, Michel; Spano, Sebastian (11 tháng 4 năm 2011). “Government and Canada's 41st Parliament: Questions and Answers”. Library of Parliament. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2011.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  117. ^ Ann L. Griffiths; Karl Nerenberg (2003). Handbook of Federal Countries. McGill-Queen's Press. tr. 116. ISBN 978-0-7735-7047-4.
  118. ^ “Difference between Canadian Provinces and Territories”. Intergovernmental Affairs Canada. 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  119. ^ “Differences from Provincial Governments”. Legislative Assembly of the Northwest Territories. 2008. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2014.
  120. ^ Bakan, Joel (2003). Canadian Constitutional Law. Emond Montgomery Publications. tr. 3–8, 683–687, 699. ISBN 978-1-55239-085-6. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  121. ^ David L. Preston (2009). The Texture of Contact: European and Indian Settler Communities on the Frontiers of Iroquoia, 1667-1783. U of Nebraska Press. tr. 43–44. ISBN 978-0-8032-2549-7.
  122. ^ a b Assembly of First Nations, Elizabeth II (2004). 1. Assembly of First Nations: 3 http://www.webcitation.org/5mNOfuTmo. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp); |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp); |contribution= bị bỏ qua (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  123. ^ “Treaty areas”. Treasury Board of Canada Secretariat. 7 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  124. ^ Gary Brent Madison (2000). Is There a Canadian Philosophy?: Reflections on the Canadian Identity. University of Ottawa Press. tr. 128. ISBN 978-0-7766-0514-2.
  125. ^ McCormick, Peter (2000). Supreme at last: the evolution of the Supreme Court of Canada. James Lorimer & Company Ltd. tr. 2, 86, 154. ISBN 978-1-55028-692-2.
  126. ^ Richard Yates; Penny Bain; Ruth Yates (2000). Introduction to law in Canada. Prentice Hall Allyn and Bacon Canada. tr. 93. ISBN 978-0-13-792862-0.
  127. ^ Sworden, Philip James (2006). An introduction to Canadian law. Emond Montgomery Publications. tr. 22, 150. ISBN 978-1-55239-145-7.
  128. ^ “Ontario Provincial Police”. OPP official website. 2009. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
  129. ^ Royal Canadian Mounted Police. “Keeping Canada and Our Communities Safe and Secure” (PDF). Queen's Printer. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  130. ^ “Military Strength of Canada”. Global Firepower. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2014.
  131. ^ “Military expenditure of Canada”. SIPRI. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.
  132. ^ Haglung, David G (Autumn 2003). “North American Cooperation in an Era of Homeland Security”. Orbis. Foreign Policy Research Institute. 47 (4): 675–691. doi:10.1016/S0030-4387(03)00072-3.
  133. ^ James, Patrick (2006). Michaud, Nelson; O'Reilly, Marc J (biên tập). Handbook of Canadian Foreign Policy. Lexington Books. tr. 213–214, 349–362. ISBN 978-0-7391-1493-3.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  134. ^ Teigrob, Robert (tháng 9 năm 2010). “'Which Kind of Imperialism?' Early Cold War Decolonization and Canada–US Relations”. Canadian Review of American Studies. 37 (3): 403–430. doi:10.3138/cras.37.3.403.
  135. ^ Canada's international policy statement: a role of pride and influence in the world. Government of Canada. 2005. ISBN 978-0-662-68608-8.
  136. ^ Finkel, Alvin (1997). Our lives: Canada after 1945. Lorimer. tr. 105–107, 111–116. ISBN 978-1-55028-551-2.
  137. ^ Holloway, Steven Kendall (2006). Canadian foreign policy: defining the national interest. University of Toronto Press. tr. 102–103. ISBN 978-1-55111-816-1.
  138. ^ Farnsworth, Clyde H (27 tháng 11 năm 1994). “Torture by Army Peacekeepers in Somalia Shocks Canada”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  139. ^ “Canada and the Organization of American States (OAS)”. Canadian Heritage. 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  140. ^ Ibp Usa. Canada Intelligence, Security Activities and Operations Handbook Volume 1 Intelligence Service Organizations, Regulations, Activities. Int'l Business Publications. tr. 27. ISBN 978-0-7397-1615-1.
  141. ^ Murray Brewster (27 tháng 9 năm 2013). “Canada lost Afghan war, says author”. Canada free press (iPOLOTICS). Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2012.
  142. ^ “Cost of the Afghanistan mission 2001–2011”. Government of Canada. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2011.
  143. ^ Vagnoni, Giselda (5 tháng 2 năm 2007). “Rich nations to sign $1.5 bln vaccine pact in Italy”. Reuters. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  144. ^ Blomfield, Adrian (3 tháng 8 năm 2007). “Russia claims North Pole with Arctic flag stunt”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  145. ^ “Canada's Libya mission to end in 2 weeks”. CBC. 20 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.
  146. ^ Adam Chapnick (2011). The Middle Power Project: Canada and the Founding of the United Nations. UBC Press. tr. 2–5. ISBN 978-0-7748-4049-1.
  147. ^ “International Organizations and Forums”. Foreign Affairs, Trade and Development Canada. 2013. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.
  148. ^ “International Covenant on Civil and Political Rights”. United Nations. 2014. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.
  149. ^ Bird, Richard M (22 tháng 10 năm 2008). “Government Finance”. Historical Statistics of Canada. Statistics Canada. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2011.
  150. ^ Rand Dyck (2011). Canadian Politics. Cengage Learning. tr. 88. ISBN 978-0-17-650343-7.
  151. ^ Franklin, Daniel P; Baun, Michael J (1995). Political culture and constitutionalism: a comparative approach. Sharpe. tr. 61. ISBN 978-1-56324-416-2.
  152. ^ Garcea, Joseph (tháng 1 năm 2009). “Multiculturalism Discourses in Canada”. Canadian Ethnic Studies. 40 (1): 1–10. doi:10.1353/ces.0.0069. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  153. ^ Bricker, Darrell; Wright, John (2005). What Canadians think about almost everything. Doubleday Canada. tr. 8–28. ISBN 978-0-385-65985-7.
  154. ^ Magocsi, Paul R (2002). Aboriginal peoples of Canada: a short introduction. University of Toronto Press. tr. 3–6. ISBN 978-0-8020-3630-8.
  155. ^ Blackwell, John D (2005). “Culture High and Low”. International Council for Canadian Studies World Wide Web Service. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2006.
  156. ^ “Mandate of the National Film Board” (PDF). National Film Board of Canada. 2005. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
  157. ^ Brock, Richard (2008). “Envoicing Silent Objects: Art and Literature at the Site of the Canadian Landscape”. Canadian Journal of Environmental Education. 13 (2): 50–61.
  158. ^ Hill, Charles C (1995). The Group of Seven – Art for a Nation. National Gallery of Canada. tr. 15–21, 195. ISBN 978-0-7710-6716-7.
  159. ^ Newlands, Anne (1996). Emily Carr. Firefly Books. tr. 8–9. ISBN 978-1-55209-046-6.
  160. ^ Pamela R. Stern (30 tháng 6 năm 2010). Daily life of the Inuit. ABC-CLIO. tr. 151. ISBN 978-0-313-36311-5.
  161. ^ Dorland, Michael (1996). The cultural industries in Canada: problems, policies and prospects. J. Lorimer. tr. 95. ISBN 978-1-55028-494-2.
  162. ^ Edwardson, Ryan (2008). Canadian content, culture and the quest for nationhood. University of Toronto Press. tr. 127. ISBN 978-0-8020-9759-0.
  163. ^ Adam Jortner (2011). The Gods of Prophetstown: The Battle of Tippecanoe and the Holy War for the American Frontier. Oxford University Press. tr. 217. ISBN 978-0-19-976529-4.
  164. ^ 'O Canada'. Historica-Dominion. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
  165. ^ “Hymne national du Canada”. Canadian Heritage. 23 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2008.
  166. ^ Henry Roxborough, "The Beginning of Organized Sport in Canada," Canada (1975) 2#3 pp 30–43
  167. ^ “National Sports of Canada Act”. Canadian Heritage. 17 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2012.
  168. ^ Conference Board of Canada (tháng 12 năm 2004). “Survey: Most Popular Sports, by Type of Participation, Adult Population”. Strengthening Canada: The Socio-economic Benefits of Sport Participation in Canada – Report August 2005. Sport Canada. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2006.
  169. ^ a b Canadian Heritage (2002). Symbols of Canada. Canadian Government Publishing. ISBN 978-0-660-18615-3.
  170. ^ Ruhl, Jeffrey (tháng 1 năm 2008). “Inukshuk Rising”. Canadian Journal of Globalization. 1 (1): 25–30.
  171. ^ "Religions in Canada—Census 2011". Statistics Canada/Statistique Canada.
  172. ^ Saudi Aramco World: Canada's Pioneer Mosque: http://www.saudiaramcoworld.com/issue/199804/canada.s.pion
  173. ^ a b "Population by religion, by province and territory (2001 Census)". 0.statcan.gc.ca. Retrieved 2012-10-17.
  174. ^ "Selected Religions, for Canada, Provinces and Territories - 20% Sample Data". Religions in Canada: Highlight Tables, 2001 Census. Statistics Canada. 2004. Retrieved 2006-05-23.
  175. ^ ^ a b c d A.W. Barber. "Buddhism". The Canadian Encyclopedia. Retrieved 2012-10-17.
  176. ^ http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/centres.htm
  177. ^ http://www.adherents.com/Na/Na_99.html

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt

Bản mẫu:Link FA Bản mẫu:Link FA Bản mẫu:Link FA Bản mẫu:Link FA Bản mẫu:Link FA