Thú biển


Thú biển hay động vật có vú biển là các loài thú (động vật có vú) sống dựa vào đại dương và các hệ sinh thái biển khác để tồn tại, chúng là các loài thú có sống phụ thuộc vào môi trường biển. Chúng bao gồm các động vật như hải cẩu, cá voi, bò biển, lợn biển, rái cá biển và gấu Bắc Cực. Chúng không đại diện cho một nhóm phân loại hoặc phân nhóm có hệ thống, nhưng có quan hệ đa dạng do sự tiến hóa hội tụ, và chúng không hề có tổ tiên chung. Chúng cũng được thống nhất bởi sự phụ thuộc vào môi trường biển để cung cấp nguồn thức ăn hay chỗ trú ẩn của chúng.
Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Thú biển phù hợp với lối sống dưới nước rất khác nhau giữa các loài. Cả hai loài thuộc bộ cá voi (cetacean) gồm các loài cá voi, cá heo và họ hàng của chúng và bộ bò biển (sireni) đều có nguồn gốc thủy sinh và do đó là những cư dân sống trong môi trường nước (đại dương) bắt buộc, chúng không thể sống được trên cạn, không thở được trên cạn. Các loài hải cẩu và các loài sư tử biển là những loài thú biển lưỡng cư, chúng dành phần lớn thời gian của chúng để bơi lội và kiếm ăn trong môi trường nước, nhưng cần phải quay trở lại đất liền để thực hiện các hoạt động quan trọng như giao phối, sinh sản và thay lông. Ngược lại, cả các loài rái cá biển và gấu Bắc Cực ít thích nghi hơn với sinh vật dưới nước.
Chế độ ăn uống của chúng thì khác nhau đáng kể giữa các loài thú biển. Một số có thể ăn động vật phù du ở biển, những loài khác có thể ăn các loài cá, mực, sò ốc, cỏ biển và một số ít có thể ăn các động vật có vú khác. Mặc dù số lượng động vật có vú biển thấp so với những loài thú trên cạn, nhưng vai trò của chúng trong các hệ sinh thái khác nhau rất lớn, đặc biệt liên quan đến việc duy trì các hệ sinh thái biển khỏe mạnh, thông qua các quy trình bao gồm việc điều chỉnh, kiểm soát các quần thể con mồi. Vai trò này trong việc duy trì các hệ sinh thái làm chúng trở nên đặc biệt quan tâm vì 23% loài động vật có vú biển đang bị đe doạ.
Động vật có vú biển được những người thổ dân bản địa bắt đầu săn tìm cho nguồn thực phẩm và các nguồn sản phẩm khác. Nhiều loài thú biển cũng là mục tiêu cho ngành công nghiệp thương mại, dẫn đến sự suy giảm mạnh mẽ của tất cả các quần thể loài bị khai thác, như cá voi và hải cẩu. Săn bắt thương mại dẫn đến sự tuyệt chủng của con bò biển Steller và hải cẩu thầy tu Caribe, chúng đã hoàn toàn biến mất trên trái đất này. Sau khi săn bắt thương mại kết thúc, một số loài, như cá voi xám và hải tượng phương bắc đã hồi phục về số lượng, ngược lại, các loài khác, chẳng hạn như cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương hiện nay đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Khác với việc săn bắn, động vật có vú biển có thể bị giết chết như là đánh bắt cá, nơi chúng bị vướng vào lưới cố định và bị chết đuối hoặc chết đói. Tăng lượng giao thông đường biển gây ra va chạm giữa các tàu biển nhanh và động vật có vú biển lớn. Việc suy thoái môi trường sống cũng đe doạ các loài động vật có vú biển và khả năng tìm kiếm và đánh bắt thức ăn. Ví dụ, ô nhiễm tiếng ồn có thể ảnh hưởng xấu tới các động vật có vú giao tiếp bằng âm thanh, định vị đường di chuyển, và các tác động đang diễn ra của môi trường nóng lên toàn cầu đang làm giảm các môi trường Bắc cực.
Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]
Phân loại các loài còn tồn tại[sửa | sửa mã nguồn]
Phát sinh chủng loại thú biển | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Các đơn vị in đậm là thú biển. Các đơn vị kèm ký hiệu † là tuyệt chủng gần đây.[1] |
- Bộ Cetartiodactyla[2]
- Siêu bộ Whippomorpha
- Họ Balaenidae gồm 02 chi và 04 loài
- Họ Cetotheriidae gồm 01 loài
- Họ Balaenopteridae gồm 02 chi và 08 loài
- Họ Eschrichtiidae (cá voi xám) gồm 01 loài
- Họ Physeteridae gồm 01 loài
- Họ Kogiidae gồm 01 chi và 02 loài
- Họ Monodontidae gồm 02 chi và 02 loài
- Họ Ziphiidae gồm 06 chi và 21 loài
- Họ Delphinidae (cá heo đại dương) gồm 17 chi và 38 loài
- Họ Phocoenidae gồm 02 chi và 07 loài
- Siêu bộ Whippomorpha
- Bộ Sirenia (bò biển)[2]
- Phân bộ Cynodontia
- Họ Trichechidae gồm 02 loài
- Họ Dugongidae (dugong), gồm 01 loài
- Phân bộ Cynodontia
- Bộ Carnivora thú ăn thịt[2]
- Phân bộ Caniformia
- Họ Mustelidae (chồn) gồm 03 loài
- Họ Ursidae gấu), gồm 01 loài
- Phân bộ Pinnipedia (sư tử biển, hải tượng, hải cẩu biển)
- Họ Otariidae (hải cẩu có tai) gồm 07 chi và 15 loài
- Họ Odobenidae gồm 01 loài
- Họ Phocidae (hải cẩu không tai), gồm 14 chi và 18 loài
- Phân bộ Caniformia
Thuật ngữ "thú biển" gồm tất cả các loài động vật có vú phụ thuộc hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn vào đại dương để sống sót, chúng cũng tiến hóa một số đặc điểm thủy sinh chuyên biệt. Bên cạnh đó, một số loài thú khác phụ thuộc rất nhiều vào biển nhưng không có đặc điểm giải phẫu chuyên biệt (quasi-marine mammals) nên không tính vào, ví dụ: dơi Noctilio leporinus, dơi Myotis vivesi , cáo tuyết Vulpes lagopus thường kiếm miếng mồi bị gấu Bắc Cực giết, quần thể sói xám ven biển Canis lupus chủ yếu ăn cá hồi và xác động vật biển, cừu Ronaldsay Ovis aries ăn rong biển ngoài mùa sinh sản, rái cá Lutra lutra thường thấy ở vùng nước ngọt nhưng có thể xuất hiện dọc bờ biển Scotland,... cùng những loài khác.[3]
Tiến hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Thú biển là một nhóm đa dạng gồm 129 loài tồn tại dựa vào đại dương.[4][5] Thú biển là nhóm phân loại không chính thức với đặc trưng các loài phụ thuộc vào môi trường biển để kiếm ăn.[6] Bất chấp hình thái giải phẫu đa đạng giữa các loài trong nhóm, cải thiện hiệu quả kiếm ăn là động lực tiến hóa chính.[7][8] Mỗi loài phụ thuộc vào môi trường biển khác nhau đáng kể. Ví dụ, cá heo và cá voi hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường biển trong cả vòng đời; hải cẩu kiếm ăn trong đại dương nhưng sinh sản trên cạn; còn gấu trắng phải săn mồi trên cạn.[6]
Khoảng 50 triệu năm trước (mya), các loài cá voi trở thành động vật dưới nước.[9] Dựa theo nghiên cứu di truyền và hình thái học, cá voi nằm trong bộ Guốc chẵn Artiodactyla.[10][11] Thuật ngữ Cetartiodactyla ghép từ Cetacea (cá voi) và Artiodactyla để chỉ nhóm đơn ngành trong đó cá voi tiến hóa trong động vật móng guốc. Theo định nghĩa này, họ hàng gần nhất trên cạn của cá voi và cá heo được cho là hà mã.[12][13][14]
Bò biển Sirenia trở thành động vật thủy sinh khoảng 40 triệu năm trước. Hóa thạch Sirenia xuất hiện đầu tiên ở thế Thủy Tân, cho đến cuối thế thì các loài bò biển đã trở nên đa dạng hóa. Sống ở sông, cửa sông và vùng nước biển gần bờ, chúng có khả năng phát triển nhanh chóng. Loài bò biển nguyên thủy nhất †Prorastomus tìm thấy ở Jamaica[8] không giống như các loài thú biển khác có nguồn gốc từ Cựu Thế giới (như cá voi).[15] Sirenia bốn chân đầu tiên được biết đến là †Pezosiren sống vào đầu thời Trung Eocen.[16] Các loài bò biển sớm nhất được ghi nhận là thuộc họ †Prorastomidae và †Protosirenidae, đều nằm trong thế Thủy Tân, đó là những sinh vật lưỡng cư bốn chân, to cỡ con heo ngày nay.[17] Các loài đầu tiên trong họ Dugongidae xuất hiện vào Trung Eocen.[18] Khi ấy, bò biển đã hoàn toàn sống dưới nước.[17]
Thú chân vây tách ra từ các thú ăn thịt khác khoảng 50 triệu năm trước cũng vào thế Eocen. Mối liên hệ tiến hóa của chúng với thú trên cạn chưa được biết đến cho đến khi phát hiện ra †Puijila darwini năm 2007 trong trầm tích Tiền Miocen ở Nunavut, Canada. Hình dạng giống như rái cá hiện nay, †Puijila có đuôi dài, chi ngắn và chân vây thay vì chân chèo.[19] Tổ tiên Otariidae (hải cẩu có tai) và Odobenidae (hải mã) chia ra gần 28 triệu năm trước.[20] Nghiên cứu cho thấy Phocidae (hải cẩu không tai) đã tồn tại với ít nhất từ 15 triệu năm trước,[21] bằng chứng phân tử khác biệt giữa Monachinae (hải cẩu thầy tu) và Phocinae (hải cẩu bắc) khoảng 22 triệu năm trước.[20]
Bằng chứng hóa thạch cho thấy tổ tiên rái cá biển (Enhydra) được phân lập ở Bắc Thái Bình Dương khoảng hai triệu năm trước, dẫn đến loài †Enhydra macrodonta đã tuyệt chủng và loài rái cá biển hiện đại Enhydra lutris. Rái cá biển ban đầu phát triển ở phía bắc Hokkaidō và Nga, sau đó lan rộng về phía đông quần đảo Aleut, lục địa Alaska và bờ biển Bắc Mỹ. So với cá voi, bò biển và thú chân vây xuống môi trường nước lần lượt vào các thời điểm khoảng 50, 40 và 20 triệu năm trước, rái cá biển là sinh vật biển tương đối mới. Tuy vậy về một số mặt, rái cá biển thích nghi với môi trường nước hoàn toàn hơn thú chân vây là những loài phải lên đất liền hoặc mặt băng để sinh sản.[22]
Gấu Bắc Cực được cho là đã tách ra từ gấu nâu Ursus arctos, phân lập trong thời kỳ băng hà Thế Pleistocen[23] hoặc từ đông Siberia (bán đảo Kamchatka và Kolym).[24] Hóa thạch gấu Bắc Cực xưa nhất tìm được là xương hàm 130.000 đến 110.000 năm tuổi trên đảo Prins Karls Forland vào năm 2004. DNA ty thể (mtDNA) của gấu Bắc Cực phân tách khỏi gấu nâu khoảng 150.000 năm trước.[25] Hơn nữa khi dùng mtDNA đánh giá cho thấy một số nhánh gấu nâu có quan hệ họ hàng gần với gấu Bắc Cực hơn các loài gấu khác,[26] có nghĩa gấu Bắc Cực có thể không được tính là một loài chính thức theo khái niệm loài.[27]
Phân bố và sinh cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Thú biển phân bố rộng rãi trên toàn cầu, nhưng phân bố không đều và trùng hợp với năng suất (sinh học) các đại dương.[28] Số loài phong phú nhất ở quanh vĩ độ 40° cả hai bán cầu, tương ứng với sản lượng sơ cấp cao nhất quanh Bắc và Nam Mỹ, châu Phi, châu Á và Úc. Thú biển có dải phân bố tổng loài biến động cao. Hầu hết thú biển có dải phân bố tương đương hoặc nhỏ hơn 1/5 Ấn Độ Dương.[29] Sự khác biệt về độ lớn dải phân bố quan sát được là kết quả của những yêu cầu sinh thái khác nhau dành cho mỗi loài và khả năng thích ứng của chúng với nhiều điều kiện môi trường. Mức độ trùng lặp cao giữa sự phong phú của các loài động vật có vú biển và các khu vực môi trường chịu con người tác động là điều đáng lưu tâm.[4]
Hầu hết các loài thú biển có môi trường sống ở bờ biển, như hải cẩu và rái cá biển. Tuy nhiên, hải cẩu cũng đáp ứng với một số môi trường sống trên cạn, cả trong lục địa lẫn trên hải đảo. Tại vùng ôn đới và nhiệt đới, chúng lên những bãi biển đầy sỏi cát, bờ đá, bãi cạn, bãi bùn, bãi thủy triều và hang động biển. Một số loài còn chọn các cấu trúc nhân tạo để nghỉ ngơi như, như đê, cầu tàu, phao và giàn khoan dầu. Hải cẩu có thể di chuyển sâu hơn vào nội địa, nằm trên cồn cát và bãi cỏ, thậm chí bò lên được cả vách đá.[30] Gần như các loài thuộc bộ cá voi đều sống ở đại dương, những loài như cá nhà táng có thể lặn xuống độ sâu từ −1.000 đến −2.500 foot (−300 đến −760 m) để kiếm mồi.[31] Các loài bò biển sống ở vùng nước nông ven bờ, trong khoảng 30 foot (9,1 m) dưới mực nước biển. Tuy nhiên, chúng được ghi nhận là có thể lặn xuống −120 foot (−37 m) để ăn cỏ biển vùng nước sâu.[32] Rái cá biển sống trong các khu vực được bảo vệ, chẳng hạn như bờ đá, rừng tảo bẹ và rạn san hô,[33] dù chúng có thể sống trên băng trôi hoặc trong các vùng bùn, cát.[34]
Nhiều loài thú biển di cư theo mùa. Hàng năm, băng xuất hiện và biến mất khi thời tiết thay đổi. Hải cẩu di cư để đáp ứng với những thay đổi này. Đến lượt gấu Bắc Cực cũng phải chạy theo con mồi. Tại vịnh Hudson, vịnh James và một số khu vực khác, băng tan hết khi hè đến, buộc gấu Bắc Cực phải lên đất liền và chờ đợi trong nhiều tháng cho đến khi đợt đóng băng tiếp theo. Ở biển Chukotka và Beaufort, mỗi mùa hè gấu Bắc Cực lại rút xa hơn về phía bắc, nơi vẫn đóng băng quanh năm.[35] Hải cẩu cũng có thể di cư dựa theo những thay đổi môi trường khác, ví dụ El Niño, chúng đến đích nhờ các đặc tính môi trường như địa từ trường, dòng chảy và gió, vị trí mặt trời và mặt trăng, thành phần và nhiệt độ nước.[36] Cá voi tấm sừng nổi tiếng di cư khoảng cách rất xa vào vùng biển nhiệt đới để đẻ và nuôi con[37] để tránh bị cá voi sát thủ săn bắt.[38] Trong số các loài thú, cá voi xám được ghi nhận là có quãng đường di cư xa nhất, lên tới 14,000 dặm (22,531 km) từ biển Okhotsk đến bán đảo Baja California. [39] Trong mùa đông, lợn biển sinh sống tại đầu phía bắc dải di cư đến vùng nước ấm hơn.[40]
Thích nghi[sửa | sửa mã nguồn]

Thú biển có một số đặc điểm sinh lý và giải phẫu thích ứng với đặc điểm riêng phù hợp với đời sống dưới nước. Một số đặc điểm này trở thành điểm đặc trưng cho loài. Chúng có khả năng di chuyển hiệu quả nhờ cơ thể có hình dáng ngư lôi nhằm giảm lực cản; các chi biến đổi để đập nước và khả năng lái; thùy đuôi và vây lưng dùng để đẩy và giữ thăng bằng (ở cá voi).[41] Thú biển rất giỏi trong việc điều hòa thân nhiệt bằng lông hoặc lớp mỡ dày, điều chỉnh tuần hoàn (trao đổi nhiệt đối lưu); giảm thiểu phần phụ, và kích thước lớn để tránh thoát nhiệt.[42]
Thú biển có thể lặn lâu trong nước. Cả thú chân vây và cá voi đều có hệ thống mạch máu lớn và phức tạp, để đẩy một lượng lớn máu giàu myoglobin và hemoglobin, dự trữ được nhiều oxy hơn. Các bộ phận dự trữ quan trọng khác bao gồm cơ và lá lách chứa nồng độ oxy cao. Chúng cũng có khả năng làm chậm nhịp tim và co mạch máu (chuyển phần lớn oxy đến các cơ quan quan trọng như não và tim) để kéo dài thời gian lặn và đối phó với tình trạng thiếu oxy.[43] Khi thiếu dưỡng khí, thú biển có thể dùng đến nguồn dự trữ đáng kể glycogen hỗ trợ phân giải đường trong điều kiện không có oxy.[44][45][46]
Âm thanh lan truyền khác nhau trong nước nên thú biển đã phát triển khả năng thích nghi để đảm bảo giao tiếp hiệu quả, bắt mồi và phát hiện động vật săn mồi.[47] Sự thích nghi đáng chú ý nhất ở cá voi và cá heo là phát triển khả năng định vị bằng tiếng vang.[48] Cá voi có răng phát ra chùm âm thanh tiếng click cao tần tập trung dọc theo hướng đầu của nó. Âm thanh được tạo ra bằng cách truyền không khí từ xương mũi qua môi phát âm (phonic lips).[49] Phần sọ lõm đặc cùng túi khí đáy sọ phản xạ những âm thanh này. Chùm hội tụ được cơ quan chất béo lớn (melon) điều chỉnh, bằng các chất béo có mật độ khác nhau tạo nên một dạng giống như thấu kính âm thanh.[50][51]
Thú biển phát triển nhiều đặc điểm khác nhau để kiếm ăn, dễ thấy nhất là ở hàm răng. Ví dụ, răng hàm của thú chân vây và cá voi có răng được thích ứng để bắt cá và mực. Ngược lại, cá voi tấm sừng hàm lại tiến hóa tấm sừng hàm để lọc thức ăn là sinh vật phù du và cá nhỏ từ nước.[52]
Gấu trắng, rái cá và hải cẩu lông có bộ lông dài, nhiều dầu, không thấm nước để giữ không khí nhằm cách nhiệt. Ngược lại, các thú biển khác như cá voi, cá heo, lợn biển, bò biển và hải mã không còn bộ lông dài để nhường chỗ cho lớp biểu bì dày cùng lớp mỡ dày để ngăn lực cản chất lưu. Động vật chìm trong nước và tầng đáy (chẳng hạn như lợn biển) cần phải nặng hơn nước để chạm đáy hoặc lơ lửng được trong nước. Động vật trên mặt nước (chẳng hạn như rái cá biển) thì cần ngược lại, còn động vật bơi trong vùng nước tự do (chẳng hạn như cá heo) lại cần cân bằng để bơi lên và lặn xuống cột nước. Một số thú biển như gấu trắng và rái cá vẫn còn bốn chi chịu lực và di chuyển trên cạn giống như các động vật trên cạn hoàn toàn.[53]
Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]
Chế độ ăn[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các loài thú biển đều là động vật ăn thịt và săn mồi. Cá voi có răng chủ yếu ăn cá và động vật chân đầu, rồi đến giáp xác và thân mềm hai mảnh vỏ. Chúng có thể kiếm ăn với các loại động vật khác như loài cá voi khác hoặc một số loài thú chân vây.[54][55] Một cách thức kiếm ăn phổ biến là dồn ép, chúng kết hợp thành bầy để ép đàn cá phân nhỏ ra thành bait ball (cầu mồi). Sau đó, chúng thay phiên nhau chăn dắt quả cầu cá này và bắt những con cá bị choáng. Dồn quây (coralling) là cách thức cá heo đuổi cá vào vùng nước nông để bắt được dễ dàng hơn.[56] Cá voi sát thủ và cá heo mũi chai có cách lùa con mồi lên bãi biển để bắt. Cá voi sát thủ còn đánh lộn ngược cá mập trắng lớn, cá mập và cá đuối khác làm chúng tê liệt.[57][58] Các loài cá voi khác có mõm tù và răng thoái hóa dựa vào việc hút thức ăn (suction feeding).[59] Dù là loài ăn thịt, nhưng chúng có hệ vi sinh đường ruột giống như các loài ăn cỏ trên cạn, có lẽ là vết tích của tổ tiên ăn thực vật.[60]
Cá voi tấm sừng dùng tấm sừng hàm để sàng sinh vật phù du giữa các loài khác khỏi nước, có hai kiểu phương pháp: lunge-feeding và gulf-feeding. Cá voi lunge-feeding phồng miệng để mở rộng thể tích hàm lớn hơn ban đầu. Các rãnh trên cổ họng được mở rộng, gia tăng lượng nước có thể chứa trong miệng.[61][62] Chúng húc vào bait ball với tốc độ cao để ăn mồi, nhưng bait ball phải lớn thì cách làm này mới hiệu quả về mặt năng lượng.[63] Đối với gulf-feeding, cá voi bơi với miệng rộng mở để nước và con mồi lấp đầy vào. Số lượng con mồi phải đủ lớn thì cá voi mới bắt đầu quan tâm, cũng phải có kích cỡ lớn nhất định thì tấm sừng hàm mới lọc được cũng như đủ chậm để không thoát đi khỏi.[64]
Rái cá là loài động vật biển duy nhất có khả năng nâng và lật đá, chúng hay dùng chi trước làm vậy khi kiếm mồi. Rái cá biển có thể bắt ốc cùng các sinh vật khác từ tảo bẹ và đào sâu xuống bùn dưới nước để tìm nghêu.[65] Đây cũng là loài thú biển duy nhất bắt cá bằng hai chi trước chứ không dùng răng.[66] Dưới mỗi chi trước của rái cá biển có nếp gấp da kéo dài ngang ngực như một cái tú đựng thức ăn. Trong túi cũng có cục đá để rái cá đập vỡ vỏ trai sò, ví dụ điển hình về động vật sử dụng công cụ.[67] Rái cá biển ăn nằm ngửa nổi trên mặt nước, dùng chi trước xé thức ăn và đưa vào miệng.[68][69] Rái cá biển chủ yếu ăn động vật giáp xác và cá.[70]
Thú biển chủ yếu ăn cá và động vật chân đầu, rồi đến giáp xác và thân mềm hai mảnh vỏ, tiếp là động vật phù du và động vật máu nóng (như chim biển).[71] Hầu hết thú biển là các loài săn mồi nhất thời, chỉ một số là loài cân bằng chuyên hóa.[72] Chúng thường săn cá lẻ đàn, các loài không xương sống tại chỗ hoặc di chuyển chậm hoặc con mồi biến nhiệt khi tập hợp thành nhóm. Những cá thể săn mồi đơn lẻ thường khai thác vùng nước ven bờ, vịnh và sông. Khi gặp nhiều đàn cá hoặc mực ống lớn, thú biển phối hợp săn mồi theo nhóm lớn, xác định và lùa mồi. Một số loài như sư tử biển California và sư tử biển Nam Mỹ có thể phối hợp với cá voi và chim biển.[73]
Gấu Bắc cực là loài ăn thịt hàng đầu trong các loài gấu, con mồi chủ yếu là hải cẩu đeo vòng (Pusa hispida) và hải cẩu râu (Erignathus barbatus).[74] Gấu Bắc cực hiếm khi bắt hải cẩu trên cạn hoặc trong nước mà chủ yếu săn mồi ở nơi tiếp giáp băng, nước với không khí.[75] Cách thức gấu Bắc cực hay dùng nhất là săn lén con mồi:[76] Gấu dùng khứu giác xác định vị trí lỗ băng mà hải cẩu ngoi lên thở rồi nép xuống đợi đến khi con mồi xuất hiện. Khi hải cẩu lên thở, gấu đánh hơi được, dùng chi trước thò vào kéo con mồi lên mặt băng. Gấu Bắc cực cũng rình hải cẩu nằm trên băng. Khi phát hiện ra hải cẩu, gấu đi tới trong vòng 100 thước Anh (90 m), rồi nép xuống. Nếu con mồi không nhận ra, gấu bò tiếp vào khoảng cách 30 đến 40 foot (9 đến 10 m) rồi bất ngờ lao vào tấn công.[77] Cách săn mồi thứ ba là gấu tấn công trực tiếp vào hang tuyết của hải cẩu cái tạo ra khi sinh nở.[78] Gấu cũng có thể bắt cá ăn.[79]

Các loài Sirenia được gọi là "bò biển" vì chúng chủ yếu ăn cỏ biển. Bò biển ăn toàn bộ cỏ cả rễ, nhưng nếu không lấy được thì chỉ ăn lá.[80] Khi giải phẫu, người ta tìm thấy nhiều loại cỏ biển trong dạ dày bò biển, và phát hiện cả tảo khi cỏ biển khan hiếm.[81] Lợn biển Tây Ấn ăn tới 60 loài thực vật khác nhau, cả một ít cá và động vật không xương sống nhỏ.[82]
Loài chủ chốt[sửa | sửa mã nguồn]
Rái cá biển là ví dụ điển hình về loài chủ chốt; sự hiện diện của chúng ảnh hưởng đến hệ sinh thái hơn nhiều nếu so với kích thước và số lượng loài này. Chúng kiểm soát quần thể một số động vật ăn cỏ sống tầng đáy, đặc biệt là nhím biển. Nhím biển gặm thân dưới tảo bẹ khiến tảo bị trôi đi và chết mất. Mất môi trường sống và chất dinh dưỡng do rừng tảo bẹ cung cấp dẫn đến ảnh hưởng sâu sắc theo tầng với hệ sinh thái biển. Các khu vực Bắc Thái Bình Dương không có rái cá biển thường biến thành những bãi vô vàn cầu gai mà không có rừng tảo bẹ.[83] Việc thả rái cá biển trở lại British Columbia giúp cải thiện đáng kể hệ sinh thái ven biển.[84] Thực tế ghi nhận những thay đổi tương tự khi phục hồi các quần thể rái cá biển ở quần đảo Komandorski và bờ biển Big Sur của California. Tuy nhiên, một số hệ sinh thái rừng tảo bẹ ở California vẫn phát triển mạnh mà không hề có rái cá biển, có vẻ quần thể cầu gai bị những yếu tố khác kiểm soát. Hiện mới ghi nhận vai trò của rái cá biển trong việc duy trì rừng tảo bẹ ở vùng bờ quang tháng là quan trọng hơn so với ở các vịnh và cửa sông kín hơn.[85]
Động vặt săn mồi đỉnh chuỗi sẽ ảnh hưởng đến động lực phát triển quần thể con mồi cũng như chiến thuật phòng vệ của chúng (như ngụy trang).[86] Gấu Bắc Cực là thú săn mồi đỉnh chóp trong phạm vi hoạt động của mình.[87] Một số loài như cáo tuyết Bắc Cực (Vulpes lagopus) và mòng biển (Larus hyperboreus) là con mồi thường xuyên của gấu trắng.[88] Mối liên hệ giữa hải cẩu đeo vòng và gấu Bắc cực khăng khít đến mức số lượng hải cẩu dường như tác động đến mật độ số lượng gấu tại một số khu vực, ngược lại việc săn mồi của gấu lại điều chỉnh mật độ và tỷ lệ sinh sôi của hải cẩu.[75] Áp lực tiến hóa do bị săn bắt có lẽ là nguyên nhân dẫn đến một số khác biệt đáng kể giữa hải cẩu Bắc Cực và Nam Cực. Nam Cực là nơi không có động vật săn mồi lớn trên bề mặt băng. Mỗi cá thể hải cẩu Bắc Cực phải tạo nhiều lỗ thở hơn trên mặt băng, vùng vẫy hơn khi bị kéo lên và hiếm khi đại tiện trên băng. Bộ lông con non Bắc Cực có màu trắng, có lẽ là để ngụy trang, trong khi những con non Nam Cực đều có bộ lông sẫm.[88]
Cá hổ kình (cá voi sát thủ) là loài săn mồi đỉnh chuỗi trên khắp các vùng phân bố của chúng trên toàn cầu và có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi và quần thể con mồi. Thức ăn của chúng rất đa dạng như các loài động vật có xương sống ở đại dương gồm cá hồi,[89] cá đuối, cá mập (thậm chí cả cá mập trắng),[90][91] cá voi tấm sừng lớn,[92] khoảng 14 loài thú chân vây.[93] Việc cá hổ kình săn cá voi con có thể dẫn đến việc cá voi di cư hàng năm nhiều hơn đến các bãi đẻ nhiệt đới là nơi có ít quần thể cá hổ kình hơn so với vùng cực. Có thể trước đây cá voi là nguồn thức ăn chính của cá hổ kình nhưng sau khi số lượng suy giảm do săn bắt cá voi, cá hổ kình đã mở rộng chế độ ăn khiến các loài thú biển nhỏ hơn bị suy giảm theo.[38] Một số nhà khoa học tranh cãi về sự suy giảm số lượng rái cá biển ở quần đảo Aleut vào thập niên 1990 là do cá hổ kình săn bắt, dù không có bằng chứng trực tiếp. Rái cá biển giảm lại kéo theo hải cẩu cảng biển và sư tử biển Steller cũng giảm. Đây là hai con mồi ưa thích của cá hổ kình thay cho con mồi ban đầu bị giảm từ trước do ngành công nghiệp săn bắt cá voi.[94][95][96]
Whale pump[sửa | sửa mã nguồn]

Nghiên cứu năm 2010 coi cá voi có ảnh hưởng tích cực đến lượng cá trên đại dương, gọi là whale pump (n.đ. 'bơm cá voi'). Cá voi mang chất dinh dưỡng như nitơ từ đáy sâu trở lại mặt nước. Việc này giống như một bơm sinh học đẩy lên, ngược lại với giả định trước đó rằng cá voi đẩy nhanh quá trình đưa dinh dưỡng từ mặt nước xuống đáy. Xét đến lượng nitơ đầu vào ở vịnh Maine lớn hơn tổng lượng nitơ từ tất cả các con sông đổ vào vịnh, khoảng 23,000 tấn (25,353 tấn Mỹ) mỗi năm.[97] Cá voi bài tiết trên mặt nước; phân cá voi giàu sắt và nitơ nên rất quan trọng đối với sản lượng cá. Phân cá voi ở dạng lỏng nên không chìm xuống mà nổi trên bề mặt, làm thức ăn cho thực vật phù du.[97][98]
Sau khi chết, xác cá voi chìm xuống đáy đại dương, tạo ra môi trường sống đáng kể cho sinh vật biển. Bằng chứng hiện nay và các hồ sơ hóa thạch cho thấy xác cá voi dưới đáy biển sâu nuôi nấng một tập hợp sinh vật phong phú, tính đa dạng toàn cầu đến 407 loài, có thể so sánh với các điểm đa dạng sinh học ven bờ khác như Lỗ phun lạnh và Miệng phun thủy nhiệt.[99] Xác cá voi phân hủy diễn ra qua loạt ba giai đoạn. Trước tiên, các sinh vật di chuyển được như cá mập và cá mút đá myxin rỉa mô mềm rất nhanh trong khoảng từ vài tháng đến hai năm đổ lại. Tiếp đến là đến phần xương và trầm tích xung quanh (chứa chất hữu cơ) do các loài giáp xác và giun nhiều tơ thực hiện, kéo dài nhiều năm. Cuối cùng, vi khuẩn ưa sulfat phân giải xương giải phóng Hydro sulfide tạo điều kiện cho sinh vật hóa dưỡng phát triển, tạo môi trường cho các sinh vật khác như trai, sao sao và ốc biển. Giai đoạn này có thể kéo dài trong nhiều thập kỷ và tạo nên một tập hợp phong phú các loài, trung bình đến 185 loài trên mỗi địa điểm.[100]
Tương tác với con người[sửa | sửa mã nguồn]
Mối đe dọa[sửa | sửa mã nguồn]
Việc khảo sát quần thể còn gặp khó khăn nên 38% thú biển bị thiếu dữ liệu, đặc biệt là quanh vùng Nam Cực. Đến 70% thời gian qua chưa quan tâm được đến sự suy giảm quần thể các loài thú sống hoàn toàn ở biển.[29]
Khai thác[sửa | sửa mã nguồn]

Trong lịch sử, thổ dân ven biển săn bắt thú biển làm thức ăn và những việc khác. Những cuộc đánh bắt vì sinh kế này vẫn diễn ra ở Canada, Greenland, Indonesia, Nga, Hoa Kỳ và một số quốc gia vùng Caribe. Quy mô săn bắt tương đối nhỏ và chỉ có tác động cục bộ.[101] Săn bắn thương mại diễn ra trên quy mô lớn hơn nhiều, khai thác thú biển tới mức nặng nề. Việc này còn dẫn đến sự tuyệt chủng của bò biển Steller (Hydrodamalis gigas), chồn biển (Neogale macrodon), sư tử biển Nhật Bản (Zalophus japonicus) và hải cẩu thầy tu Caribe (Neomonachus tropicalis).[102] Ngày nay, quần thể các loài từng bị săn bắt đều nhỏ hơn nhiều so với trước khi khai thác, ví dụ như cá voi xanh (Balaenoptera musculus) và cá voi trơn Bắc Thái Bình Dương (Eubalaena japonica).[103] Vì tốc độ lớn của cá voi thường chậm, mất nhiều thời gian để thuần thục sinh dục và sinh sản ít nên quá trình phục hồi quần thể diễn ra rất chậm.[47]
Một số loài cá voi vẫn là đối tượng bị săn bắn trực tiếp, bất chấp lệnh cấm đánh bắt cá voi thương mại ra đời năm 1986 theo các điều khoản của Ủy ban Săn cá voi Quốc tế (International Whaling Commission - IWC). Chỉ còn lại hai quốc gia cho phép đánh bắt cá voi thương mại: Na Uy thu hoạch hàng trăm cá voi Minke mỗi năm còn Iceland quy định hạn ngạch 150 cá voi vây và 100 cá voi Minke mỗi năm.[104][105] Nhật Bản cũng đánh bắt vài trăm cá voi Minke ở Nam Cực và Bắc Thái Bình Dương mỗi năm, lách lệnh cấm bằng hình thức dùng để nghiên cứu khoa học.[103] Ở Nhật Bản và một số quốc gia, thị trường buôn bán bất hợp pháp thịt cá voi và cá heo vẫn có vị trí quan trọng.[106]

Rái cá biển đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngành bán lông thú biển, đặc biệt là rái cá biển phương bắc sinh sống ở vùng nước ven biển giữa Sông Columbia phía nam và Cook Inlet phía bắc. Lông rái cá biển nam California vốn không được đánh giá cao bằng nên đem lại lợi nhuận ít hơn. Nhưng đến khi rái cá biển phương bắc bị săn bắt đến tuyệt chủng cục bộ, thợ săn quay sang với rái cá biển phương nam khiến chúng cũng gần như tuyệt chủng.[107] Những kẻ buôn bán mặt hàng lông thú biển của Anh và Mỹ nhóm thành bang hội đưa hàng đến cảng Quảng Châu. Lông thú từ Mỹ thuộc Nga chủ yếu được bán sang Trung Quốc thông qua điểm giao thương Kyakhta tại Mông Cổ, đây là điểm mở cửa thương mại với Nga theo Hiệp ước Kyakhta năm 1727.[108]
Trong lịch sử, đánh bắt hải cẩu cũng quan trọng tương đương với đánh bắt cá voi. Các loài bị khai thác có thể kể như hải cẩu Greenland, hải cẩu mào, hải cẩu Caspi, hải tượng, hải mã và tất cả hải cẩu lông mao.[109] Quy mô đánh bắt hải cẩu giảm đáng kể sau thập niên 1960,[110] sau khi chính phủ Canada giảm thời gian mùa đánh bắt và đưa ra biện pháp bảo vệ những cá thể cái trưởng thành.[111] Số lượng một số loài bị đánh bắt thương mại đã tăng trở lại, ví dụ như hải cẩu lông ở Nam Cực có thể còn đông đảo như trước khi đánh bắt. Hải tượng phương Bắc bị săn bắt đến gần như tuyệt chủng vào cuối thế kỷ 19, chỉ còn lại một quần thể nhỏ trên đảo Guadalupe. Sau đó, chúng được thả lại trong các vùng phân bố trước đây, nhưng vẫn bị thắt cổ chai quần thể.[112] Ngược lại, hải cẩu thầy tu Địa Trung Hải đã bị tuyệt chủng khỏi phần lớn vùng phân bố trước đây vốn trải dài từ Địa Trung Hải đến Biển Đen và Tây Bắc châu Phi, giờ chỉ tồn tại ở Đông Bắc Địa Trung Hải và một số vùng Tây Bắc châu Phi.[113]
Tại Canada cho phép dùng gấu bắc cực trong săn bắn chiến phẩm nếu có giấy phép đặc biệt và hướng dẫn viên bản địa đi cùng. Đây có thể là nguồn thu nhập quan trọng đối với các cộng đồng bản địa nhỏ, vì cuộc săn có hướng dẫn mang lại thu nhập nhiều hơn so với bán hàng da gấu bắc cực. Hoa Kỳ, Nga, Na Uy, Greenland và Canada cho phép hình thức săn bắn này. Canada phát giấy phép săn bắn cho các cộng đồng bản địa, họ có thể bán các giấy phép này và đây là nguồn thu nhập chính. Da thú săn được có thể được mang về tiêu dùng, giữ lại làm chiến lợi phẩm hoặc bán ra thị trường.[114][115]
Giao thông và đánh cá trên biển[sửa | sửa mã nguồn]

Vô tình mắc lưới hay đánh bắt nhầm (bycatch) trong nghề cá chỉ về các loài không phải đối tượng đánh bắt. Lưới rê cố định và lưới rê trôi gây ra tỷ lệ tử vong cao nhất cho cả các loài cá voi lẫn thú chân vây. Tình trạng vướng phải các loại lưới rê cũng rất phổ biến.[116] Lưới vây cá ngừ là vấn đề nghiêm trọng làm cá heo vướng vào.[117] Việc vô tình mắc phải tác động lên tất cả các loài thú biển lớn nhỏ trong các môi trường khác nhau. Tuy nhiên, các loài cá voi và thú chân vây loại nhỏ dễ gặp nguy hơn do kích cỡ khiến chúng khó thoát ra khi bị vướng vào, thường chúng sẽ bị chết ngộp. Dù những con cá voi lớn có thể kéo theo cả lưới, nhưng lưới thường vướng chặt vào cơ thể chúng, ngăn cản chúng kiếm mồi, có khi dẫn đến chết đói.[103] Lưới, dây bị tuột hoặc vứt bỏ khi không dùng có thể gây tử vong do thú biển nuốt hay vướng phải.[118] Thú biển có thể bị vướng vào lưới nuôi trồng thủy sản nhưng cũng chỉ là hi hữu nên không đủ phổ biến đến mức tác động được lên quần thể của chúng.[119]
Va chạm với tàu biển khiến một số thú biển tử vong, đặc biệt là cá voi.[103] Đặc biệt, các tàu thương mại chạy nhanh như tàu container có thể gây thương tích nghiêm trọng hoặc tử vong khi va chạm với thú biển. Tàu thương mại lớn và thuyền giải trí đều có va chạm và gây thương tích cho cá voi hoặc các loài nhỏ hơn cùng bộ. Các vụ va chạm với tàu thuyền đặc biệt ảnh hưởng đến cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương.[120] Thuyền du lịch được thiết kế để ngắm cá heo và cá voi cũng có thể tác động tiêu cực vì can thiệp tới hành vi tự nhiên của chúng.[121]
Đánh bắt cá không chỉ đe dọa thú biển khi vô tình vướng lưới mà còn lấy mất thức ăn của chúng. Đánh bắt quy mô lớn dẫn đến cạn kiệt nguồn cá vốn là con mồi quan trọng của thú biển. Thú chân vây bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi mất đi nguồn cung cấp thức ăn trực tiếp là cá, bao gồm cả việc thiếu đói hay ăn uống thiếu chất,[122] con non bị chết đói và số lượng vào quần thể ít đi.[123] Khi nguồn cá cạn kiệt, đôi lúc sẽ dẫn đến cạnh tranh giữa thú biển cần thức ăn với sản lượng khai thác trong nghề cá. Ngư dân đánh bắt thương mại ở một số nơi có thể tiêu diệt thú biển với quy mô lớn nhằm bảo vệ nguồn cá để khai thác.[124]
Chăn nuôi thủy sản có vỏ cần không gian lớn nên tạo ra sự cạnh tranh với thú biển. Tuy vậy, đây không phải con mồi của thú biển nên không có cạnh tranh trực tiếp đến sản lượng thu hoạch.[125] Nhưng thú biển thường xuyên bắt cá có vây từ trại nuôi, đây là vấn đề lớn đối với người nuôi trồng. Tuy có những cơ chế ngăn chặn như lưới chống thú săn hay thiết bị đuổi nhưng chúng vẫn thường bị bắn bất hợp pháp.[119]
Mất và suy thoái môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Các hoạt động của con người làm suy thoái môi trường sống của thú biển. Thú biển ở ven bờ nhiều khả năng bị ảnh hưởng do suy thoái cho đến mất môi trường sống. Trong quá trình phát triển, những việc như xả nước thải ra biển, neo đậu, nạo vét, nổ mìn, thải rác thải, xây dựng cảng, dự án thủy điện và nuôi trồng thủy sản đều làm suy giảm môi trường và lấy mất môi trường sống của chúng.[126] Chẳng hạn như việc mở rộng nuôi thủy sản có vỏ lấy đi không gian ven bờ nơi diễn ra các hoạt động quan trọng của thú biển như như sinh sản, kiếm ăn và nghỉ ngơi.[127]
Các chất gây ô nhiễm được thải ra biển sẽ tích tụ trong cơ thể thú biển. Những chất ô nhiễm được tìm thấy trong mô thú biển như kim loại nặng (thủy ngân và chì), ngoài ra còn có Clorua hữu cơ và các Hydrocarbon thơm đa vòng.[128] Những chất này có thể tác động phá vỡ hệ nội tiết;[118] tác động lên hệ sinh sản và suy giảm hệ miễn dịch, khiến gia tăng số lượng tử vong.[128] Các chất ô nhiễm khác như dầu, nhựa hay nước thải đều đe dọa đến hoạt động kiếm ăn của thú biển.[129]
Hoạt động của con người gây ra ô nhiễm tiếng ồn là vấn đề lớn khác cho thú biển, cản trở chúng giao tiếp với nhau cũng như không xác định được vị trí con mồi hoặc thú săn.[130] Các vụ nổ dưới nước được tiến hành cho nhiều mục đích khác nhau như quân sự, xây dựng và nghiên cứu hải dương học hoặc địa vật lý. Chúng có thể gây ra tổn thương như xuất huyết phổi, nhiễm trùng và loét đường tiêu hóa cho thú biển.[103] Tiếng ồn dưới nước được tạo ra từ vận tải biển, công nghiệp dầu khí, nghiên cứu, sonar cho quân sự và thử nghiệm âm thanh hải dương học. Các cơ sở nuôi trồng thủy sản xua đuổi thú biển bằng những thiết bị quấy rối và ngăn chặn âm thanh phát ra âm thanh lớn và độc hại trong môi trường dưới nước.[131]
Các hoạt động của con người tác động lên bầu khí quyển tạo ra hai thay đổi đe dọa đến thú biển. Thứ nhất là bức xạ tử ngoại gia tăng do suy giảm tầng ozon, ảnh hưởng chủ yếu đến vùng Nam Cực và những khu vực ở Nam Bán cầu.[132] Bức xạ tử ngoại gia tăng có thể làm suy giảm hệ thực vật phù du vốn giữ vai trò nền tảng tạo thành chuỗi thức ăn trong đại dương.[133] Tác động thứ hai của biến đổi khí hậu là sự ấm lên toàn cầu do nồng độ carbon dioxide trong khí quyển tăng lên. Mực nước biển dâng cao, nhiệt độ nước biển tăng và dòng chảy thay đổi dự kiến sẽ ảnh hưởng đến các loài thú biển khi phân bố lại những loài săn mồi quan trọng, nơi sinh sản và tuyến hành trình di cư.[134] Sự tuyệt chủng hoặc di cư của gấu trắng sẽ khiến chuỗi thức ăn ở Bắc Cực bị gián đoạn. Băng Bắc Cực là môi trường sống của gấu trắng. Lượng băng còn lại suy giảm với tốc độ 13% mỗi thập kỷ vì nhiệt độ tăng nhanh gấp đôi so với thế giới.[87][135] Với tốc độ tan băng hiện tại thì đến năm 2050, 2/3 số gấu Bắc Cực trên toàn thế giới sẽ biến mất.[136]
Nghiên cứu của các nhà sinh vật học tiến hóa tại Đại học Y Pittsburgh đã chỉ ra rằng tổ tiên của nhiều loài thú biển đã ngừng sản xuất một loại enzyme mà ngày nay có thể tác dụng bảo vệ cơ thể khỏi những độc tố thần kinh như hợp chất cơ phospho,[137] gồm cả những chất có trong thuốc trừ sâu chlorpyrifos và diazinon đang được sử dụng rộng rãi.[138]
Bảo vệ[sửa | sửa mã nguồn]

Luật bảo vệ thú biển năm 1972 (tiếng Anh: Marine Mammal Protection Act - MMPA) được thông qua ngày 21 tháng 10 năm 1972 dưới thời tổng thống Richard Nixon[139] nhằm ngăn chặn tốc độ cạn kiệt và khả năng tuyệt chủng các loài thú biển.[140] Luật nghiêm cấm việc lấy ("hành động săn, giết, bắt và/hoặc quấy rối bất kỳ loài thú biển nào; hoặc nỗ lực như vậy") bất kỳ thú biển nào mà không có giấy phép do Bộ trưởng cấp.[141] Thẩm quyền quản lý MMPA được phân chia giữa Bộ trưởng Nội vụ thông qua Cục Cá và Động vật hoang dã (United States Fish and Wildlife Service - FWS) và Bộ trưởng Thương mại ủy quyền cho Cục Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia (National Oceanic and Atmospheric Administration - NOAA). Ủy ban Thú biển (Marine Mammal Commission - MMC) được thành lập để xem xét các chính sách hiện có và đưa ra các khuyến nghị cho FWS và NOAA để thi hành MMPA tốt hơn. FWS chịu trách nhiệm bảo vệ rái cá biển, hải mã, gấu bắc cực, ba loài lợn biển và bò biển; còn NOAA được giao trách nhiệm bảo tồn và quản lý các loài thú chân vây (không bao gồm hải mã) và cá voi.[142]
Ngày 1 tháng 1 năm 2016, Luật được cập nhật thêm điều khoản cấm "nhập khẩu cá từ nghề cá mà không chứng minh được về sự đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ thú biển của Hoa Kỳ". Yêu cầu bắt buộc các nước xuất khẩu cá sang Hoa Kỳ phải chứng minh đáp ứng được những tiêu chuẩn bảo vệ, từ đó kiểm soát chặt chẽ nghề cá của mình đảm bảo rằng không có loài thú biển nào nằm trong danh mục bị ảnh hưởng xấu do việc đánh bắt.[143]
Công ước bảo tồn động vật hoang dã di cư năm 1979 (Conservation of Migratory Species of Wild Animals - CMS) là tổ chức toàn cầu duy nhất bảo tồn nhiều loại động vật trong đó có thú biển.[144][145]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Jefferson, Leatherwood & Webber 1994, tr. 1–2.
- ^ a b c Perrin, William F.; Baker, C. Scott; Berta, Annalisa; Boness, Daryl J.; Brownell Jr., Robert L.; Domning, Daryl P.; Fordyce, R. Ewan; Srembaa, Angie; Jefferson, Thomas A.; Kinze, Carl; Mead, James G.; Oliveira, Larissa R.; Rice, Dale W.; Rosel, Patricia E.; Wang, John Y.; Yamada, Tadasu biên tập (2014). “The Society for Marine Mammalogy's Taxonomy Committee List of Species and subspecies” (PDF). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2016.
- ^ Parsons và đồng nghiệp 2013, tr. 1-10.
- ^ a b c Kaschner và đồng nghiệp 2011, tr. e19653.
- ^ Pompa, Ehrlich & Ceballos 2011, tr. 13600–13605.
- ^ a b Jefferson, Webber & Pitman 2009, tr. 7–16.
- ^ Uhen 2007, tr. 514–522.
- ^ a b Savage, Domning & Thewissen 1994, tr. 427–449.
- ^ Castro & Huber 2005, tr. 192.
- ^ Geisler & Uden 2005, tr. 145–160.
- ^ Graur & Higgins 1994, tr. 357–364.
- ^ Agnarsson & May-Collado 2008, tr. 964–985.
- ^ Price, Bininda-Emonds & Gittleman 2005, tr. 445–473.
- ^ Montgelard, Catzeflis & Douzery 1997, tr. 550–559; Spaulding, O'Leary & Gatesy 2009, tr. e7062.
- ^ Thewissen & Bajpai 2001, tr. 1037–1049.
- ^ Domning 2001, tr. 625–627.
- ^ a b Prins & Gordon 2014, tr. 123.
- ^ Samonds và đồng nghiệp 2009, tr. 1233–1243.
- ^ Rybczynski, Dawson & Tedford 2009, tr. 1021–1024.
- ^ a b Arnason và đồng nghiệp 2006, tr. 345–354.
- ^ Perrin, Würsig & Thewissen 2009, tr. 861–866.
- ^ Love 1992, tr. 4–16.
- ^ DeMaster & Stirling 1981, tr. 1–7.
- ^ Kurtén 1964, tr. 1–30.
- ^ Lindqvist và đồng nghiệp 2010, tr. 5053–5057.
- ^ Waits và đồng nghiệp 2008, tr. 408–417.
- ^ Marris 2007, tr. 250–253.
- ^ Berta & Sumich 1999, Exploitation and conservation.
- ^ a b Schipper và đồng nghiệp 2008, tr. 225–230.
- ^ Riedman 1990, tr. 96.
- ^ Whitehead 2003, tr. 79.
- ^ Marsh và đồng nghiệp 2002, tr. 7.
- ^ Silverstein, Silverstein & Silverstein 1995, tr. 19.
- ^ Kenyon 1975, tr. 133.
- ^ Stirling & Guravich 1988, tr. 61.
- ^ Riedman 1990, tr. 256–257.
- ^ Lockyer & Brown 1981, tr. 111.
- ^ a b Perrin, Würsig & Thewissen 2009, tr. 360.
- ^ Lee, Jane J. (2015). “A Gray Whale Breaks The Record For Longest Mammal Migration” [Cá voi xám phá kỷ lục thú di cư xa nhất]. National Geographic (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2022.
- ^ Deutsch, C.J.; Self-Sullivan, C.; Mignucci-Giannoni, A. (2008). “Trichechus manatus”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2008: e.T22103A9356917.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 63.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 183.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 319.
- ^ Hochachka & Storey 1975, tr. 613–621.
- ^ Lockyer, Christina (1991). “Body composition of the sperm whale, Physeter cation, with special reference to the possible functions of fat depots” [Thành phần cơ thể cá nhà táng Physeter cation liên quan đặc biệt đến các chức năng khả dĩ của dự trữ chất béo] (PDF). Journal of the Marine Research Institute (bằng tiếng Anh). 12 (2). ISSN 0484-9019.
- ^ a b Whitehead, Reeves & Tyack 2000, tr. 317-318.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 381.
- ^ Cranford 2000, tr. 112.
- ^ Cranford 2000, tr. 121.
- ^ Nummela và đồng nghiệp 2007, tr. 716–733.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 449.
- ^ Reidenberg 2007, tr. 507–513.
- ^ Riedman 1990, tr. 169.
- ^ IUCN 1991, tr. 176.
- ^ Perrin, Würsig & Thewissen 2009, tr. 570–572.
- ^ Wang, Payne & Thayer 1994, tr. 56–57.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 430.
- ^ Sanders và đồng nghiệp 2015, tr. 8285.
- ^ Vogle và đồng nghiệp 2015, tr. 360–361.
- ^ Goldbogen 2010, tr. 124–131.
- ^ Goldbogen và đồng nghiệp 2011, tr. 131–146.
- ^ Perrin, Würsig & Thewissen 2009, tr. 806–813.
- ^ Reitherman, Bruce (Producer and photographer) (1993). Waddlers and Paddlers: A Sea Otter Story–Warm Hearts & Cold Water [Waddlers và Paddlers: Chuyện rái cá biển – Lòng ấm & Nước lạnh] (Phim tài liệu) (bằng tiếng Anh). U.S.A.: PBS.
- ^ Nickerson 1989, tr. 21.
- ^ Haley 1986, tr. 257.
- ^ VanBlaricom 2001, tr. 22, 33, 69.
- ^ “Sea otter (Enhydra lutris)” [Rái cá biển (Enhydra lutris)] (bằng tiếng Anh). BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2007.
- ^ Mangel và đồng nghiệp 2010, tr. 14–25.
- ^ Riedman 1990, tr. 145.
- ^ MacDonald 2001, tr. 147–155.
- ^ Riedman 1990, tr. 148.
- ^ “Arctic Bears” [Gấu bắc cực]. PBS Nature (bằng tiếng Anh). 17 tháng 2 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2008.
- ^ a b Amstrup, Marcot & Douglas 2007, tr. 3.
- ^ Hemstock 1999, tr. 24–27.
- ^ Matthews, Downs (1993). Polar Bear [Gấu Bắc cực] (bằng tiếng Anh). San Francisco: Chronicle Books. ISBN 978-0-8118-0204-8. OCLC 488971350.
- ^ Hemstock 1999, tr. 27.
- ^ Dyck & Romberg 2007, tr. 1625–1628.
- ^ Marsh, O'Shea & Reynolds III 2012, tr. 112.
- ^ Marsh 1989, tr. 9-10.
- ^ Allen & Keith 2015, tr. 95–104.
- ^ Estes và đồng nghiệp 1998, tr. 473–476.
- ^ “Sea Otter” [Rái cá biển] (bằng tiếng Anh). Fisheries and Oceans Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2007.
- ^ VanBlaricom 2001, tr. 22, 23, 69.
- ^ Lepak, Kraft & Weidel 2006, tr. 569–575.
- ^ a b Lunn và đồng nghiệp 2016, tr. 1302–1320.
- ^ a b Stirling & Guravich 1988, tr. 27.
- ^ Barre, Norberg & Wiles 2005, tr. 18.
- ^ Pyle và đồng nghiệp 1999, tr. 563–568.
- ^ Visser 2005, tr. 83–88.
- ^ Ford & Reeves 2008, tr. 50–86.
- ^ Jefferson, Stacey & Baird 1991, tr. 151-180.
- ^ Springer 2003, tr. 12223–12228.
- ^ Demaster và đồng nghiệp 2006, tr. 329–342.
- ^ Estes và đồng nghiệp 2009, tr. 1647–1658.
- ^ a b c Roman & McCarthy 2010, tr. e13255.
- ^ Roman và đồng nghiệp 2014, tr. 377–385.
- ^ Smith & Baco 2003, tr. 311–354.
- ^ Fujiwara và đồng nghiệp 2007, tr. 219–230.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 600.
- ^ Berta, Sumich & Kovacs 2015, tr. 640.
- ^ a b c d e Clapham, Young & Brownell 1999, tr. 37–62.
- ^ “History of Whaling” [Lịch sử đánh bắt cá voi] (bằng tiếng Anh). The Húsavík Whale Museum. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Modern Whaling” [Đánh bắt cá voi hiện đại] (bằng tiếng Anh). The Húsavík Whale Museum. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2010.
- ^ Baker, Cipriano & Palumbi 1996, tr. 671–685.
- ^ Harrison, John (2008). “Fur trade” [Kinh doanh lông thú] (bằng tiếng Anh). Northwest Power & Conservation Council. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2023.
- ^ Haycox 2002, tr. 53–58.
- ^ Riedman 1990, tr. 113.
- ^ Perrin, Würsig & Thewissen 2009, tr. 585–588.
- ^ Beckman 2012, tr. 315.
- ^ Riedman 1990, tr. 112.
- ^ Johnson, W. M.; Karamanlidis, A. A.; Dendrinos, P.; de Larrinoa, P. F.; Gazo, M.; González, L. M.; Güçlüsoy, H.; Pires, R.; Schnellmann, M. “Monk Seal Fact Files” [Hồ sơ thực tế hải cẩu thầy tu]. monachus-guardian.org. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
- ^ Wiig, Ø.; Amstrup, S.; Atwood, T.; Laidre, K.; Lunn, N.; Obbard, M.; Regehr, E.; Thiemann, G. (2015). “Ursus maritimus”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2015: e.T22823A14871490.
- ^ “Overharvest” [Thu hoạch quá mức] (bằng tiếng Anh). Polar Bears International. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2016.
- ^ Grose, Reeves & Leatherwood 1994, tr. 18-40.
- ^ Hall 1998, tr. 1–34.
- ^ a b Anderson 2001, tr. 623–629.
- ^ a b Stickney & McVey 2002, tr. 49.
- ^ Conn & Silber 2013, tr. art43.
- ^ Constantine, Brunton & Dennis 2004, tr. 299–307.
- ^ Rosen & Trites 2000, tr. 1243–1250.
- ^ McAlpine, Stevick & Murison 1999, tr. 906–911.
- ^ Hutchins 1996, tr. 943–962.
- ^ Stickney & McVey 2002, tr. 46.
- ^ Whitehead, Reeves & Tyack 2000, tr. 315.
- ^ Stickney & McVey 2002, tr. 47.
- ^ a b Whitehead, Reeves & Tyack 2000, tr. 316.
- ^ Baker và đồng nghiệp 1981, tr. 311–321.
- ^ Harwood 2001, tr. 630–640.
- ^ Stickney & McVey 2002, tr. 51.
- ^ Whitehead, Reeves & Tyack 2000, tr. 318.
- ^ Madronich và đồng nghiệp 1998, tr. 5–19.
- ^ Simmonds & Isaac 2007, tr. 19.
- ^ Stirling, Lunn & Iacozza 1999, tr. 294–306.
- ^ Amstrup, Marcot & Douglas 2008, tr. 213–268.
- ^ Zimmer, Carl (9 tháng 8 năm 2018). “Marine Mammals Have Lost a Gene That Now They May Desperately Need” [Thú biển đã mất một gen rất cần giờ đây]. The New York Times (bằng tiếng Anh).
- ^ Meyer và đồng nghiệp 2018, tr. 591–594.
- ^ Benson 2010, tr. 147.
- ^ Act 1972, tr. 5.
- ^ Act 1972, tr. 10.
- ^ Act 1972, tr. 7.
- ^ Wicker, Alden (15 tháng 12 năm 2016). “A new law will try to save the planet's whales and dolphins through America's seafood purchasing power” [Luật mới sẽ ra sức cứu cá voi và cá heo thông qua sức mua hải sản của Mỹ]. Quartz (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Convention on the Conservation of Migratory Species of Wild Animals” [Công ước bảo tồn động vật hoang dã di cư] (PDF) (bằng tiếng Anh). 1979. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
- ^ “CMS” (bằng tiếng Anh). Convention on the Conservation of Migratory Species of Wild Animals. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Sách
- Amstrup, Steven C.; Marcot, Bruce G.; Douglas, David C. (2007). Forecasting the range-wide status of polar bears at selected times in the 21st Century [Dự báo tình trạng gấu Bắc cực trên diện rộng tại các mốc đã chọn trong thế kỷ 21] (PDF) (bằng tiếng Anh). Reston, Virginia: U.S. Geological Survey. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2022.
- Amstrup, S. C.; Marcot, B. G.; Douglas, D. C. (2008). DeWeaver, Eric L.; Bitz, Cecilia M.; Tremblay, L.-Bruno (biên tập). Arctic Sea Ice Decline: Observations, Projections, Mechanisms, and Implications: A Bayesian Network Modeling Approach to Forecasting the 21st Century Worldwide Status of Polar Bears [Sự suy giảm băng ở biển Bắc Cực: Quan sát, dự đoán, cơ chế và ý nghĩa: Phương pháp tiếp cận mô hình mạng Bayesian để dự báo tình trạng gấu Bắc Cực toàn cầu trong thế kỷ 21] (PDF). Arctic Sea Ice Decline: Observations. Arctic Sea Ice Decline: Observations, Projections, Mechanisms, and Implications (bằng tiếng Anh). 180. Bibcode:2008GMS...180..213A. doi:10.1029/180GM14. ISBN 9781118666470.
- Barre, Lynne M.; Norberg, J. B.; Wiles, Gary J. (2005), Conservation Plan for Southern Resident Killer Whales (Orcinus orca) [Kế hoạch bảo tồn cá voi sát thủ cư trú phía Nam (Orcinus orca)] (PDF) (bằng tiếng Anh), Seattle: National Marine Fisheries Service (NMFS) Northwest Regional Office, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2008, truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2023
- Beckman, Daniel W. (2012), Marine Environmental Biology and Conservation [Bảo tồn và sinh học môi trường Biển] (bằng tiếng Anh), Jones & Bartlett Publishers, ISBN 978-0-7637-7350-2, OCLC 613421445
- Benson, Etienne (2010). Wired Wilderness: Technologies of Tracking and the Making of Modern Wildlife [Vùng hoang dã giăng dây: Công nghệ theo dõi và tạo ra động vật hoang dã hiện đại] (bằng tiếng Anh). Johns Hopkins University Press. ISBN 978-0-8018-9710-8. OCLC 502874368.
- Berta, A; Sumich, J. L. (1999), “Exploitation and conservation”, Marine Mammals: Evolutionary Biology [Thú biển: Sinh học tiến hóa] (bằng tiếng Anh), San Diego: Academic Press, ISBN 978-0-12-093225-2, OCLC 42467530
- Berta, Annalisa; Sumich, James L.; Kovacs, Kit M. (2015), Marine Mammals: Evolutionary Biology [Thú biển: Sinh học tiến hóa] (bằng tiếng Anh), London: Academic Press, ISBN 978-0-12-397257-6, OCLC 905649783
- Castro, Peter; Huber, Michael E. (2005), Marine Biology [Sinh học biển] (bằng tiếng Anh), Boston: McGraw-Hill, ISBN 978-0-07-302819-4
- Constantine, R.; Brunton, D. H.; Dennis, T. (2004). “Dolphin-watching tour boats change bottlenose dolphin (Tursiops truncatus) behaviour” [Thuyền du lịch ngắm cá heo thay đổi hành vi của cá heo mũi chai (Tursiops truncatus)]. Biological Conservation (bằng tiếng Anh). 117 (3). doi:10.1016/j.biocon.2003.12.009.
- Cranford, T. W. (2000), Au, W. W. L.; Popper, A. N.; Fay, R. R. (biên tập), Hearing by Whales and Dolphins [Thính giác cá voi và cá heo], Springer Handbook of Auditory Research (bằng tiếng Anh), New York: Springer-Verlag, ISBN 978-1-4612-7024-9, OCLC 840278009
- Grose, Kevin; Reeves, Randall R.; Leatherwood, Stephen biên tập (1994), Dolphins, porpoises, and whales: 1994–1998 action plan for the conservation [Cá heo, cá heo chuột và cá voi: kế hoạch hành động bảo tồn 1994–1998] (bằng tiếng Anh), IUCN, ISBN 9782831701899
- Haley, Delphine biên tập (1986), Marine Mammals of Eastern North Pacific and Arctic Waters [Thú biển Đông Bắc Thái Bình Dương và biển Bắc Cực] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 2), Seattle, Washington: Pacific Search Press, ISBN 978-0-931397-14-1, OCLC 13760343
- Haycox, Stephen W. (2002). Alaska: An American Colony [Alaska: Thuộc địa Mỹ] (bằng tiếng Anh). University of Washington Press. ISBN 978-0-295-98249-6. OCLC 49225731.
- Hemstock, Annie Wendt (1999), The Polar Bear [Gấu Bắc cực] (bằng tiếng Anh), Mankato, Minnesota: Capstone Press, ISBN 978-0-7368-0031-0, OCLC 38862448
- IUCN (1991), Dolphins, Porpoises and Whales of the World: The IUCN Red Data Book [Cá heo, cá heo chuột và cá voi trên thế giới: Sách đỏ IUCN] (bằng tiếng Anh), NY: Columbia University Press, ISBN 9782880329365, OCLC 24110680
- Jefferson, T. A.; Leatherwood, S.; Webber, M. A. (1994), Marine Mammals of the World [Thú biển trên thế giới] (bằng tiếng Anh), Food and Agriculture Department of the United Nations, ISBN 978-92-5-103292-3, OCLC 30643250
- Jefferson, T. A.; Webber, M. A.; Pitman, R. L. (2009), Marine Mammals of the World: A Comprehensive Guide to their Identification [Thú biển thế giới: Hướng dẫn nhận dạng toàn diện] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 1), London: Academic Press, ISBN 978-0-12-383853-7, OCLC 326418543
- Kenyon, Karl W. (1975), The Sea Otter in the Eastern Pacific Ocean [Rái cá biển ở Đông Thái Bình Dương] (bằng tiếng Anh), New York: Dover Publications, ISBN 978-0-486-21346-0, OCLC 1504461
- Lockyer, C. J. H.; Brown, S. G. (1981), Aidley, D. (biên tập), Animal Migration [Động vật di cư] (bằng tiếng Anh), CUP Archive, ISBN 978-0-521-23274-6
- Love, John A. (1992), Sea Otters [Rái cá biển] (bằng tiếng Anh), Golden, Colorado: Fulcrum Publishing, ISBN 978-1-55591-123-2, OCLC 25747993
- MacDonald, David Whyte biên tập (2001), The Encyclopedia of Mammals [Bách khoa thư động vật có vú] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-7607-1969-5, OCLC 48048972
- Marsh, Helene (1989), “Dugongidae” (PDF), trong Walton, Dan W.; Richardson, Barry John (biên tập), Fauna of Australia [Hệ động vật Úc] (bằng tiếng Anh), 1, Canberra: Australian Government Public Service, ISBN 978-0-644-06056-1, OCLC 27492815, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2013, truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023
- Marsh, Helene; Eros, Carole; Hugues, Joanna; Penrose, Helen (2002), Dugong: status reports and action plans for countries and territories [Bò biển: báo cáo hiện trạng và kế hoạch hành động cho các quốc gia và vùng lãnh thổ] (PDF) (bằng tiếng Anh), International Union for Conservation of Nature, ISBN 978-92-807-2130-0, OCLC 51040880, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2022, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2022
- Marsh, Helene; O'Shea, Thomas J.; Reynolds III, John E. (2012), Ecology and Conservation of the Sirenia: Dugongs and Manatees [Sinh thái và bảo tồn Sirenia: Bò biển và lợn biển] (bằng tiếng Anh), Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-88828-8, OCLC 773872519
- Nickerson, Roy (1989). Sea Otters, a Natural History and Guide [Rái cá biển, lịch sử tự nhiên và hướng dẫn] (bằng tiếng Anh). San Francisco, CA: Chronicle Books. ISBN 978-0-87701-567-3. OCLC 18414247.
- Parsons, E. C. M.; Bauer, Amy; McCafferty, Dominic; Simmonds, Mark Peter; Wright, Andrew J. (2013), An Introduction to Marine Mammal Biology and Conservation [Giới thiệu sinh học và bảo tồn thú biển] (bằng tiếng Anh), Jones and Bartlett Publishing, ISBN 9780763783440
- Perrin, W. F.; Würsig, B.; Thewissen, J. G. M. (2009), Encyclopedia of Marine Mammals [Bách khoa toàn thư thú biển] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 2), San Diego: Academic Press, ISBN 978-0-0809-1993-5, OCLC 316226747
- Prins, Herbert H. T.; Gordon, Iain J. biên tập (2014), “The Biological Invasion of Sirenia into Australasia” [Sirenia xâm lăng sinh học vào Úc Á], Invasion Biology and Ecological Theory [Sinh học xâm lấn và sinh học sinh thái] (bằng tiếng Anh), Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-1-107-03581-2, OCLC 850909221
- Riedman, Marianne (1990), The Pinnipeds: Seals, Sea Lions, and Walruses [Động vật chân vây: hải cẩu, sư tử biển và hải mã] (bằng tiếng Anh), Los Angeles: University of California Press, ISBN 978-0-520-06497-3, OCLC 19511610
- Silverstein, Alvin; Silverstein, Virginia; Silverstein, Robert (1995), The Sea Otter [Rái cá biển] (bằng tiếng Anh), Brookfield, Connecticut: The Millbrook Press, Inc., ISBN 978-1-56294-418-6, OCLC 30436543
- Stickney, Robert R.; McVey, James P. biên tập (2002), Responsible marine aquaculture [Nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm] (bằng tiếng Anh), Wallingford, Oxon; New York: CABI, ISBN 978-0-85199-604-2, OCLC 228169018
- Stirling, Ian; Guravich, Dan (1988), Polar Bears [Gấu Bắc Cực] (bằng tiếng Anh), Ann Arbor, Michigan: University of Michigan Press, ISBN 978-0-472-10100-9
- VanBlaricom, Glenn R. (2001), Sea Otters [Rái cá biển] (bằng tiếng Anh), Stillwater, Minnesota: Voyageur Press Inc., ISBN 978-0-89658-562-1, OCLC 46393741
- Wang, Katherine R.; Payne, P. Michael; Thayer, Victoria G. (1994), Coastal Stock(s) of Atlantic Bottlenose Dolphin: Status Review and Management [(Các) đàn cá heo mũi chai Đại Tây Dương ven biển: Đánh giá và quản lý hiện trạng] (PDF) (bằng tiếng Anh), U.S. Department of Commerce, National Oceanic and Atmospheric Administration, National Marine Fisheries Service, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2006, truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2022
- Whitehead, H.; Reeves, R. R.; Tyack, P. L. (2000), Mann, J.; Connor, R. C. (biên tập), Cetacean societies: field studies of dolphins and whales [Xã hội bộ cá voi: nghiên cứu thực địa về cá heo và cá voi] (bằng tiếng Anh), Chicago: University of Chicago Press, ISBN 978-0-226-50340-0, OCLC 42309843
- Whitehead, Hal (2003), Sperm Whales: Social Evolution in the Ocean [Cá nhà táng: Tiến hóa xã hội ở đại dương] (bằng tiếng Anh), Chicago: University of Chicago Press, ISBN 978-0-226-89518-5, OCLC 51242162
- Tập san
- Agnarsson, I.; May-Collado, LJ. (2008). “The phylogeny of Cetartiodactyla: the importance of dense taxon sampling, missing data, and the remarkable promise of cytochrome b to provide reliable species-level phylogenies” [Phát sinh chủng loại Cetartiodactyla: tầm quan trọng lấy mẫu phân loại chặt, dữ liệu còn thiếu và triển vọng chú ý của cytochrome b cung cấp phát sinh cấp loài đáng tin cậy]. Molecular Phylogenetics and Evolution (bằng tiếng Anh). 48 (3). doi:10.1016/j.ympev.2008.05.046. PMID 18590827.
- Allen, Aarin Conrad; Keith, Edward O. (2015). “Using the West Indian Manatee (Trichechus manatus) as a Mechanism for Invasive Aquatic Plant Management in Florida” [Dùng lợn biển Tây Ấn (Trichechus manatus) làm cơ chế quản lý thực vật thủy sinh xâm lấn ở Florida]. Journal of Aquatic Plant Management (bằng tiếng Anh). 53.
- Anderson, Paul K. (2001). “Marine Mammals in the Next One Hundred Years: Twilight for a Pleistocene Megafauna?” [Thú biển trong một trăm năm tới: thời chạng vạng cho những thú lớn thế Canh Tân?]. Journal of Mammalogy (bằng tiếng Anh). 82 (3). doi:10.1093/jmammal/82.3.623. JSTOR 1383601.
- Arnason, U.; Gullberg, A.; Janke, A.; Kullberg, M.; Lehman, N.; Petrov, E. A.; Väinölä, R. (2006). “Pinniped phylogeny and a new hypothesis for their origin and dispersal” [Phát sinh chủng loại và giả thuyết mới về nguồn gốc, phân tán thú chân vây]. Molecular Phylogenetics and Evolution (bằng tiếng Anh). 41 (2). doi:10.1016/j.ympev.2006.05.022. PMID 16815048.
- Baker, J. R.; Jones, A. M.; Jones, T. P.; Watson, H. C. (1981). “Otter Lutra lutra L. Mortality and marine oil pollution” [Rái cá Lutra lutra, tỷ lệ tử vong và ô nhiễm dầu trên biển]. Biological Conservation (bằng tiếng Anh). 20 (4). doi:10.1016/0006-3207(81)90017-3.
- Baker, C. S.; Cipriano, F.; Palumbi, S. R. (1996). “Molecular genetic identification of whale and dolphin products from commercial markets in Korea and Japan” [Nhận dạng di truyền phân tử của các sản phẩm cá voi và cá heo từ thị trường thương mại ở Hàn Quốc, Nhật Bản]. Molecular Ecology (bằng tiếng Anh). 5 (5). doi:10.1111/j.1365-294X.1996.tb00362.x.
- Clapham, P. J.; Young, S. B.; Brownell, R. L. (1999). “Baleen whales: Conservation issues and the status of the most endangered populations” [Cá voi tấm sừng hàm: Các vấn đề bảo tồn và tình trạng những quần thể có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất]. Mammal Review (bằng tiếng Anh). 29. doi:10.1046/j.1365-2907.1999.00035.x.
- Conn, P. B.; Silber, G. K. (2013). “Vessel speed restrictions reduce risk of collision-related mortality for North Atlantic right whales” [Hạn chế tốc độ tàu thuyền làm giảm nguy cơ tử vong do va chạm đối với cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương]. Ecosphere (bằng tiếng Anh). 4 (1). doi:10.1890/ES13-00004.1.
- DeMaster, Douglas P.; Stirling, Ian (8 tháng 5 năm 1981). “Ursus Maritimus”. Mammalian Species (bằng tiếng Anh) (145). doi:10.2307/3503828. JSTOR 3503828.
- Demaster, D; Trites, A; Clapham, P; Mizroch, S; Wade, P; Small, R; Hoef, J (2006). “The sequential megafaunal collapse hypothesis: Testing with existing data” [Giả thuyết sụp đổ quần thể động vật lớn tuần tự: Thử nghiệm với dữ liệu hiện có]. Progress in Oceanography (bằng tiếng Anh). 68 (2–4). Bibcode:2006PrOce..68..329D. doi:10.1016/j.pocean.2006.02.007.
- Domning, D. P. (2001). “The Earliest Known Fully Quadrupedal Sirenian” [Bò biển bốn chân hoàn chỉnh sớm nhất đã biết]. Nature (bằng tiếng Anh). 413 (6856). Bibcode:2001Natur.413..625D. doi:10.1038/35098072. PMID 11675784.
- Dyck, M. G.; Romberg, S. (2007). “Observations of a wild polar bear (Ursus maritimus) successfully fishing Arctic charr (Salvelinus alpinus) and Fourhorn sculpin (Myoxocephalus quadricornis)” [Quan sát gấu trắng hoang dã (Ursus maritimus) bắt được cá hồi chấm (Salvelinus alpinus) và cá bống bốn sừng (Myoxocephalus quadricornis)]. Polar Biology (bằng tiếng Anh). 30 (12). doi:10.1007/s00300-007-0338-3.
- Estes, J. A.; Tinker, M. T.; Williams, T. M.; Doak, D. F. (1998). “Killer Whale Predation on Sea Otters Linking Oceanic and Nearshore Ecosystems” [Việc cá voi sát thủ săn bắt rái cá biển có liên hệ với các hệ sinh thái đại dương và gần bờ]. Science (bằng tiếng Anh). 282 (5388). Bibcode:1998Sci...282..473E. doi:10.1126/science.282.5388.473. ISSN 0036-8075. PMID 9774274.
- Estes, J. A.; Doak, D. F.; Springer, A. M.; Williams, T. M. (2009). “Causes and consequences of marine mammal population declines in southwest Alaska: a food-web perspective” [Nguyên nhân và hậu quả của sự suy giảm quần thể thú biển ở tây nam Alaska: quan điểm mạng lưới thức ăn]. Philosophical Transactions of the Royal Society B: Biological Sciences (bằng tiếng Anh). 364 (1524). doi:10.1098/rstb.2008.0231. PMC 2685424. PMID 19451116.
- Ford, J. K. B.; Reeves, R. R. (2008). “Fight or flight: antipredator strategies of baleen whales” [Đánh hay chạy: chiến lược chống bị ăn thịt của cá voi tấm sừng hàm]. Mammal Review (bằng tiếng Anh). 3 (1). CiteSeerX 10.1.1.573.6671. doi:10.1111/j.1365-2907.2008.00118.x.
- Fujiwara, Yoshihiro; Kawato, Masaru; Yamamoto, Tomoko; Yamanaka, Toshiro; Sato-Okoshi, Waka; Noda, Chikayo; Tsuchida, Shinji; Komai, Tomoyuki; Cubelio, Sherine S.; Sasaki, Takenori; Jacobsen, Karen (2007). “Three-year investigations into sperm whale-fall ecosystems in Japan” [Điều tra 3 năm về hệ sinh thái xác cá voi tại Nhật Bản]. Marine Ecology (bằng tiếng Anh). 28 (1). Bibcode:2007MarEc..28..219F. doi:10.1111/j.1439-0485.2007.00150.x.
- Graur, D.; Higgins, G. (1994). “Molecular evidence for the inclusion of cetaceans within the order Artiodactyla” [Bằng chứng phân tử cho thấy cá voi nằm trong Bộ Guốc chẵn]. Molecular Biology and Evolution (bằng tiếng Anh). 11 (3). doi:10.1093/oxfordjournals.molbev.a040118. PMID 8015431.
- Geisler, Jonathan H.; Uden, Mark D. (2005). “Phylogenetic Relationships of Extinct Cetartiodactyls: Results of Simultaneous Analyses of Molecular, Morphological, and Stratigraphic Data” [Quan hệ phát sinh chủng loại của các loài Cetartiodactyla đã tuyệt chủng: Kết quả phân tích đồng thời dữ liệu phân tử, hình thái và địa tầng]. Journal of Mammalian Evolution (bằng tiếng Anh). 12 (1–2). doi:10.1007/s10914-005-4963-8.
- Goldbogen, Jeremy A. (2010). “The Ultimate Mouthful: Lunge Feeding in Rorqual Whales” [Miệng khủng: Lunge feeding ở cá voi lưng gù]. American Scientist (bằng tiếng Anh). 98. doi:10.1511/2010.83.124. JSTOR 27859477.
- Goldbogen, J. A.; Calambokidis, J.; Oleson, E.; Potvin, J.; Pyenson, N. D.; Schorr, G.; Shadwick, R. E. (2011). “Mechanics, hydrodynamics and energetics of blue whale lunge feeding: efficiency dependence on krill density” [Cơ học, thủy động lực học và năng lượng trong lunge feeding của cá voi xanh: phụ thuộc hiệu quả vào mật độ loài nhuyễn thể]. Journal of Experimental Biology (bằng tiếng Anh). 214 (Pt 1). doi:10.1242/jeb.048157. PMID 21147977.
- Hall, M. A. (1998). “An ecological view of the tuna—dolphin problem: impacts and trade-offs” [Góc nhìn sinh thái về vấn đề cá ngừ-cá heo: tác động và đánh đổi]. Reviews in Fish Biology and Fisheries (bằng tiếng Anh). 8. doi:10.1023/A:1008854816580. S2CID 32946729.
- Harwood, J. (2001). “Marine Mammals and their Environment in the Twenty-First Century” [Thú biển và môi trường của chúng trong thế kỷ 21]. Journal of Mammalogy (bằng tiếng Anh). 82 (3). doi:10.1644/1545-1542(2001)082<0630:MMATEI>2.0.CO;2. JSTOR 1383602.
- Hochachka, P.; Storey, K. (1975). “Metabolic consequences of diving in animals and man” [Hệ quả trao đổi chất của hoạt động lặn ở động vật và người]. Science (bằng tiếng Anh). 187 (4177). Bibcode:1975Sci...187..613H. doi:10.1126/science.163485. ISSN 0036-8075. PMID 163485. S2CID 36151144.
- Hutchins, J. (1996). “Spatial and temporal variation in the density of northern cod and a review of hypotheses for the stock's collapse” [Biến thiên mật độ cá tuyết phương bắc theo không gian và thời gian, đánh giá các giả thuyết về sự tan vỡ của đàn cá tuyết]. Canadian Journal of Fisheries and Aquatic Sciences (bằng tiếng Anh). 53 (5). doi:10.1139/cjfas-53-5-943.
- Jefferson, Thomas A.; Stacey, Pam J.; Baird, Robin W. (1991). “A review of Killer Whale interactions with other marine mammals: predation to co-existence” [Đánh giá về tương tác của cá voi sát thủ với các thú biển khác: ăn thịt để cùng tồn tại]. Mammal Rev. (bằng tiếng Anh). 21 (4).
- Kaschner, K.; Tittensor, D. P.; Ready, J.; Gerrodette, T.; Worm, B. (2011). “Current and Future Patterns of Global Marine Mammal Biodiversity” [Mô hình đa dạng sinh học thú biển toàn cầu hiện tại và tương lai]. PLOS ONE (bằng tiếng Anh). 6 (5). Bibcode:2011PLoSO...619653K. doi:10.1371/journal.pone.0019653. PMC 3100303. PMID 21625431.
- Kurtén, B (1964). “The evolution of the polar bear, Ursus maritimus Phipps” [Tiến hóa của gấu trắng, Ursus maritimus Phipps]. Acta Zoologica Fennica (bằng tiếng Anh). 108.
- Lepak, Jesse M.; Kraft, Clifford E.; Weidel, Brian C. (tháng 3 năm 2006). “Rapid food web recovery in response to removal of an introduced apex predator” [Phục hồi nhanh mạng lưới thức ăn đáp ứng với việc loại bỏ động vật săn mồi đỉnh chuỗi được đề cập đến]. Canadian Journal of Fisheries and Aquatic Sciences (bằng tiếng Anh). 63 (3). ISSN 0706-652X.
- Lindqvist, C.; Schuster, S. C.; Sun, Y.; Talbot, S. L.; Qi, J.; Ratan, A.; Tomsho, L. P.; Kasson, L.; Zeyl, E.; Aars, J.; Miller, W. (2010). “Complete mitochondrial genome of a Pleistocene jawbone unveils the origin of polar bear” [Bộ gen ti thể hoàn chỉnh của xương hàm thế Canh Tân tiết lộ nguồn gốc gấu Bắc Cực]. Proceedings of the National Academy of Sciences (bằng tiếng Anh). 107 (11). Bibcode:2010PNAS..107.5053L. doi:10.1073/pnas.0914266107. PMC 2841953. PMID 20194737.
- Lunn, Nicholas J.; Servanty, Sabrina; Regehr, Eric V.; Converse, Sarah J.; Richardson, Evan; Stirling, Ian (2016). “Demography of an apex predator at the edge of its range – impacts of changing sea ice on polar bears in Hudson Bay” [Nghiên cứu số lượng loài săn mồi đỉnh chuỗi tại rìa phân bố - tác động khi băng thay đổi lên gấu bắc cực ở Vịnh Hudson]. Ecological Applications (bằng tiếng Anh). 26 (5). doi:10.1890/15-1256. PMID 27755745.
- Madronich, S.; McKenzie, R. L.; Björn, L. O.; Caldwell, M. M. (1998). “Changes in biologically active ultraviolet radiation reaching the Earth's surface” [Biến đổi trong bức xạ tử ngoại hoạt tính sinh học đến bề mặt trái đất]. Journal of Photochemistry and Photobiology B: Biology (bằng tiếng Anh). 46 (1–3). CiteSeerX 10.1.1.319.3101. doi:10.1016/S1011-1344(98)00182-1. PMID 9894350.
- Mangel, J. C.; Whitty, T.; Medina-Vogel, G.; Alfaro-Shigueto, J.; Cáceres, C.; Godley, B. J. (2010). “Latitudinal variation in diet and patterns of human interaction in the marine otter” [Thay đổi chế độ ăn theo vĩ độ và mô hình tương tác của con người ở rái cá biển]. Marine Mammal Science (bằng tiếng Anh). 27 (2). doi:10.1111/j.1748-7692.2010.00414.x.
- Marris, E. (2007). “Linnaeus at 300: The species and the specious” [300 năm Linnaeus: Loài và lớp vỏ]. Nature (bằng tiếng Anh). 446 (7133). Bibcode:2007Natur.446..250M. doi:10.1038/446250a. PMID 17361153.
- McAlpine, D. F.; Stevick, P. T.; Murison, L. D. (1999). “Increase in Extralimital Occurrences of Ice-Breeding Seals in the Northern Gulf of Maine Region: More Seals or Fewer Fish?” [Gia tăng số lượng hải cẩu sinh sản trên băng ở vùng vịnh Bắc Maine: Nhiều hải cẩu hơn hay ít cá hơn?]. Marine Mammal Science (bằng tiếng Anh). 15 (3). doi:10.1111/j.1748-7692.1999.tb00857.x.
- Meyer, Wynn K.; Jamison, Jerrica; Richter, Rebecca; Woods, Stacy E.; Partha, Raghavendran; Kowalczyk, Amanda; Kronk, Charles; Chikina, Maria; Bonde, Robert K.; Crocker, Daniel; Gaspard, Joseph (10 tháng 8 năm 2018). “Ancient convergent losses of Paraoxonase 1 yield potential risks for modern marine mammals” [Mất đi sự hội tụ của Paraoxonase 1 thời cổ đại đưa đến rủi ro tiềm tàng cho thú biển hiện đại]. Science (bằng tiếng Anh). 361 (6402). Bibcode:2018Sci...361..591M. doi:10.1126/science.aap7714. ISSN 0036-8075. PMC 6317340. PMID 30093596.
- Montgelard, C.; Catzeflis, FM.; Douzery, E. (1997). “Phylogenetic relationships of artiodactyls and cetaceans as deduced from the comparison of cytochrome b and 12S RNA mitochondrial sequences” [Quan hệ chủng loại phát sinh giữa thú móng guốc và cá voi được suy từ so sánh trình tự ti thể của RNA cytochrome b và 12S]. Molecular Biology and Evolution (bằng tiếng Anh). 14 (5). doi:10.1093/oxfordjournals.molbev.a025792. PMID 9159933.
- Nummela, Sirpa; Thewissen, J.G.M; Bajpai, Sunil; Hussain, Taseer; Kumar, Kishor (2007). “Sound transmission in archaic and modern whales: Anatomical adaptations for underwater hearing” [Truyền âm ở cá voi cổ đại và hiện đại: Thích nghi giải phẫu để nghe dưới nước]. The Anatomical Record (bằng tiếng Anh). 290 (6). doi:10.1002/ar.20528. PMID 17516434.
- Pompa, S.; Ehrlich, P. R.; Ceballos, G. (16 tháng 8 năm 2011). “Global distribution and conservation of marine mammals” [Phân bố và bảo tồn thú biển toàn cầu]. Proceedings of the National Academy of Sciences (bằng tiếng Anh). 108 (33). Bibcode:2011PNAS..10813600P. doi:10.1073/pnas.1101525108. PMC 3158205. PMID 21808012.
- Pfeiffer, Carl J. (1997). “Renal cellular and tissue specializations in the bottlenose dolphin (Tursiops truncatus) and beluga whale (Delphinapterus leucas)” [Chuyên biệt hóa mô và tế bào ở cá heo mũi chai (Tursiops truncatus) và cá voi trắng (Delphinapterus leucas)]. Aquatic Mammals (bằng tiếng Anh). 23 (2).
- Price, SA.; Bininda-Emonds, OR.; Gittleman, JL. (2005). “A complete phylogeny of the whales, dolphins and even-toed hoofed mammals – Cetartiodactyla” [Phát sinh chủng loại hoàn chỉnh về cá voi, cá heo và thú guốc chẵn - Cetartiodactyla]. Biological Reviews of the Cambridge Philosophical Society (bằng tiếng Anh). 80 (3). doi:10.1017/s1464793105006743. PMID 16094808. S2CID 45056197.
- Pyle, Peter; Schramm, Mary Jane; Keiper, Carol; Anderson, Scot D. (1999). “Predation on a white shark (Carcharodon carcharias) by a killer whale (Orcinus orca) and a possible case of competitive displacement” [Cá voi sát thủ (Orcinus orca) ăn cá mập trắng (Carcharodon carcharias) và trường hợp khả dĩ về thay thế cạnh tranh] (PDF) (bằng tiếng Anh). 15 (2). doi:10.1111/j.1748-7692.1999.tb00822.x. Chú thích journal cần
|journal=
(trợ giúp) - Reidenberg, Joy S. (2007). “Anatomical Adaptations of Aquatic Mammals” [Thích nghi giải phẫu của thú sống dưới nước]. The Anatomical Record (bằng tiếng Anh). 290 (6). doi:10.1002/ar.20541. OCLC 255630658. PMID 17516440.
- Roman, J.; McCarthy, J. J. (2010). Roopnarine, Peter (biên tập). “The Whale Pump: Marine Mammals Enhance Primary Productivity in a Coastal Basin” [Whale pump: Thú biển nâng cao năng suất đại dương chính ở lưu vực ven biển]. PLOS ONE (bằng tiếng Anh). 5 (10). Bibcode:2010PLoSO...513255R. doi:10.1371/journal.pone.0013255. PMC 2952594. PMID 20949007.
- Roman, Joe; Estes, James A.; Morissette, Lyne; Smith, Craig; Costa, Daniel; McCarthy, James; Nation, J.B.; Nicol, Stephen; Pershing, Andrew; Smetacek, Victor (2014). “Whales as marine ecosystem engineers” [Cá voi như kỹ sư hệ sinh thái biển]. Frontiers in Ecology and the Environment (bằng tiếng Anh). 12 (7). doi:10.1890/130220.
- Rosen, D. A.; Trites, A. W. (2000). “Pollock and the decline of Steller sea lions: Testing the junk-food hypothesis” [Cá minh thái và việc suy giảm sư tử biển Steller: Kiểm chứng giả thuyết thức ăn rác]. Canadian Journal of Zoology (bằng tiếng Anh). 78 (7). doi:10.1139/z00-060.
- Rybczynski, N.; Dawson, M. R.; Tedford, R. H. (2009). “A semi-aquatic Arctic mammalian carnivore from the Miocene epoch and origin of Pinnipedia” [Thú ăn thịt Bắc Cực bán thủy sinh từ kỷ Miocen và nguồn gốc thú chân vây]. Nature (bằng tiếng Anh). 458 (7241). Bibcode:2009Natur.458.1021R. doi:10.1038/nature07985. PMID 19396145.
- Samonds, K. E.; Zalmout, I. S.; Irwin, M. T.; Krause, D. W.; Rogers, R. R.; Raharivony, L. L. (2009). “Eotheroides lambondrano, new Middle Eocene seacow (Mammalia, Sirenia) from the Mahajanga Basin, Northwestern Madagascar” [Eotheroides lambondrano, loài bò biển Trung Eocen mới (Mammalia, Sirenia) từ Lưu vực Mahajanga, Tây Bắc Madagascar]. Journal of Vertebrate Paleontology (bằng tiếng Anh). 29 (4). doi:10.1671/039.029.0417.
- Sanders, Jon G.; Beichman, Annabel C.; Roman, Joe; Scott, Jarrod J.; Emerson, David; McCarthy, James J.; Girguis, Peter R. (2015). “Baleen whales host a unique gut microbiome with similarities to both carnivores and herbivores” [Cá voi tấm sừng mang hệ vi sinh đường ruột độc đáo với những điểm tương đồng với cả động vật ăn thịt lẫn ăn cỏ]. Nature Communications (bằng tiếng Anh). 6. Bibcode:2015NatCo...6.8285S. doi:10.1038/ncomms9285. PMC 4595633. PMID 26393325.
- Savage, R. J. G.; Domning, Daryl P.; Thewissen, J. G. M. (1994). “Fossil Sirenia of the West Atlantic and Caribbean Region. V. the Most Primitive Known Sirenian, Prorastomus sirenoides Owen, 1855” [Hóa thạch Sirenia tại Tây Đại Tây Dương và vùng Caribbe. V. Loài Sirenia nguyên thủy nhất đã biết Prorastomus sirenoides Owen, 1855]. Journal of Vertebrate Paleontology (bằng tiếng Anh). 14. doi:10.1080/02724634.1994.10011569. JSTOR 4523580.
- Schipper, J.; Chanson, J. S.; Chiozza, F.; Cox, N. A.; Hoffmann, M.; Katariya, V.; Lamoreux, J.; Rodrigues, A. S. L.; Stuart, S. N.; Temple, H. J.; Baillie, J. (2008). “The Status of the World's Land and Marine Mammals: Diversity, Threat, and Knowledge” [Tình trạng thú cạn và thú biển trên thế giới: Tính đa dạng, mối đe dọa và kiến thức] (PDF). Science (bằng tiếng Anh). 322 (5899). Bibcode:2008Sci...322..225S. doi:10.1126/science.1165115. PMID 18845749.
- Silber, Gregory K.; Fertl, Dagmar (1995). “Intentional beaching by bottlenose dolphins (Tursiops truncatus) in the Colorado River Delta, Mexico” [Hành động mắc cạn có chủ ý của cá heo mũi chai (Tursiops truncatus) tại đồng bằng sông Colorado, México]. Aquatic Mammals (bằng tiếng Anh). 21 (3).
- Simmonds, M. P.; Isaac, S. J. (2007). “The impacts of climate change on marine mammals: Early signs of significant problems” [Tác động của biến đổi khí hậu lên thú biển: Dấu hiệu ban đầu của những vấn đề nghiêm trọng]. Oryx (bằng tiếng Anh). 41. doi:10.1017/S0030605307001524.
- Smith, Craig R.; Baco, Amy R. (2003). “Ecology of Whale Falls at the Deep-Sea Floor” [Hệ sinh thái xác cá voi dưới đáy biển sâu] (PDF). Oceanography and Marine Biology: An Annual Review (bằng tiếng Anh). 41.
- Spaulding, M.; O'Leary, MA.; Gatesy, J. (2009). “Relationships of Cetacea -Artiodactyla- Among Mammals: Increased Taxon Sampling Alters Interpretations of Key Fossils and Character Evolution” [Quan hệ Cetacea-Artiodactyla trong lớp thú: Mẫu đơn vị phân loại tăng cường ảnh hưởng đến diễn giải hóa thạch và tiến hóa đặc điểm chính]. PLOS ONE (bằng tiếng Anh). 4 (9). Bibcode:2009PLoSO...4.7062S. doi:10.1371/journal.pone.0007062. PMC 2740860. PMID 19774069.
- Springer, A. M. (2003). “Sequential megafaunal collapse in the North Pacific Ocean: An ongoing legacy of industrial whaling?” [Các loài động vật lớn ở Bắc Thái Bình Dương suy sụp liên tục: Hậu quả tiếp diễn của ngành săn bắt cá voi công nghiệp?]. Proceedings of the National Academy of Sciences (bằng tiếng Anh). 100 (21). Bibcode:2003PNAS..10012223S. doi:10.1073/pnas.1635156100. PMC 218740. PMID 14526101.
- Stirling, Ian; Lunn, N. J.; Iacozza, J. (tháng 9 năm 1999). “Long-term trends in the population ecology of polar bears in Western Hudson Bay in relation to climatic change” [Chiều hướng dài hạn trong hệ sinh thái quần thể gấu bắc cực ở Tây Vịnh Hudson liên quan đến biến đổi khí hậu]. Arctic (bằng tiếng Anh). 52 (3). doi:10.14430/arctic935.
- Thewissen, J. G. M.; Bajpai, Sunil (2001). “Whale Origins as a Poster Child for Macroevolution” [Nguồn gốc cá voi như là ví dụ cho đại tiến hóa]. BioScience (bằng tiếng Anh). 51 (12). doi:10.1641/0006-3568(2001)051[1037:WOAAPC]2.0.CO;2.
- Uhen, M. D. (2007). “Evolution of marine mammals: Back to the sea after 300 million years” [Tiến hóa của thú biển: Quay lại biển sau 300 triệu năm]. The Anatomical Record (bằng tiếng Anh). 290 (6). doi:10.1002/ar.20545. PMID 17516441.
- VanBlaricom, Glenn R. (2001), Sea Otters [Rái cá biển] (bằng tiếng Anh), Stillwater, Minnesota: Voyageur Press Inc., ISBN 978-0-89658-562-1, OCLC 46393741
- Visser, Ingrid N. (2005). “First Observations of Feeding on Thresher (Alopias vulpinus) and Hammerhead (Sphyrna zygaena) Sharks by Killer Whales (Orcinus orca) Specialising on Elasmobranch Prey” [Những quan sát đầu tiên cá voi sát thủ (Orcinus orca) chuyên săn mồi nhánh Elasmobranchvề ăn cá nhám đuôi dài (Alopias vulpinus) và cá nhám búa (Sphyrna zygaena)]. Aquatic Mammals (bằng tiếng Anh). 31 (1). doi:10.1578/AM.31.1.2005.83.
- Vogle, A. W.; Lillie, Margo A.; Piscitelli, Marina A.; Goldbogen, Jeremy A.; Pyenson, Nicholas D.; Shadwick, Robert E. (2015). “Stretchy nerves are an essential component of the extreme feeding mechanism of rorqual whales” [Dây thần kinh dãn là thành phần thiết yếu cho cơ chế kiếm ăn mãnh liệt của cá voi lưng gù]. Current Biology (bằng tiếng Anh). 25 (9). doi:10.1016/j.cub.2015.03.007. PMID 25942546.
- Waits, L. P.; Talbot, S. L.; Ward, R. H.; Shields, G. F. (2008). “Mitochondrial DNA Phylogeography of the North American Brown Bear and Implications for Conservation” [Phát sinh chủng loại DNA ty thể của gấu nâu Bắc Mỹ và ý nghĩa bảo tồn]. Conservation Biology (bằng tiếng Anh). 12 (2). doi:10.1111/j.1523-1739.1998.96351.x. JSTOR 2387511.
- Luật
- “Marine Mammal Protection Act of 1972” [Luật bảo vệ thú biển 1972]. Act 2001 (PDF) (bằng tiếng Anh).
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- The Marine Mammal Center A conservation group that focuses on marine mammals
- The Society for Marine Mammalogy The largest organization of marine mammalogists in the world.
- The MarineBio Conservation Society An online education site on marine life
- National Oceanographic and Atmosphere Administration An agency that focuses on the conditions of the ocean and the climate
- Introduction to the Desmostylia Museum of Paleontology, University of California – extinct group of marine mammals