Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Áo dài”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 31: Dòng 31:
== Lịch sử ==
== Lịch sử ==


=== Tiền thân của áo dài: Áo ngũ thân lập lĩnh (1744) ===
=== Tiền thân của áo dài: Áo ngũ thân giao lĩnh (1744) ===
[[Tập tin:Trần Anh Tông TLĐSXSĐ.jpg|thế=|nhỏ|trái|Vua [[Trần Anh Tông]] mặc áo viên lĩnh bên ngoài [[Áo giao lãnh|áo giao lĩnh]] trong tranh ''[[Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ]]'' thế kỷ 14|293x293px]]
[[Tập tin:Trần Anh Tông TLĐSXSĐ.jpg|thế=|nhỏ|trái|Vua [[Trần Anh Tông]] mặc áo viên lĩnh bên ngoài [[Áo giao lãnh|áo giao lĩnh]] trong tranh ''[[Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ]]'' thế kỷ 14|293x293px]]
[[Tập tin:Giảng học đồ.png|nhỏ|phải|200px|''Giảng học đồ'' vẽ cách trang phục của [[người Việt]] vào [[thế kỷ 18]] ở [[Đàng Ngoài]] mặc [[áo giao lĩnh]] gài bên phải]]
[[Tập tin:Giảng học đồ.png|nhỏ|phải|200px|''Giảng học đồ'' vẽ cách trang phục của [[người Việt]] vào [[thế kỷ 18]] ở [[Đàng Ngoài]] mặc [[áo giao lĩnh]] gài bên phải]]

Phiên bản lúc 09:56, ngày 1 tháng 5 năm 2022

Áo dài
Áo dài và Khăn vấn
LoạiÁo choàng
Chất liệuTơ hoặc tổng hợp
Nguồn gốcViệt Nam
Áo dài
Tên tiếng Việt
Tiếng Việtáo dài
Hán-Nôm𨱾

Áo dài là trang phục được cách tân theo hướng tây hóa từ áo ngũ thân lập lĩnh ,[1] còn gọi là áo tân thời[2](sau này còn được chit eo).

Đặc điểm là dáng áo bó, 2 tà thẳng trước sau. Các nhà thiết kế không áp dụng hoa văn truyền thống, phụ kiện trang sức lên Áo dài

Cấu tạo áo ngũ thân lập lĩnh truyền thống

Sơ đồ các bộ phận của áo dài
  • 1.Thân áo Được ghép bởi 5 mảnh vải (ngũ thân): 2 thân trước, 2 thân sau, và thân con thứ 5 nằm ở phía trước, bên phải người mặc.1 dạng sái y (衩衣). Vạt áo xòe và cong, không may thẳng. Vì vậy khi mặc lên, 2 bên tà cúp lại, không lộ eo như áo dài tân thời. *Lưu ý: vạt không xòe rộng là không đúng quy cách truyền thống.
  • 2. Nữu (nút áo) Áo ngũ thân có 5 nút, vị trí cụ thể như trên ảnh. Nút thứ 2 và nút 1 ở giữa cổ phải tạo thành đường thẳng vuông góc với trung phùng đạo (đường ráp vải giữa áo) Chất liệu: làm từ kim loại, gỗ, ngọc...
  • 3. Lớp áo Mặc lót bên trong áo ngũ thân là áo lập lĩnh trắng kiểu đơn y (單衣)hoặc áo bà ba (sam) tay liền.
  • 4. Cổ áo Cổ áo dựng vuông vắn hoặc vê tròn, ôm khít vào cổ (nữ: 2–3 cm, nam: 3–4 cm) Cổ áo nội y may bằng vải mềm, cổ áo ngoại y may tạo độ cứng và ôm. Khi mặc lên, cổ áo lót trong cao hơn cổ áo ngũ thân *Lưu ý: có một số thợ may giả lĩnh (may thêm vải trắng lên cổ áo) là không đúng quy cách truyền thống, khi đã mặc áo may giả lĩnh thì không mặc áo lót trắng
  • 5. Tay áo: 2 loại (thụng/chẽn) Dù cho áo được may theo kiểu thụng hoặc chẽn thì khi trải phẳng ra tay áo vai áo vẫn phải nằm trên một đường thẳng, nách áo rộng giúp thoải mái vận động dễ dàng hơn áo dài tân thời. *Lưu ý: Nếu tay áo dạng tam giác là không đúng quy cách truyền thống, vai áo may cứng như Vest (kiểu tây) là may sai thành áo Ấn Độ (gọi "áo dài nam" là sai. Đáng buồn là hiện tại có nhiều nghệ sĩ, các thanh niên, người lớn không tìm hiểu về văn hóa đều tưởng là áo dài may cứng vai như vest là áo dài nam. Đa số studio nhập từ nhà may áo dài raglan đã quen với kiểu may áo tân thời nữ rồi nên khi khách hỏi áo dài nam thì họ sẽ đưa áo Ấn Độ)

Áo ngũ thân lập lĩnh là 1 trong các y quan của Việt phục (越服) (Còn nhiều loại trang phục truyền thống khác như vân kiên đính chân chỉ hạt bột, mã tiên, mã quái, ngoại quái, mã khố, nhật bình, bình lĩnh, áo tràng (nữ quan), mãng lan, đa la, bàn lĩnh phụng bào, lập lĩnh phụng bào, tràng vạt, bổ long, Viên lĩnh bán tí, trực lĩnh bán tí, song khai, xiêm nhu, nghê thường, giao lĩnh cẩm bào, giao lĩnh long bào, lập lĩnh long bào, lập lĩnh long bào, bàn lĩnh long bào, long trấn, tứ điên,...).

Lịch sử

Tiền thân của áo dài: Áo ngũ thân giao lĩnh (1744)

Vua Trần Anh Tông mặc áo viên lĩnh bên ngoài áo giao lĩnh trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ thế kỷ 14
Giảng học đồ vẽ cách trang phục của người Việt vào thế kỷ 18Đàng Ngoài mặc áo giao lĩnh gài bên phải

Thời Lê,trang phục phổ biến của người Việt là áo trực lĩnh (cổ thẳng)(Lê triều phổ biến áo tràng vạt, áo bổ long), áo viên lĩnh (cổ tròn), áo đa la (áo quân binh), và bán tí (áo có dạng viên lĩnh hoặc tứ thân). Ngoài ra còn kiểu áo tứ thân phủ tà (gồm bốn vạt nửa và một tà khoát ngoài: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái và tà khoát ngoài bao bọc 4 vạt bên trong áo).

Kiểu áo do chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt định là áo ngũ thân lập lĩnh (cổ đứng) cài nút vào thế kỉ 18. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót (chỉ hở phần cổ trắng của áo lót). Mỗi vạt có hai thân nối sống (tổng cộng bốn vạt) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ 5 chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáongũ hành theo triết học Đông phương. Các kiểu áo cổ của phương đông xưa luôn có 1 đường may giữa ở vạt trước và sau áo gọi là trung phùng đạo, thể hiện Đấng quân tử nên tìm đạo lý, Kẻ trượng phu gìn kỹ tinh hoa, chính trực.

Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1744)

Áo dài ngũ thân, khoảng năm 1900

Với tham vọng lập quốc một cõi, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành cho mặc đối với những quan chức cấp cao để phân biệt họ với những người dân khác. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của áo ngũ thân Việt Nam: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo lập lĩnh ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép..." (sách Đại Nam Thực lục)

Từ đó bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây.

Hôn lễ đối với dân thường Bắc Bộ, nữ đội hôn lạp, guốc cong, nam đội nón ngựa (chóp nhọn), xỏ hài, dâu rể mặc áo tấc có thêu hoa văn dạng bàn cổ. Hôn lễ với Nam bộ cô dâu và phù dâu đội nón gụ. Hôn lễ đối với quý tộc, nữ kết kim ước phát, nam đội mũ theo bổ phục. Dân thường xỏ hài, guốc; quý tộc xỏ hài cong (giống như tích), cung nhân xỏ guốc sơn son thiếp vàng.

Thời vua Minh Mạng (1828)

Tập tin:Marie Antoinette Boullard-Devé miền trung.jpg
Lễ phục nam giới thời Nguyễn, tranh: Marie Antoinette Boullard-Devé

Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế..."

Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:

Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!

Các thời vua kế tiếp

Áo ngũ thân cổ đứng giúp tăng vẻ đài các, sang trọng cho người mặc được thể hiện qua hoa văn thêu truyền thống. Áo lập lĩnh (cổ đứng) dễ dàng kết hợp với những đôi hài, tích, guốc cong, nón 3 tầm, xà tích, trâm và là áo mặc bên trong của những loại áo quý tộc (nhật bình, bình lĩnh, mã quái, mã tiên, bàn lĩnh, giao lĩnh).

Đối với phụ nữ trước năm 1885, áo ngũ thân (dài và rộng dần đến đầu gối) được mặc kết hợp với trâm và nón cụ (đối với Huế và Nam bộ), nón quai thao hay nón 3 tầm (đối với Bắc bộ), được mặc kết hợp với quần đen hoặc quần đỏ. Sau thời vua Thành Thái, do bị Pháp cướp vàng bạc trong triều đình, áo ngũ thân kết hợp với khăn vấn, khăn vành dây và do bị Tây hóa nên mặc quần trắng. Cho đến năm 1970,Trong các hôn lễ của các gia đình quý tộc thì cô dâu vẫn có sử dụng áo ngũ thân là nội y và áo nhật bình là ngoại y, xỏ hài thêu, đeo khăn vành

Sự phục hưng của áo ngũ thân lập lĩnh trong thế kỉ 21

Năm 2013, sách "Ngàn năm áo mũ" của nhà nghiên cứu Trần Quang Đức ra đời đã giúp định hình giá trị truyền thống thật sự đến thế hệ trẻ, giúp hiểu hơn về áo ngũ thân.

Bên cạnh đó - Đại Lễ Phục Triều Nguyễn - của tác giả Trần Đình Sơn đã minh họa chính xác nhất về y phục triều Nguyễn.

Hiện nay áo ngũ thân đang được phục hồi bởi những người trẻ yêu văn hóa, làm công tác du lịch, nghệ thuật (phim, kịch, video âm nhạc). Trong đó, người phục dựng dựa theo truyền thống lâu đời nhất là:

  • Nghệ nhân áo ngũ thân Đỗ Minh Thường (Đỗ Minh Tám) ở Ngõ Hoa Lư, xóm Đông, làng Trạch Xá (Làng tổ nghề may áo ngũ thân), Huyên Ứng Hòa, Hà Nội (Tra cứu google để biết thêm về nghệ nhân)
  • Nhà nghiên cứu Trịnh Bách phục dựng nhiều trang phục triều Nguyễn và nhiều nghệ nhân trẻ đang nghiên cứu phục dựng nhiều trang phục truyền thống trong quá khứ của Việt Nam.
  • Nghệ nhân thêu áo ngũ thân Vũ Văn Giỏi ở làng Đông Cứu, xã Dũng Tiến, huyện Thường Tín,Hà Nội đã phục dựng gc cách thêu cung đình các áo phụng bào,long bào,.,Triều Nguyễn.Huyện Thường Tín cũng là địa chỉ của các nghệ nhân có thể làm thuyền hài, Phượng hài, tích, bì ngoa, mộc cược (guốc) làm cho áo ngũ thân thêm trang trọng.
  • Nghệ nhân phụ kiện,đồ đồng Đại Linh (hàng giả cổ) thuộc cơ sở đúc đồng Thế Linh ở thị trấn Lâm, Ý Yên, Nam Định đã phục dựng kim bài, mộc bài, ngọc bội, kim bội, phượng khấu (dùng cho áo nhật bình),...kết hợp với áo ngũ thân, Việt phục
  • Nghệ nhân mũ mã vĩ (dệt lông đuôi ngựa) Vũ Kim Lộc đã phục dựng các mũ cổ triều Nguyễn (dùng kết hợp với áo ngũ thân) và ra mắt sách "mũ miện triều Nguyễn" giúp thế hệ trẻ hiểu thêm nghề thủ công truyền thống mã vĩ cân
  • Nghệ nhân đậu bạc Quách Tuấn Anh (làng nghề đậu bạc Định Công) chế tác nữ trang, trâm, hoa tai dựa trên hiện vật cổ
  • Các nghệ nhân trẻ của Long Thành Xạ Nghệ (龍城射藝), Cung thuật truyền thống VN, Cung thuật Cổ truyền - Traditional Archery, Binh Khí Việt đã phục dựng các loại quân trang phục vụ làm phim, kịch, lễ hội, diễn tập

Sự biến mất của áo ngũ thân lập lĩnh của nam giới nửa cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21

Áo ngũ thân được tạo ra cho nam và nữ. Tuy nhiên theo thời gian, áo ngũ thân nam dần mất. Vì thế khi nhắc đến áo dài người ta nghĩ ngay đến áo dài nữ.

Áo ngũ thân nam có cổ cao, thẳng và vuông tượng trưng cho sự chính trực của người quân tử. Áo có 5 cúc làm bằng kim loại, ngọc, gỗ,... chứ không phải bằng vải như sườn xám Trung Quốc. Áo có 5 thân tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, một thân con (nhỏ nhất, nằm trong) tượng trưng cho mình (người mặc). Tà áo không bó sát người mà rộng, càng xuống càng xòe ra. Tay áo rộng, hẹp tùy ý.

Áo mặc thường màu sắc nhã nhặn, không có diềm cổ, diềm tay áo. Thường được mặc kèm một chiếc áo lót màu trắng để làm nền cho áo ngoài, thể hiện sự sạch sẽ ở bên trong. Thể hiện quan niệm truyền thống đẹp đẽ của người Việt: cái gì đẹp thì nên giấu vào trong. Áo ngũ thân luôn đi kèm với khăn vấn.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong bộ áo dài.

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn vấn cũng là quốc phục của cánh đàn ông. Các bà các cô dùng màu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này).

Từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc phục cho các viên chức hành chính trong chính phủ: nếu buổi lễ mang tính cách tôn giáo hay lịch sử thì lễ phục là áo ngũ thân tay hẹp, khăn đen, quần lụa trắng.[3]

Sau năm 1975, áo ngũ thân nam biến mất. Từ năm 2010 trở đi, xuất hiện nhiều áo dài cách tân như áo Ấn Độ khiến nhiều người không hiểu biết sử dụng trong các dịp lễ quan trọng. Từ năm 2016, Các nhà văn hóa, họa sĩ và thế hệ trẻ đang phát động phong trào mặc áo ngũ thân nam trong các câu lạc bộ như đình làng Việt, Việt phục hội, Việt nam cổ phục hội

Áo dài tân thời (1934)

Loại áo dài này ban đầu bị các bậc trí thức phản đối kịch liệt vì "me tây" (theo Nguyễn Công Hoan),được gọi là áo tân thời. Giai đoạn này nếu trong gia đình có những thế hệ sinh trước năm 1920, áo dài tân thời được mặc rộng rãi trong toàn xã hội lúc bấy giờ. Sau những năm 1940, áo dài kết hợp với nón lá (trước kia chỉ đàn ông đội nón chóp này) hay khăn đóng).Tà áo tân thời được thiết kế với hai vạt với chiều dài khác nhau, vạt trước sẽ có tà ngắn hơn một đoạn khoảng 5 cm đối với vạt sau.Dần dần làm biến mất các kiểu cách truyền thống như nón 3 tầm,áo bát bột(áo tơi đi mưa),dép da cong,guốc kinh,thuyền hài,và các loại trang phục có tính lễ nghi,...

Áo dài Lemur (1934)

"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ tên Lemur Nguyễn Cát Tường vào thập niên ba mươi đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo ngũ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn, điểm chia hai tà áo trước - sau cũng trễ dưới eo độ 8 cm. Điều khác biệt nhất là eo áo được nhấn nhẹ. Áo này khi mặc lên hơi sát vào bụng, nên trông như ngực nở ra. Đó là nét mỹ thuật Âu Tây đầu tiên được đưa vào y phục phụ nữ Việt mà cũng vì chuyện này từng gây phản ứng mạnh một thời trong dư luận. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này tuy được nhiều người yêu thích nhưng cũng đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng).

Theo sách Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay của tác giả Phạm Thảo Nguyên (do Khai Tâm và Nhà xuất bản Hồng Đức phát hành năm 2019 và tư liệu trong cuốn sách do Nguyễn Trọng Hiền, con trai họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường sưu tầm và gìn giữ) thì trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23 tháng 3 năm 1934, ông Cát Tường mạnh dạn đưa ra mẫu áo dài Lemur ("Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường) đầu tiên. Theo đó, khi phát hiện chiếc áo dài mà người phụ nữ mặc, ở trong lót áo yếm làm thân hình phẳng lì quá, họa sĩ tìm tới chủ hiệu Cự Chung chuyên sản xuất áo khoác, áo bơi ở phố Hàng Bông, đề nghị dệt thêm… áo ngực để nâng ngực cho người mặc. Đến năm 1935 thì cho xuất xưởng những chiếc áo đầu tiên. Do được nội hóa, giá cả vừa phải, hợp túi tiền người mua nên từ đó, phụ nữ Việt Nam có đầy đủ “phụ tùng”, hết ngại mặc chiếc áo dài Lemur tân thời duyên dáng mà sắc đẹp lại được nổi bật, sang trọng khiến các bà, các cô hãnh diện bước ra đường, tạo ra một phong trào đổi mới y phục phụ nữ quy mô sâu rộng nhất ở Việt Nam.

Cũng trong năm 1935, họa sĩ Cát Tường đã thực hiện một chuyến đi xuyên Việt để giới thiệu cho phụ nữ toàn quốc chiếc áo dài tân thời Lemur. Tại Huế, ông may mắn gặp bà Công Tằng Tôn Nữ Trinh Diêu, người từng được nhiếp ảnh gia Võ An Ninh chụp nhiều ảnh nghệ thuật, và ông được nhà Nguyễn mời thực hiện riêng một tủ áo dài tân thời Lemur cho Hoàng hậu Nam Phương. Sau này ông còn tiếp tục đi vào Nam vẽ áo dài cho nhiều nghệ sĩ cải lương, trong đó có nghệ sĩ Phùng Há.

Họa sĩ Lê Phổ cũng không có cải tiến áo dài Lemur theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo ngũ thân truyền thống như nhiều lời đồn. Khi tiệm Marie khánh thành (tiệm của Lê Nghi Sương là cháu của họa sĩ Lê Phổ), họa sĩ Cát Tường có giới thiệu một thợ may giỏi cho Lê Phổ. Trong cuốn đặc san ĐẸP Mùa Nực 1934 của Cát Tường, Lê Phổ có một trang vẽ nữ trang, chứ ông không hề thiết kế áo dài. Tới cuối tháng 10 năm 1937, Lê Phổ trả người thợ may giỏi lại cho hiệu may Lemur để đi Pháp lần thứ hai, sau khi chuyện tình duyên của ông với người bạn gái bị tan vỡ thì Lê Phổ không trở về nữa mà lấy vợ và ở lại hẳn nước Pháp vẽ tranh tới khi mất. Trên Báo Phong Hóa số 115 ngày 14 tháng 9 năm 1934 có đăng một quảng cáo: “May quần áo phụ nữ lối mới và lối cũ. Có họa sĩ Lê Phổ cho kiểu”. (Cho kiểu không phải là vẽ kiểu mới, mà chỉ là chọn một kiểu trong số kiểu áo Lemur có sẵn cho mỗi khách hàng. Có thể chỉnh sửa chút ít cho hợp dáng người, cũng như chọn hàng hợp với màu da khách. Như bác sĩ “cho thuốc” là cho đơn, đi mua thuốc làm sẵn).[4]

Đời sống mới (1945)

Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới[5]. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.

Áo dài Trần Lệ Xuân (1958)

Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hòa, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học lúc đó tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.

Áo dài với tay Raglan (1960)

Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay Raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay Raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.

Áo dài mini raglan (1971)

Áo áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản gốc này, áo ngắn tay Raglan có tà chỉ ngắn tới bàn chân, nhưng hai ống quần ôm lòa xòa phủ kín đôi chân. Quần dùng fecmotuy để cố định, có thêm túi.

Áo dài raglan, ren, hở cổ, tà dài mắt cá chân, tay lỡ (2007)

Áo dài cưới có chất liệu, kiểu dáng gần với váy cưới soiree (quần đủ các màu, kim tuyến, thêu hiện đại, phéc-mơ-tuya sau lưng, tà áo sau dài xếp ly ra sau để phù dâu cầm). Thời kỳ này, người Việt Nam gần như đã quên hình ảnh truyền thống áo ngũ thân cổ đứng, vấn khăn (hoặc cài trâm), đội nón 3 tầm, chân xỏ hài (hoặc guốc cong).

Áo dài trong nghệ thuật

Thơ văn

Trình diễn áo dài trong một chương trình thời trang ở Hà Nội

Hình ảnh phụ nữ Việt Nam với chiếc áo dài đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu:

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...

Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:

Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...

Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:

Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim)
đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma-soeur)

Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:

Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).

Hay vô cùng gợi cảm trong bài thơ Chiếc áo dài Việt Nam của nhà thơ Đinh Vũ NgọcQuảng Nam:

Chiếc áo quê hương dáng thướt tha
Non sông gấm vóc mở đôi tà
Tà bên Đông Hải lung linh sóng
Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa
Vạt rộng Nam phần chao cánh gió
Vòng eo Trung bộ thắt lưng ngà
Nhịp tim Hà Nội nhô gò ngực
Hương lúa ba miền thơm thịt da.

Âm nhạc

Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:

Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)

"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":

Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ

Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:

Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)

Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:

Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...

Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi:

Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố
Những lúc buồn vui vu vơ nào đó
Ánh mắt hồn nhiên vô tư dễ thương á hà…...
...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến cho mọi người

Nhạc sĩ Huỳnh Nhật Tân với bài "Cô gái Việt Nam":

Em, cô gái kiêu sa trong tà áo dài Việt Nam
Em, duyên dáng thơ ngây trong vườn nắng đẹp bình minh
Em chân bước mượt mà, em tay trắng ngọc ngà, đẹp lộng lẫy thướt tha.
Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam.
Em yêu quý quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam...

Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với ca khúc "Một đời áo mẹ áo em" kể lại lịch sử và sự gắn kết nhiều thế hệ của chiếc áo dài.

Nhạc sĩ Jo Marcel và ca khúc "Áo dài Việt Nam":

...Người Việt Nam trong chiếc áo dài
Người Việt Nam tha thướt bước về
Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai
Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách
Cùng nắm tay nhau chia sẻ buồn vui
Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp
Vẻ đẹp của người Việt Nam

Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi":

Em đẹp không cần son phấn… xinh thật xinh… thật xinh... rất hiền...
Không quần jeans… giầy cao gót… em chọn riêng mình em áo dài… duyên dáng...
Giống như hoa kia bên thềm… ngát hương không khoe sắc màu… ngàn đóa hoa đang rực rỡ không sánh bằng...
Nhẹ nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ nữ Việt…
Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông…

Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:

Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau
(Ngàn thu áo tím)

Bài hát "Áo trắng đến trường" của nhạc sĩ Xuân Phương được phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhạc sĩ Trần Hoàng Vy:

Áo trắng em mặc đến trường
Đừng bao giờ để... ai thương lại gần
Áo trắng thì phải biết lo
Biết không cô nhỏ học trò sáng nay ?

Bài Hát "Cho tôi một vé đi tuổi thơ" có câu:

"Áo trắng ai bay khiến cho ai kia mơ màng"

Ca khúc Bốn màu áo nói việc cô gái mặc áo dài đi gặp người mình yêu của nhạc sĩ Anh Thy.

Hội họa

Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân

Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài tân thời ngồi bên một bình hoa huệ tây(hoa loa kèn).Áo dài là đồng phục nữ sinh trường trung học phổ thông[6],là cảm hứng cho hội họa

Trình diễn thời trang

Đã có rất nhiều cuộc thi thiết kế và trình diễn áo dài được tổ chức tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài.

Nhà thiết kế Minh Hạnh, người từng giữ vị trí cao nhất ở nhiều Tuần lễ thời trang Việt Nam hay các lễ hội lớn, là một trong những người đã gặt hái được nhiều thành công khi giới thiệu và quảng bá các bộ sưu tập áo dài do chính mình thiết kế tới Nhật Bản với bộ sưu tập được thiết kế trên nền vải lụa sống hai da, cổ và tay áo được xếp thành nhiều lớp áo như kimono. Gam màu chủ đạo là hồng phấn và hồng đào lấy cảm hứng từ màu hoa anh đào[7]; tới Anh với 100 mẫu áo dài lấy ý tưởng từ các họa tiết trong trang phục của Hoàng gia Anh được kết hợp với các màu sắc trang phục dân tộc Việt[8]; cùng nhà thiết kế Lan Hương tới Mỹ[9] trong bộ sưu tập từ chất liệu jeans và hoa sen vừa kết hợp truyền thống và hiện đại, vừa thể hiện những giao hoa văn hóa Việt Mỹ. Bà cũng là người thiết kế bộ trang phục áo dài mới cho Vietnam Airline với những cách tân táo bạo gây nên những tranh luận đa chiều[10].

Đại nhạc hội Paris By Night 106 mang tên Silk Lụa, trực tiếp thu hình trong hai ngày 1 và 2 tháng 9 năm 2012 tại Planet Hollywood Resorts and Casino, Las Vegas trình diễn bộ sưu tập áo "Dáng Lụa" được thiết kế trên công nghệ in hiện đại của nhà thiết kế Thái Tuấn, Việt Nam.[11]

Trong các cuộc thi nhan sắc tầm cỡ thế giới như Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Trái đất, những người đẹp đại diện Việt Nam luôn đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng cho phần thi trang phục dân tộc, và đã không hiếm lần tà áo dài đồng hành cùng chiến thắng với chủ nhân của trang phục. Bộ áo dài đen cách điệu với đuôi công kết cườm và kim sa đã giúp Mai Phương Thúy lọt top 20 thí sinh mặc trang phục dân tộc đẹp nhất cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2006. Bộ áo dài "vũ khúc hạc" của nhà thiết kế Thuận Việt với cách thiết kế hai lớp áo theo kiểu dáng áo của Nam Phương Hoàng Hậu giúp hoa hậu Thùy Lâm lọt top 10 người đẹp trình diễn trang phục truyền thống đẹp nhất tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Bộ áo dài lấy cảm hứng từ rồng phương Đông, với các họa tiết thổ cẩm đặc trưng của dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam, được hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương lựa chọn tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012 cũng lọt Top 10 trang phục dân tộc đẹp nhất do trang web nổi tiếng về các cuộc thi sắc đẹp Missosology bình chọn. Đặc biệt bộ áo dài lấy ý tưởng từ bông sen với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, điểm xuyết đá pha lê đậm chất hoàng gia của á hậu Trương Thị May tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ năm 2013 được Missology bình chọn đứng đầu bảng xếp hạng những bộ quốc phục đẹp nhất; và trong chính cuộc thi, bộ áo dài này cũng đứng thứ 4 trong Top 10 trang phục dân tộc đẹp nhất[6]

Chú thích

  1. ^ Thái Nam Thắng (29 tháng 12 năm 2014). “Văn hoá và sự "đứt gãy": Vì đâu?”. Tuần Việt Nam.
  2. ^ Trong Từ điển bách khoa phụ nữ Việt Nam (tác giả Huỳnh Thị Dung, Nguyễn Thu Hà, Nhà xuất bản Phụ nữ, H. 2002) tại trang 21 ghi "áo dài là loại áo rất độc đáo của phụ nữ Việt Nam. Che từ cổ xuống đến đầu gối (hoặc quá đầu gối). Mặc cùng với quần trắng hay màu cùng màu".
  3. ^ Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". Khởi hành Năm XV, số 173, Tháng Ba, 2011. tr 6
  4. ^ 'Thâm cung' áo dài Lemur”.
  5. ^ Tân Sinh, "Đời sống mới", Ban vận động Đời sống mới 1947, hoặc
    Hồ Chí Minh, Về đạo đức cách mạng, trang 14, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2007
  6. ^ a b Những bộ áo dài Việt gây "choáng ngợp" thế giới
  7. ^ Áo dài Minh Hạnh đi Nhật[liên kết hỏng]
  8. ^ Nhà thiết kế Minh Hạnh giới thiệu 100 mẫu áo dài tại Anh
  9. ^ Nhà thiết kế Minh Hạnh, Lan Hương mang áo dài tới Mỹ
  10. ^ Minh Hạnh lại gây bão dư luận với trang phục VNA
  11. ^ Dáng lụa mang hồn Việt đến Paris by night

Xem thêm

Liên kết ngoài