Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Áo dài”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
sửa chú thích ảnh
Dòng 121: Dòng 121:
== Một biểu tượng của Việt Nam ==
== Một biểu tượng của Việt Nam ==
[[Tập tin:Female students wearing áo dài.jpg|nhỏ|[[Học sinh]] Việt Nam mặc Áo dài tới trường.]]
[[Tập tin:Female students wearing áo dài.jpg|nhỏ|[[Học sinh]] Việt Nam mặc Áo dài tới trường.]]
[[Tập tin:Don tiep trong le an hoi (Vietnam).JPG|nhỏ|Áo dài trong đám cưới hỏi của người Việt.]]
Áo dài Việt Nam mang nét năng động thế kỷ 21. Trang phục áo dài cho nữ có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, [[Đồng phục học sinh|đồng phục đi học]], mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà.Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ (vì là áo tân thời), những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi giày cao gót,giày búp bê, giày thể dục đều được. Nếu cần trang trọng thì thêm [[áo choàng]] và [[khăn đóng]], hoặc [[vương miện]] Tây phương tùy thích.
Áo dài Việt Nam mang nét năng động thế kỷ 21. Trang phục áo dài cho nữ có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, [[Đồng phục học sinh|đồng phục đi học]], mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà.Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ (vì là áo tân thời), những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi giày cao gót,giày búp bê, giày thể dục đều được. Nếu cần trang trọng thì thêm [[áo choàng]] và [[khăn đóng]], hoặc [[vương miện]] Tây phương tùy thích.



Phiên bản lúc 15:22, ngày 25 tháng 11 năm 2020

Áo dài
Các nữ sinh mặc áo dài chụp ảnh kỷ yếu tại Quốc Tử Giám, Hà Nội
Thể loạiTrang phục
Chất liệuVải, lụa
Xuất xứViệt Nam

Áo dài là một loại trang phục của người Việt, được cách tân từ áo tứ thân (lập lĩnh, tức cổ đứng) của Việt Nam trong thời kỳ Việt hóa, còn gọi là áo tân thời. Áo dài mặc với quần dài, che thân từ cổ đến hoặc quá đầu gối và dành cho cả nam lẫn nữ nhưng hiện nay thường được biết đến nhiều hơn với tư cách là trang phục nữ.[1]

Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội, trình diễn; hoặc tại những môi trường đòi hỏi sự trang trọng, lịch sự; hoặc là đồng phục nữ sinh tại trường trung học phổ thông hay đại học; hay đại diện cho trang phục quốc gia trong các quan hệ quốc tế. Các người đẹp Việt Nam hầu hết đều chọn áo dài cho phần thi trang phục dân tộc tại các cuộc thi sắc đẹp quốc tế.[2]

Chúa Nguyễn Phúc Khoát là người được xem là có công sáng chế chiếc áo ngũ thân — tiền thân của áo dài. Họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường là người có công định hình áo tân thời như ngày nay.

Từ "Áo dài" (ao dai /ˈaʊ ˌdʌɪ/) được đưa nguyên bản vào từ điển Oxford và được giải thích là loại trang phục của phụ nữ Việt Nam với thiết kế 2 tà áo trước và sau dài chấm mắt cá chân che bên ngoài chiếc quần dài.

Cấu tạo áo dài tân thời

Các bộ phận của một chiếc áo dài phổ biến
  • Cổ áo cổ điển cao khoảng 4 đến 5 cm. Ngày nay, kiểu cổ áo dài được biến tấu khá đa dạng như kiểu cổ trái tim, cổ tròn, cổ chữ U, trên cổ áo thường được đính ngọc.
  • Thân áo được tính từ cổ xuống phần eo. Cúc áo dài thường từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông. Từ eo, thân áo dài được xẻ làm hai tà, vị trí xẻ tà ở hai bên hông.
  • Áo dài có hai tà: tà trước và tà sau. Ngày xưa tà trước bằng tà sau nhưng ngày nay đã có nhiều loại áo tà trước ngắn hơn tà sau. Trên tà áo trước thường được thêu những hoa văn hay những bài thơ.
  • Tay áo được tính từ vai, may ôm sát cánh tay, dài đến qua khỏi cổ tay.
  • Chiếc áo dài được mặc với quần thay cho chiếc váy ngày xưa. Quần áo dài được may chấm gót chân, ống quần rộng. Quần áo dài khi xưa may bằng vải cứng cáp, nay thường được may với vải mềm, rũ. Màu sắc thông dụng nhất là màu trắng. Nhưng xu thế thời trang hiện nay thì chiếc quần áo dài có màu đi tông với màu của áo. Nhưng ngày nay còn được cách tân phối cùng chiếc chân váy dài tạo vẻ dịu dàng, thanh lịch.

Điểm yếu của áo dài tân thời là không dùng hoa văn cổ truyền, cách may hiện đại không sử dụng triết lý ngũ hành, không kết hợp được với các phụ kiện được sử dụng thời xưa như áo ngũ thân, nên không dùng để giao lưu văn hóa. Trong sinh hoạt thường nhật, áo dài tân thời khá bất tiện vì bó sát.

Lịch sử

Tiền thân của áo dài: Áo ngũ thân (1744)

Vua Trần Anh Tông mặc áo viên lĩnh bên ngoài áo giao lĩnh trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ thế kỷ 14
Giảng học đồ vẽ cách trang phục của người Việt vào thế kỷ 18Đàng Ngoài mặc áo giao lĩnh gài bên phải

Trước khi xuất hiện áo dài lập lĩnh (cổ đứng), trang phục phổ biến của người Việt là áo giao lĩnh (cổ chéo) và áo viên lĩnh (cổ tròn). Ngoài ra còn kiểu áo tứ thân phủ tà (gồm bốn vạt nửa và một tà khoát ngoài: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái và tà khoát ngoài bao bọc 4 vạt bên trong).

Kiểu áo do chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt định là áo ngũ thân lập lĩnh (cổ đứng) cài khuy. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót (chỉ hở phần cổ trắng của áo lót). Mỗi vạt có hai thân nối sống (tổng cộng bốn vạt) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ 5 chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáongũ hành theo triết học Đông phương. Các kiểu áo cổ của phương đông xưa luôn có 1 đường may giữa ở vạt trước và sau áo gọi là trung phùng đạo, thể hiện Đấng quân tử nên tìm đạo lý, Kẻ trượng phu gìn kỹ tinh hoa, chính trực

Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1744)

Áo dài ngũ thân, khoảng năm 1900

Với tham vọng lập quốc một cõi, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành cho mặc đối với những quan chức cấp cao để phân biệt họ với những người dân khác. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo ngũ thân Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo lập lĩnh ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép..." (sách Đại Nam Thực lục)

Từ đó bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây.

Hôn lễ đối với dân thường Bắc Bộ, nữ đội hôn lạp, guốc cong, nam đội nón ngựa (chóp nhọn), xỏ hài, dâu rể mặc áo tấc có thêu hoa văn dạng bàn cổ. Hôn lễ với Nam bộ cô dâu và phù dâu đội nón gụ. Hôn lễ đối với quý tộc, nữ kết kim ước phát, nam đội mũ theo bổ phục. Dân thường xỏ hài, guốc; quý tộc xỏ hài cong (giống như tích), cung nhân xỏ guốc sơn son thiếp vàng.

Thời vua Minh Mạng (1828)

Tập tin:Marie Antoinette Boullard-Devé miền trung.jpg
Lễ phục nam giới thời Nguyễn, tranh: Marie Antoinette Boullard-Devé

Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế..."

Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:

Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!

Các thời vua kế tiếp

Áo ngũ thân cổ đứng giúp tăng vẻ đài các, sang trọng cho người mặc được thể hiện qua hoa văn thêu truyền thống. Áo lập lĩnh (cổ đứng) dễ dàng kết hợp với những đôi hài, tích, guốc cong, nón 3 tầm, xà tích, trâm và là áo mặc bên trong của những loại áo quý tộc (nhật bình, bình lĩnh, mã quái, mã tiên, bàn lĩnh, giao lĩnh).

Đối với phụ nữ trước năm 1885, áo ngũ thân (dài và rộng dần đến đầu gối) được mặc kết hợp với trâm và nón cụ (đối với Huế và Nam bộ), nón quai thao hay nón 3 tầm (đối với Bắc bộ), được mặc kết hợp với quần đen hoặc quần đỏ. Sau thời vua Thành Thái, do bị Pháp cướp vàng bạc trong triều đình, áo ngũ thân kết hợp với khăn vấn, khăn vành dây và do bị Tây hóa nên mặc quần trắng.

Áo dài tân thời (1934)

Loại áo dài này ban đầu bị các bậc trí thức phản đối kịch liệt vì "me tây" (theo Nguyễn Công Hoan), được gọi là áo tân thời. Giai đoạn này nếu trong gia đình có những thế hệ sinh trước năm 1920,áo dài tân thời được mặc rộng rãi trong toàn xã hội lúc bấy giời Sau những năm 1940, áo dài kết hợp với nón lá (trước kia chỉ đàn ông đội nón chóp này), hay là khăn đóng. Tà áo dài tân thời được thiết kế với hai vạt với chiều dài khác nhau vạt trước sẽ có tà ngắn hơn một đoạn khoảng 5 cm đói với vạt sau. Những năm 2007, áo dài được cách tân với nhiều chất liệu hơn (như ren).

Áo dài Lemur (1934)

"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ tên Le Mur Nguyễn Cát Tường vào thập kỷ 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo ngũ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn, điểm chia hai tà áo trước - sau cũng trễ dưới eo độ 8 cm. Điều khác biệt nhất là eo áo được nhấn nhẹ. Áo này khi mặc lên hơi sát vào bụng, nên trông như ngực nở ra. Đó là nét mỹ thuật Âu Tây đầu tiên được đưa vào y phục phụ nữ Việt mà cũng vì chuyện này từng gây phản ứng mạnh một thời trong dư luận. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này tuy được nhiều người yêu thích nhưng cũng đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).

Theo sách Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay của tác giả Phạm Thảo Nguyên (do Khai Tâm và Nhà xuất bản Hồng Đức phát hành năm 2019 và tư liệu trong cuốn sách do Nguyễn Trọng Hiền, con trai họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường sưu tầm và gìn giữ) thì trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23 tháng 3 năm 1934, ông Cát Tường mạnh dạn đưa ra mẫu áo dài Lemur ("Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường) đầu tiên. Theo đó, khi phát hiện chiếc áo dài mà người phụ nữ mặc trong lót áo yếm làm thân hình phẳng lì quá, họa sĩ tìm tới chủ hiệu Cự Chung chuyên sản xuất áo khoác, áo bơi ở phố Hàng Bông, đề nghị dệt thêm… nịt vú mới để nâng ngực cho người mặc. Đến năm 1935 thì cho xuất xưởng những chiếc áo đầu tiên. Do được nội hóa, giá cả vừa phải hợp túi tiền người mua nên từ đó, phụ nữ Việt Nam có đầy đủ “phụ tùng”, hết ngại mặc chiếc áo dài Lemur tân thời duyên dáng mà sắc đẹp lại được nổi bật, sang trọng khiến các bà, các cô hãnh diện bước ra đường, tạo ra một phong trào đổi mới y phục phụ nữ quy mô sâu rộng nhất ở Việt Nam

Cũng trong năm 1935, họa sĩ Cát Tường đã thực hiện một chuyến đi xuyên Việt để giới thiệu cho phụ nữ toàn quốc chiếc áo dài tân thời Lemur. Tại Huế, ông may mắn gặp bà Công Tằng Tôn Nữ Trinh Diêu, người từng được nhiếp ảnh gia Võ An Ninh chụp nhiều ảnh nghệ thuật, và ông được nhà Nguyễn mời thực hiện riêng một tủ áo dài tân thời Lemur cho Hoàng hậu Nam Phương. Sau này ông còn tiếp tục đi vào Nam vẽ áo dài cho nhiều nghệ sĩ cải lương, trong đó có nghệ sĩ Phùng Há.

Họa sĩ Lê Phổ cũng không có cải tiến áo dài Lemur theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo ngũ thân truyền thống như nhiều lời đồn. Khi tiệm Marie khánh thành (tiệm của Lê Nghi Sương là cháu họa sĩ Lê Phổ), họa sĩ Cát Tường có giới thiệu một thợ may giỏi cho Lê Phổ. Trong cuốn đặc san ĐẸP Mùa Nực 1934 của Cát Tường, Lê Phổ có một trang vẽ nữ trang chứ ông không hề thiết kế áo dài. Tới cuối tháng 10 năm 1937, Lê Phổ trả người thợ may giỏi lại cho hiệu may Lemur để đi Pháp lần thứ hai, sau khi chuyện tình duyên của ông với người bạn gái bị tan vỡ thì Lê Phổ không trở về nữa mà lấy vợ và ở lại hẳn nước Pháp vẽ tranh tới khi mất. Trên Báo Phong Hóa số 115 ngày 14 tháng 9 năm 1934 có đăng một quảng cáo: “May quần áo phụ nữ lối mới và lối cũ. Có họa sĩ Lê Phổ cho kiểu”. (Cho kiểu không phải là vẽ kiểu mới, mà chỉ là chọn một kiểu trong số kiểu áo Lemur có sẵn cho mỗi khách hàng. Có thể chỉnh sửa chút ít cho hợp dáng người, cũng như chọn hàng hợp với màu da khách. Như bác sĩ “cho thuốc” là cho đơn, đi mua thuốc làm sẵn).[3]

Một số kiểu áo Lemur thập niên 1930

Đời sống mới (1945)

Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới[4]. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.

Áo dài Trần Lệ Xuân (1958)

Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hòa, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học lúc đó tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.

Áo dài với tay Raglan (1960)

Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay Raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay Raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.

Bộ sưu tập Nghê - Mậu Tuất 2018

Áo dài miniraglan (1971)

Áo áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản gốc này, áo ngắn tay Raglan có tà chỉ ngắn tới bàn chân, nhưng hai ống quần ôm lòa xòa phủ kín đôi chân. Quần dùng fecmotuy để cố định, có thêm túi.

Áo dài raglan cổ thuyền phi bóng quần đũi (1988)

Áo cổ thuyền có màu trắng, tím, vàng, đỏ được vẽ hoặc thêu tay. kết hợp với màu sắc trùng với vạt áo của họ..

Áo dài raglan ren hở cổ tà dài mắt cá chân tay lỡ (2007)

Áo dài cưới có chất liệu, kiểu dáng gần với váy cưới soiree (quần đủ các màu, kim tuyến, thêu hiện đại, phéc-mơ-tuya sau lưng, tà áo sau dài xếp ly ra sau để phù dâu cầm). Thời kỳ này, người Việt Nam gần như đã quên hình ảnh truyền thống áo ngũ thân cổ đứng, vấn khăn (hoặc cài trâm), đội nón 3 tầm, chân xỏ hài (hoặc guốc cong).

Áo dài cách tân (2017)

Tết Đinh Dậu 2017 chứng kiến sự “thống lĩnh” mạnh mẽ của tà áo dài, hàng loạt những thiết kế "áo dài cách tân" đã ra đời với kiểu dáng và chất liệu ngày càng phong phú đưa lên được những giá trị văn hóa của người Việt Nam bằng những hoa văn như lũy tre làng, hoa sen, người phụ nữ Việt Nam....[5] Đây là những chiếc áo dài có kiểu may tay giác lăng đặc trưng, kết hợp với váy ngắn, váy đụp.

Áo dài nam

Áo dài trong Hội nghị APEC tổ chức tại Hà Nội năm 2006

Ban đầu, áo ngũ thân vốn được tạo ra để cả nam và nữ cùng mặc. Tuy nhiên theo thời gian, chiếc áo dài nam dần mất. Vì thế khi nhắc đến áo dài người ta nghĩ ngay đến tà áo dài nữ.

Chiếc áo ngũ thân cho nam có cổ cao, thẳng và vuông tượng trưng cho sự chính trực của người quân tử. Áo có 5 cúc làm bằng kim loại, ngọc, gỗ,... chứ không phải bằng vải như sườn xám Trung Quốc. Áo có 5 thân tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, một thân con (nhỏ nhất, nằm trong) tượng trưng cho mình (người mặc). Tà áo không bó sát người mà rộng, càng xuống càng xòe ra. Tay áo rộng, hẹp tùy ý.

Áo mặc thường màu sắc nhã nhặn, không có diềm cổ, diềm tay áo. Thường được mặc kèm một chiếc áo lót màu trắng để làm nền cho áo ngoài, thể hiện sự sạch sẽ ở bên trong. Thể hiện quan niệm truyền thống đẹp đẽ của người Việt: cái gì đẹp thì nên giấu vào trong. Áo ngũ thân luôn đi kèm với khăn vấn.

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn vấn cũng là quốc phục của cánh đàn ông. Các bà các cô dùng màu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này).

Kể từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc phục cho các viên chức hành chính trong chính phủ: nếu buổi lễ mang tính cách tôn giáo hay lịch sử thì lễ phục là áo dài chẽn, khăn đen, quần lụa trắng.[6]

Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính áo cổ đứng cho nữ mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo lập lĩnh nữ)

Áo dài nam chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội truyền thống Việt Nam hay hôn lễ. Đặc biệt, tại hội nghị cấp cao APEC 2006 tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà là áo dài.

Một biểu tượng của Việt Nam

Học sinh Việt Nam mặc Áo dài tới trường.
Áo dài trong đám cưới hỏi của người Việt.

Áo dài Việt Nam mang nét năng động thế kỷ 21. Trang phục áo dài cho nữ có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà.Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ (vì là áo tân thời), những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi giày cao gót,giày búp bê, giày thể dục đều được. Nếu cần trang trọng thì thêm áo choàngkhăn đóng, hoặc vương miện Tây phương tùy thích.

Trước năm 1975, áo dài trắng từng là đồng phục bắt buộc của nữ sinh trung học tại miền Nam Việt Nam. Sau ngày thống nhất, một số trường đã thay áo dài bằng đồng phục riêng của trường, và tại miền Bắc hầu hết các trường, nữ sinh chỉ còn phải mặc áo dài vào ngày thứ hai chào cờ đầu tuần.

Chiếc áo dài tân thời (tức áo dài hiện đại) có cách riêng để tôn vinh mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo.

Chiếc áo dài tân thời vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện.

Sự phục hưng của áo ngũ thân cổ đứng

Năm 2013, cuốn sách "Ngàn năm áo mũ" của nhà nghiên cứu Trần Quang Đức ra đời đã giúp định hình giá trị truyền thống thật sự đến thế hệ trẻ, giúp hiểu hơn về áo ngũ thân.

Bên cạnh đó - Đại Lễ Phục Triều Nguyễn - của tác giả Trần Đình Sơn đã minh họa chính xác nhất về y phục triều nguyễn

Hiện nay áo ngũ thân đang được phục hồi bởi những người trẻ yêu văn hóa, làm công tác du lịch, nghệ thuật (phim, kịch, video âm nhạc). Trong đó, người phục dựng dựa theo truyền thống lâu đời nhất là:

  • Nghệ nhân áo dài Đỗ Minh Thường, Ngõ Hoa Lư, xóm Đông làng Trạch Xá (Làng tổ nghề may áo dài), Huyên Ứng Hòa, TP, Hà Nội (Tra cứu google để biết thêm về nghệ nhân)
  • Nhà nghiên cứu Trịnh Bách phục dựng nhiều trang phục triều Nguyễn và nhiều nhà thiết kế có tên tuổi khác vẫn đang tìm kiếm đường nét cho áo dài Việt nam.

Áo dài trong nghệ thuật

Thơ văn

Áo dài màu trắng (thường là áo dài nữ sinh) tại Huế
Áo dài màu đỏ (thường dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người Việt).Cô dâu đi giày cao gót,chú rể mặc quần côn,xỏ giày tây
Trình diễn áo dài trong một chương trình thời trang ở Hà Nội

Hình ảnh phụ nữ Việt Nam với chiếc áo dài đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu:

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...

Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:

Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...

Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:

Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim)
đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma-soeur)

Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:

Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:

Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).

Hay vô cùng gợi cảm trong bài thơ Chiếc áo dài Việt Nam của nhà thơ Đinh Vũ NgọcQuảng Nam:

Chiếc áo quê hương dáng thướt tha
Non sông gấm vóc mở đôi tà
Tà bên Đông Hải lung linh sóng
Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa
Vạt rộng Nam phần chao cánh gió
Vòng eo Trung bộ thắt lưng ngà
Nhịp tim Hà Nội nhô gò ngực
Hương lúa ba miền thơm thịt da.

Âm nhạc

Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:

Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)

"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":

Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ

Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:

Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)
Nữ sinh mặc áo dài đạp xe trên phố

Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:

Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...

Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi:

Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố
Những lúc buồn vui vu vơ nào đó
Ánh mắt hồn nhiên vô tư dễ thương á hà…...
...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến cho mọi người

Nhạc sĩ Huỳnh Nhật Tân với bài "Cô gái Việt Nam":

Em, cô gái kiêu sa trong tà áo dài Việt Nam
Em, duyên dáng thơ ngây trong vườn nắng đẹp bình minh
Em chân bước mượt mà, em tay trắng ngọc ngà, đẹp lộng lẫy thướt tha.
Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam.
Em yêu quý quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam...

Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với ca khúc "Một đời áo mẹ áo em" kể lại lịch sử và sự gắn kết nhiều thế hệ của chiếc áo dài.

Nhạc sĩ Jo Marcel và ca khúc "Áo dài Việt Nam":

...Người Việt Nam trong chiếc áo dài
Người Việt Nam tha thướt bước về
Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai
Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách
Cùng nắm tay nhau chia sẻ buồn vui
Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp
Vẻ đẹp của người Việt Nam

Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi":

Em đẹp không cần son phấn… xinh thật xinh… thật xinh... rất hiền...
Không quần jeans… giầy cao gót… em chọn riêng mình em áo dài… duyên dáng...
Giống như hoa kia bên thềm… ngát hương không khoe sắc màu… ngàn đóa hoa đang rực rỡ không sánh bằng...
Nhẹ nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ nữ Việt…
Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông…

Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:

Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau
(Ngàn thu áo tím)

Bài hát "Áo trắng đến trường" của nhạc sĩ Xuân Phương được phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của nhạc sĩ Trần Hoàng Vy:

Áo trắng em mặc đến trường
Đừng bao giờ để... ai thương lại gần
Áo trắng thì phải biết lo
Biết không cô nhỏ học trò sáng nay ?

Bài Hát "Cho tôi một vé đi tuổi thơ" có câu:

"Áo trắng ai bay khiến cho ai kia mơ màng"

Hội họa

Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân

Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài tân thời ngồi bên một bình hoa huệ tây(hoa loa kèn).

Trình diễn thời trang

Đã có rất nhiều cuộc thi thiết kế và trình diễn áo dài được tổ chức tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài.

Nhà thiết kế Minh Hạnh, người từng giữ vị trí cao nhất ở nhiều Tuần lễ thời trang Việt Nam hay các lễ hội lớn, là một trong những người đã gặt hái được nhiều thành công khi giới thiệu và quảng bá các bộ sưu tập áo dài do chính mình thiết kế tới Nhật Bản với bộ sưu tập được thiết kế trên nền vải lụa sống hai da, cổ và tay áo được xếp thành nhiều lớp áo như kimono. Gam màu chủ đạo là hồng phấn và hồng đào lấy cảm hứng từ màu hoa anh đào[7]; tới Anh với 100 mẫu áo dài lấy ý tưởng từ các họa tiết trong trang phục của Hoàng gia Anh được kết hợp với các màu sắc trang phục dân tộc Việt[8]; cùng nhà thiết kế Lan Hương tới Mỹ[9] trong bộ sưu tập từ chất liệu jeans và hoa sen vừa kết hợp truyền thống và hiện đại, vừa thể hiện những giao hoa văn hóa Việt Mỹ. Bà cũng là người thiết kế bộ trang phục áo dài mới cho Vietnam Airline với những cách tân táo bạo gây nên những tranh luận đa chiều[10].

Đại nhạc hội Paris By Night 106 mang tên Silk Lụa, trực tiếp thu hình trong hai ngày 1 và 2 tháng 9 năm 2012 tại Planet Hollywood Resorts and Casino, Las Vegas trình diễn bộ sưu tập áo "Dáng Lụa" được thiết kế trên công nghệ in hiện đại của nhà thiết kế Thái Tuấn, Việt Nam.[11]

Trong các cuộc thi nhan sắc tầm cỡ thế giới như Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Trái đất, những người đẹp đại diện Việt Nam luôn đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng cho phần thi trang phục dân tộc, và đã không hiếm lần tà áo dài đồng hành cùng chiến thắng với chủ nhân của trang phục. Bộ áo dài đen cách điệu với đuôi công kết cườm và kim sa đã giúp Mai Phương Thúy lọt top 20 thí sinh mặc trang phục dân tộc đẹp nhất cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2006. Bộ áo dài "vũ khúc hạc" của nhà thiết kế Thuận Việt với cách thiết kế hai lớp áo theo kiểu dáng áo của Nam Phương Hoàng Hậu giúp hoa hậu Thùy Lâm lọt top 10 người đẹp trình diễn trang phục truyền thống đẹp nhất tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Bộ áo dài lấy cảm hứng từ rồng phương Đông, với các họa tiết thổ cẩm đặc trưng của dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam, được hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương lựa chọn tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012 cũng lọt Top 10 trang phục dân tộc đẹp nhất do trang web nổi tiếng về các cuộc thi sắc đẹp Missosology bình chọn. Đặc biệt bộ áo dài lấy ý tưởng từ bông sen với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, điểm xuyết đá pha lê đậm chất hoàng gia của á hậu Trương Thị May tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ năm 2013 được Missology bình chọn đứng đầu bảng xếp hạng những bộ quốc phục đẹp nhất; và trong chính cuộc thi, bộ áo dài này cũng đứng thứ 4 trong Top 10 trang phục dân tộc đẹp nhất[2]

Chú thích

  1. ^ Trong Từ điển bách khoa phụ nữ Việt Nam (tác giả Huỳnh Thị Dung, Nguyễn Thu Hà, Nhà xuất bản Phụ nữ, H. 2002) tại trang 21 ghi "áo dài là loại áo rất độc đáo của phụ nữ Việt Nam. Che từ cổ xuống đến đầu gối (hoặc quá đầu gối). Mặc cùng với quần trắng hay màu cùng màu".
  2. ^ a b Những bộ áo dài Việt gây "choáng ngợp" thế giới
  3. ^ 'Thâm cung' áo dài Lemur”. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  4. ^ Tân Sinh, "Đời sống mới", Ban vận động Đời sống mới 1947, hoặc
    Hồ Chí Minh, Về đạo đức cách mạng, trang 14, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2007
  5. ^ “Sao Việt lăng xê mốt áo dài cách tân Xuân 2017”.
  6. ^ Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". Khởi hành Năm XV, số 173, Tháng Ba, 2011. tr 6
  7. ^ Áo dài Minh Hạnh đi Nhật
  8. ^ Nhà thiết kế Minh Hạnh giới thiệu 100 mẫu áo dài tại Anh
  9. ^ Nhà thiết kế Minh Hạnh, Lan Hương mang áo dài tới Mỹ
  10. ^ Minh Hạnh lại gây bão dư luận với trang phục VNA
  11. ^ Dáng lụa mang hồn Việt đến Paris by night

Xem thêm

Liên kết ngoài