Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Linh cẩu nâu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 6 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
Bổ sung thêm thông tin và cập nhật bảng phân loại khoa học.
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
Dòng 19: Dòng 19:
| name = Linh cẩu nâu
| name = Linh cẩu nâu
|image_caption=Tại công viên quốc gia [[Gemsbok]], [[Nam Phi]]|subordo=[[Feliformia]]}}
|image_caption=Tại công viên quốc gia [[Gemsbok]], [[Nam Phi]]|subordo=[[Feliformia]]}}
'''Linh cẩu nâu''' (''Hyaena brunnea''), còn được gọi là '''sói sợi''', (tiếng Anh: '''Brown Hyena''' hay '''Strandwolf''') là một [[Linh cẩu|loài linh cẩu]] trong [[Bộ Ăn thịt]] được tìm thấy ở [[Namibia]], [[Botswana]], miền tây và miền nam [[Zimbabwe]], miền nam [[Mozambique]] và [[Cộng hòa Nam Phi]].<ref>{{Chú thích web|url=https://archive.org/details/walkerscarnivore0000nowa|tựa đề=Walker's carnivores of the world|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> Chúng hiện là loài linh cẩu hiếm nhất.<ref>''Chapter 4: Rich Man's Table'' from David MacDonald’s ''The Velvet Claw'' BBC books, 1992</ref> Quần thể linh cẩu nâu lớn nhất còn lại nằm ở phía nam [[Hoang mạc Kalahari]] và các khu vực ven biển ở [[Tây Nam Phi]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea.html|tựa đề=Home|tác giả=|họ=Holekamp|tên=Kay|ngày=|website=IUCN Hyaena Specialist Group|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20071224105140/http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea.html|ngày lưu trữ=2007-12-24|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> Số lượng toàn cầu của linh cẩu nâu được [[Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế]] ước tính là ở mức từ 4.000 đến 10.000, và tình trạng bảo tồn của chúng được đánh giá''sắp bị đe dọa'' trong [[Sách đỏ IUCN|danh sách đỏ IUCN]].<ref name=iucn />
'''Linh cẩu nâu''' (''Hyaena brunnea''), còn được gọi là '''sói sợi''','''<ref name="SOED">{{cite book|title=Shorter Oxford English dictionary|publisher=Oxford University Press|year=2007|isbn=978-0199206872|location=United Kingdom|pages=3804}}</ref>''' là một loài [[linh cẩu]] được tìm thấy ở [[Namibia]], [[Botswana]], miền tây và miền nam [[Zimbabwe]],<ref>{{cite journal|last1=Williams|first1=Samual T.|last2=Williams|first2=Kathryn S.|last3=Joubert|first3=Christoffel J.|last4=Hill|first4=Russell A.|date=14 January 2016|title=The impact of land reform on the status of large carnivores in Zimbabwe|journal=PeerJ|volume=4|pages=e1537|doi=10.7717/peerj.1537|pmc=4728035|pmid=26819838}}</ref> miền nam [[Mozambique]] và [[Cộng hòa Nam Phi]].<ref>{{Chú thích web|url=https://archive.org/details/walkerscarnivore0000nowa|tựa đề=Walker's carnivores of the world|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> Chúng hiện là loài linh cẩu hiếm nhất.<ref>''Chapter 4: Rich Man's Table'' from David MacDonald’s ''The Velvet Claw'' BBC books, 1992</ref> Quần thể linh cẩu nâu lớn nhất còn lại nằm ở phía nam [[Hoang mạc Kalahari]] và các khu vực ven biển ở [[Tây Nam Phi]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea.html|tựa đề=Home|tác giả=|họ=Holekamp|tên=Kay|ngày=|website=IUCN Hyaena Specialist Group|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20071224105140/http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea.html|ngày lưu trữ=2007-12-24|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref> Số lượng toàn cầu của linh cẩu nâu được [[Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế]] ước tính là ở mức từ 4.000 đến 10.000, và tình trạng bảo tồn của chúng được liệt [[loài sắp bị đe dọa]] trong [[sách đỏ IUCN]].<ref name=iucn />


== Môi trường sống ==
==Mô tả==
Linh cẩu nâu sống ở các vùng [[Hoang mạc|sa mạc]], bán sa mạc và thảo nguyên rừng thưa.<ref name="Mills">{{cite book|title=The Complete Book of Southern African Mammals|last1=Mills|first1=G|last2=Hes|first2=L|date=1997|publisher=Struik Publishers|location=Cape Town}}</ref>Nó có thể tồn tại gần các khu vực đô thị bằng cách nhặt rác. Linh cẩu nâu ưa thích các khu vực núi đá, vì chúng cung cấp bóng râm và không phụ thuộc vào nguồn nước sẵn có để uống thường xuyên.<ref name="Hole">{{cite web|url=http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea.html|title=Home|last1=Holekamp|first1=Kay|website=IUCN Hyaena Specialist Group|publisher=IUCN|archive-url=https://web.archive.org/web/20071224105140/http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea.html|archive-date=2007-12-24|url-status=dead}}</ref> Phạm vi nhà có diện tích từ 233 đến 466 km².<ref name="spot">{{cite web|url=http://www.animalspot.net/brown-hyena.html|title=Brown Hyena|last1=Bhattacharya|first1=Deepamala|website=Animal Spot}}</ref> Mặc dù ngày nay nó chỉ được tìm thấy ở [[châu Phi]], trong quá khứ nó cũng sống ở [[bán đảo Iberia]] và có lẽ ở các vùng khác của [[châu Âu]]: [[hóa thạch]] của loài này, thuộc Thượng [[thế Pliocen]], đã được tìm thấy ở khu vực [[Granada]].<ref>{{Cite journal|last1=Arribas|first1=Alfonso|last2=Garrido|first2=Guiomar|last3=Palmqvist|first3=Paul|date=2003|title=Primera cita de Hyaena (Parahyaena) brunnea (Thunberg, 1820) (Mammalia, Carnivora) fuera de África: el registro del yacimiento del Plioceno superior de Fonelas P-1 (Cuenca de Guadix-Baza, Granada, España)|url=http://www.igme.es/museo/fonelas/ficheros%20pdf/Geotemas2003a.pdf|journal=Geotemas|volume=5|pages=37–39}}</ref>
Linh cẩu nâu có chiều dài đầu và thân từ {{convert|86|to|140|cm|in|abbr=on}}, mặc dù chiều dài trung bình {{convert|110|to|125|cm|in|abbr=on}}. Chiều cao tới vai là {{convert|25|to|35|cm|in|abbr=on}}<ref>[http://www.arkive.org/brown-hyaena/hyaena-brunnea/] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160707234241/http://www.arkive.org/brown-hyaena/hyaena-brunnea/ |date=2016-07-07 }} (2011)</ref> và đuôi dài {{convert|25|to|35|cm|in|abbr=on}}.<ref>[http://www.arkive.org/brown-hyaena/hyaena-brunnea/] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160707234241/http://www.arkive.org/brown-hyaena/hyaena-brunnea/ |date=2016-07-07 }} (2011).</ref> Không giống [[linh cẩu đốm]], loài này không có sự khác biệt lớn giữa hai giới,<ref name="guide">''The behavior guide to African mammals: including hoofed mammals, carnivores, primates'' by Richard Estes, published by the University of California Press, 1991</ref> mặc dù con đực có thể hơi lớn hơn so với con cái.<ref name="walk">''Walker's carnivores of the world'' của Ronald M. Nowak, JHU Press xuất bản năm 2005</ref> Cân nặng trung bình của con đực trưởng thành là {{convert|40,2|to|43,7|kg|lb|abbr=on}}, trong khi cân nặng của con cái là {{convert|37,7|to|40,2|kg|lb|abbr=on}}.<ref>[http://www.predatorconservation.com/brown%20hyena.htm] (2011).</ref><ref>[http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea/brunnea-physical-description.html] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20120806215129/http://www.hyaenidae.org/the-hyaenidae/brown-hyaena-parahyaena-brunnea/brunnea-physical-description.html |date=2012-08-06 }} (2011).</ref> Giới hạn căng nặng thông thường của loài này là {{convert|55|kg|lb|abbr=on}}, mặc dù đôi khi một số cá thể ngoại cỡ dài tới {{convert|67,6|to|72,6|kg|lb|abbr=on}}.<ref>[http://www.science.smith.edu/msi/pdf/i0076-3519-194-01-0001.pdf] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20120401104649/http://www.science.smith.edu/msi/pdf/i0076-3519-194-01-0001.pdf |date=2012-04-01 }} (2011).</ref>

== Hình ảnh ==
== Mô tả ==
<gallery>
[[File:Hyaena_brunnea_1zz.jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Hyaena_brunnea_1zz.jpg|nhỏ|Một hộp sọ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia, National Mall ở [[Washington, D.C.|Washington, D.C]].]]
Tập tin:Parahyaena brunnea 3.jpg
Linh cẩu nâu được phân biệt với các loài khác nhờ bộ lông dài xù xì màu nâu sẫm, tai nhọn và đuôi ngắn.<ref name="Staurt">{{cite book|title=Field Guide to the Larger Mammals of Africa|last1=Stuart|first1=C|last2=Stuart|first2=T|date=1997|publisher=Struik Publishers|location=London}}</ref> Chân của chúng có sọc nâu và trắng, còn con trưởng thành có một dải lông màu kem khác biệt quanh cổ.<ref name="King">{{cite book|title=The Kingdom Field|last1=Kingdom|first1=J|date=1997|publisher=Academic Press Limited|location=London}}</ref> Các sợi lông cương cứng có chiều dài lên đến 305 mm bao phủ cổ và lưng và các sợi lông trong suốt hành vi chủ động.<ref name="Nowak">{{cite book|url=https://archive.org/details/walkerscarnivore0000nowa|title=Walker's carnivores of the world|last1=Nowak|first1=Ronald|date=2005|publisher=JHU Press|isbn=9780801880322|quote=brown hyena.|url-access=registration}}</ref> Chiều dài cơ thể trung bình là 144 cm với phạm vi 130–160 cm.<ref name="Mike">{{cite web|url=http://animaldiversity.org/accounts/Hyaena_brunnea/|title=Hyaena brunnea brown hyena|last1=Schmidtke|first1=Mike|website=Animal Diversity Web|publisher=University of Michigan}}</ref> Chiều cao vai 70–80 cm và đuôi dài 25–35 cm. Không giống như [[linh cẩu đốm]] lớn hơn, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai giới,<ref>{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=g977LsZHpcsC|title=The behavior guide to African mammals:including hoofed mammals, carnivores, primates|last1=Estes|first1=Richard|date=1991|publisher=University of California Press|isbn=9780520080850}}</ref> mặc dù con đực có thể lớn hơn con cái một chút.<ref name="Nowak" /> Một con đực trưởng thành trung bình nặng 40,2–43,7 kg, trong khi một con cái trung bình nặng 37,7–40,2 kg.<ref name="Nowak" /> Linh cẩu nâu có bộ hàm cực khỏe. Con non có thể cắn nứt xương chân của [[linh dương nhảy]] trong vòng năm phút sau khi sinh, mặc dù khả năng này suy giảm theo tuổi tác và sự mòn răng.<ref name="macdonald">''Chapter 4: Rich Man's Table'' from David MacDonald’s ''The Velvet Claw'' BBC books, 1992</ref> Hộp sọ của linh cẩu nâu lớn hơn hộp sọ của [[linh cẩu vằn]] phương Bắc và bộ răng của chúng cứng hơn, cho thấy sự thích nghi về chế độ ăn ít tổng quát hơn.<ref>{{cite book|title=Mammals of the Soviet Union Volume II Part 2|last1=Heptner|first1=V.G.|last2=Sludskii|first2=A.A.|year=1989|isbn=978-9004088764}}</ref>
Tập tin:Parahyaena brunnea puppy.jpg

Tập tin:Parahyaena brunnea pup.jpg
== Hành vi ==
Tập tin:Azara brown hyena.png
[[File:Five_cheetahs_were_feeding_on_a_Springbok_kill_one_morning_in_th_(34407780271).jpg|liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Five_cheetahs_were_feeding_on_a_Springbok_kill_one_morning_in_th_(34407780271).jpg|nhỏ|Linh cẩu nâu đang trộm xác [[linh dương nhảy]] từ [[báo săn]].]]
</gallery>

=== Hành vi xã hội ===
Linh cẩu nâu có hệ thống phân cấp xã hội tương đương với loài [[sói]], với một cặp giao phối và con của chúng. Chúng sống trong các đàn bao gồm các đại gia đình từ bốn đến sáu cá thể.<ref name="Staurt" /> Các đàn bảo vệ lãnh thổ của chúng và tất cả các thành viên hợp tác trong việc nuôi dạy đàn con.<ref name="Staurt" /> Các lãnh thổ được đánh dấu bằng cách 'dán',<ref>Mills, M. G. L., M. L. Gorman, and Margaret EJ Mills. "[http://www.tandfonline.com/doi/pdf/10.1080/02541858.1980.11447718 The scent marking behaviour of the brown hyaena Hyaena brunnea.]" South African Journal of Zoology 15.4 (1980): 240-248.</ref> trong đó linh cẩu tiết ra chất tiết từ tuyến hậu môn lớn của nó, nằm bên dưới gốc của đuôi và tạo ra một hỗn hợp màu đen và trắng, trên thảm thực vật và đá tảng.<ref name="Mills" /> Linh cẩu nâu duy trì một hệ thống phân cấp đàn ổn định thông qua những màn hung hãn được nghi thức hóa và những trận đánh giả. Linh cẩu nâu đực có thể thăng hạng bằng cách giết một con đực có thứ hạng cao hơn trong cuộc đối đầu, trong khi con cái đứng đầu thường chỉ là con cái lớn tuổi nhất trong đàn.<ref name="Staurt" /> Di cư phổ biến trong các đàn linh cẩu nâu, đặc biệt là ở những con đực trẻ tuổi, chúng sẽ gia nhập các nhóm khác khi đạt đến tuổi trưởng thành.<ref name="Nowak" />

=== Sinh sản và vòng đời ===
Linh cẩu nâu không có [[Mùa sinh sản|mùa giao phối]].<ref name="spot" /> Linh cẩu nâu cái là loài động dục và thường đẻ lứa đầu tiên khi chúng được hai tuổi. Chúng giao phối chủ yếu từ tháng Năm đến tháng Tám. Con đực và con cái trong cùng một đàn thường không giao phối với nhau, thay vào đó con cái sẽ giao phối với những con đực [[du mục]].<ref name="Mills" /> Những con đực trong đàn không phản đối hành vi này và sẽ hỗ trợ những con cái trong việc nuôi dạy đàn con của chúng.<ref name="macdonald" /> Con cái sinh con trong các ổ, ẩn trong các cồn cát hẻo lánh, xa lãnh thổ của [[linh cẩu đốm]] và [[sư tử]]. Thời gian mang thai khoảng 3 tháng.<ref name="Mills" /> Các con mẹ thường đẻ một lứa sau mỗi 20 tháng. Thông thường, chỉ có những con cái thống trị mới sinh sản, nhưng nếu hai lứa được sinh ra trong cùng một đàn, các con mẹ sẽ cho các con của nhau bú, mặc dù thiên về con của chúng hơn.<ref name="macdonald" /> Các lứa thường bao gồm 1–5 con, nặng 1 kg khi mới sinh.<ref name="Nowak" /> Không giống như linh cẩu đốm,<ref name="macdonald" /> linh cẩu nâu được sinh ra với đôi mắt nhắm nghiền và mở ra sau tám ngày. Đàn con được cai sữa khi 12 tháng và rời ổ sau 18 tháng.<ref name="Nowak" /> Cũng không giống như linh cẩu đốm, tất cả các thành viên trưởng thành trong đàn sẽ mang thức ăn về cho đàn con.<ref name="macdonald" /> Chúng chưa cai sữa hoàn toàn và không rời khỏi khu vực lân cận hang ổ cho đến khi chúng được 14 tháng tuổi.<ref name="Nowak" /> Linh cẩu nâu đạt kích thước đầy đủ ở độ tuổi khoảng 30 tháng<ref name="Mills" /> và có tuổi thọ khoảng 12 đến 15 năm.<ref name="spot" />

=== Thói quen ăn uống ===
Linh cẩu nâu chủ yếu là loài [[Động vật ăn xác thối|ăn xác thối]] với phần lớn chế độ ăn của chúng bao gồm xác thịt bị giết bởi những động vật săn mồi lớn hơn, nhưng chúng có thể bổ sung vào chế độ ăn của chúng bằng các loài [[Bộ Gặm nhấm|gặm nhấm]], [[côn trùng]], [[trứng]], [[Quả|trái cây]] và [[nấm]] (nấm cục sa mạc ''[[Kalaharituber pfeilii]]'').<ref>{{cite journal|last1=Trappe|first1=JM|last2=Claridge|first2=AW|last3=Arora|first3=D|last4=Smit|first4=WA|date=2008|title=Desert truffles of Kalahari:ecology, ethnomycology and taxonomy|journal=Economic Botany|volume=3|issue=62|pages=521–529|doi=10.1007/s12231-008-9027-6|s2cid=34319584}}</ref> Tuy nhiên, chúng là những động vật săn kém cỏi, và con mồi sống chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong chế độ ăn của chúng: ở miền nam [[Hoang mạc Kalahari|Kalahari]], các loài như [[Springhare Đông Phi|springhare]], [[linh dương nhảy]] non, [[cáo tai dơi]] và [[Họ Ô tác|ô tác]] chỉ chiếm 4,2% trong khẩu phần ăn chung,<ref name="MIG">{{cite book|title=Kalahari hyaenas: the comparative behavioral ecology of two species|last1=Mills|first1=M.G.L|date=1990|publisher=Unwim Hyman|location=London}}</ref> trong khi ở bờ biển [[Hoang mạc Namib|Namib]], [[hải cẩu lông nâu]] non chiếm 2,9% thức ăn của chúng.<ref>{{cite book|title=The influence of food source on the behavioral ecology of brown hyaenas Hyaena brunnea in the Namib Desert|last1=Goss|first1=R.A.|date=1986|publisher=University of Pretoria|location=Pretoria}}</ref> Chúng có [[khứu giác]] đặc biệt và có thể xác định vị trí hàng km.<ref name="Mills" /> Linh cẩu nâu là loài ăn xác thối hung hãn, thường xuyên giết chết những con [[chó rừng lưng đen]], [[báo săn]] và [[báo hoa mai]].<ref name="Owens">{{cite book|url=https://archive.org/details/cryofkalahari00owen|title=Cry of the Kalahari|last1=Owens|first1=Mark|last2=Owens|first2=Delia|date=1984|pages=[https://archive.org/details/cryofkalahari00owen/page/133 133–135]|url-access=registration}}</ref> Những con linh cẩu nâu đơn độc có thể lao vào báo hoa mai với hàm mở rộng và có thể đâm chết những con báo đực trưởng thành; chúng đã được quan sát thấy đâm chết những con báo hoa mai ngay cả khi không có cuộc tranh chấp giết chóc nào.<ref>{{cite journal|last1=Owens|first1=Delia|last2=Owens|first2=Mark|date=1980|title=Hyenas of the Kalahari|journal=Natural History|volume=2|issue=89|page=50}}</ref> Ở [[Hoang mạc Kalahari|sa mạc Kalahari]], linh cẩu nâu thường là loài động vật ăn thịt có vú chiếm ưu thế vì đặc tính thống trị này và sự khan hiếm tương đối của sư tử, linh cẩu đốm và các đàn [[chó hoang châu Phi]]. Ở những khu vực mà phạm vi chúng chồng lên nhau, linh cẩu nâu có thể bị giết bởi linh cẩu đốm và sư tử trong những trường hợp hiếm hoi.

Ở Kalahari, 80% thời gian hoạt động của linh cẩu nâu là vào ban đêm, tìm kiếm thức ăn trong một khu vực trải dài trung bình 31,1 km, với các lãnh thổ được ghi nhận là rộng đến 54,4 km.<ref name="MIG" /> Chúng có thể lưu trữ thức ăn thừa trong bụi cây hoặc lỗ và thu hồi nó trong vòng 24 giờ.<ref name="Nowak" />

== Các mối đe dọa và tình trạng bảo tồn ==
Dân số toàn cầu của linh cẩu nâu được [[Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế|IUCN]] ước tính là khoảng 4.000 đến 10.000.<ref name="Hole" /> Chúng được liệt kê là [[loài sắp bị đe dọa]] trong [[sách đỏ IUCN]]. Mối đe dọa lớn đối với linh cẩu nâu là sự ngược đãi của con người dựa trên niềm tin sai lầm rằng chúng có hại cho gia súc. Những người nông dân sẽ phát hiện thấy linh cẩu đang nhặt xác gia súc và nghĩ một cách sai lầm rằng linh cẩu đã giết tài sản của họ.<ref name="MIG" /> Các bộ phận cơ thể của linh cẩu nâu đôi khi cũng được sử dụng cho các loại thuốc và nghi lễ truyền thống, nhưng loài này không được săn lùng nhiều như linh cẩu đốm. Linh cẩu nâu không có nhu cầu cao để săn cúp.<ref name="Hole" /> Động vật săn mồi chính duy nhất của linh cẩu nâu là sư tử châu Phi. Linh cẩu con đặc biệt dễ bị sư tử ăn thịt.<ref name="Mike" />

Có một số khu bảo tồn là nơi sinh sống của linh cẩu nâu, bao gồm Vườn quốc gia Etosha ở Namibia, Khu bảo tồn trò chơi Kalahari Trung tâm ở Botswana và Công viên Kgalagadi Transfrontier (Nam Phi/Botswana).<ref name="Hole" /> Việc duy trì các khu bảo tồn này hỗ trợ cho việc bảo tồn các loài động vật này. Các chiến dịch giáo dục đang được sử dụng để nâng cao nhận thức về linh cẩu và xóa tan những lầm tưởng phổ biến, trong khi các cá thể gây vấn đề được đưa ra khỏi đất nông nghiệp và các khu vực đô thị hóa.<ref name="Hole" />


==Chú thích==
==Chú thích==

Phiên bản lúc 03:06, ngày 17 tháng 1 năm 2021

Linh cẩu nâu
Thời điểm hóa thạch: thế Pliocen - gần đây
Tại công viên quốc gia Gemsbok, Nam Phi
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Carnivora
Phân bộ (subordo)Feliformia
Họ (familia)Hyaenidae
Chi (genus)Hyaena
Loài (species)H. brunnea
Danh pháp hai phần
Hyaena brunnea
Thunberg, 1820[2]
Phạm vi phân bố linh cẩu nâu
Phạm vi phân bố linh cẩu nâu
Danh pháp đồng nghĩa
Parahyena brunnea

Linh cẩu nâu (Hyaena brunnea), còn được gọi là sói sợi,[3] là một loài linh cẩu được tìm thấy ở Namibia, Botswana, miền tây và miền nam Zimbabwe,[4] miền nam MozambiqueCộng hòa Nam Phi.[5] Chúng hiện là loài linh cẩu hiếm nhất.[6] Quần thể linh cẩu nâu lớn nhất còn lại nằm ở phía nam Hoang mạc Kalahari và các khu vực ven biển ở Tây Nam Phi.[7] Số lượng toàn cầu của linh cẩu nâu được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế ước tính là ở mức từ 4.000 đến 10.000, và tình trạng bảo tồn của chúng được liệt kê là loài sắp bị đe dọa trong sách đỏ IUCN.[1]

Môi trường sống

Linh cẩu nâu sống ở các vùng sa mạc, bán sa mạc và thảo nguyên rừng thưa.[8]Nó có thể tồn tại gần các khu vực đô thị bằng cách nhặt rác. Linh cẩu nâu ưa thích các khu vực núi đá, vì chúng cung cấp bóng râm và không phụ thuộc vào nguồn nước sẵn có để uống thường xuyên.[9] Phạm vi nhà có diện tích từ 233 đến 466 km².[10] Mặc dù ngày nay nó chỉ được tìm thấy ở châu Phi, trong quá khứ nó cũng sống ở bán đảo Iberia và có lẽ ở các vùng khác của châu Âu: hóa thạch của loài này, thuộc Thượng thế Pliocen, đã được tìm thấy ở khu vực Granada.[11]

Mô tả

Một hộp sọ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia, National Mall ở Washington, D.C.

Linh cẩu nâu được phân biệt với các loài khác nhờ bộ lông dài xù xì màu nâu sẫm, tai nhọn và đuôi ngắn.[12] Chân của chúng có sọc nâu và trắng, còn con trưởng thành có một dải lông màu kem khác biệt quanh cổ.[13] Các sợi lông cương cứng có chiều dài lên đến 305 mm bao phủ cổ và lưng và các sợi lông trong suốt hành vi chủ động.[14] Chiều dài cơ thể trung bình là 144 cm với phạm vi 130–160 cm.[15] Chiều cao vai 70–80 cm và đuôi dài 25–35 cm. Không giống như linh cẩu đốm lớn hơn, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai giới,[16] mặc dù con đực có thể lớn hơn con cái một chút.[14] Một con đực trưởng thành trung bình nặng 40,2–43,7 kg, trong khi một con cái trung bình nặng 37,7–40,2 kg.[14] Linh cẩu nâu có bộ hàm cực khỏe. Con non có thể cắn nứt xương chân của linh dương nhảy trong vòng năm phút sau khi sinh, mặc dù khả năng này suy giảm theo tuổi tác và sự mòn răng.[17] Hộp sọ của linh cẩu nâu lớn hơn hộp sọ của linh cẩu vằn phương Bắc và bộ răng của chúng cứng hơn, cho thấy sự thích nghi về chế độ ăn ít tổng quát hơn.[18]

Hành vi

Linh cẩu nâu đang trộm xác linh dương nhảy từ báo săn.

Hành vi xã hội

Linh cẩu nâu có hệ thống phân cấp xã hội tương đương với loài sói, với một cặp giao phối và con của chúng. Chúng sống trong các đàn bao gồm các đại gia đình từ bốn đến sáu cá thể.[12] Các đàn bảo vệ lãnh thổ của chúng và tất cả các thành viên hợp tác trong việc nuôi dạy đàn con.[12] Các lãnh thổ được đánh dấu bằng cách 'dán',[19] trong đó linh cẩu tiết ra chất tiết từ tuyến hậu môn lớn của nó, nằm bên dưới gốc của đuôi và tạo ra một hỗn hợp màu đen và trắng, trên thảm thực vật và đá tảng.[8] Linh cẩu nâu duy trì một hệ thống phân cấp đàn ổn định thông qua những màn hung hãn được nghi thức hóa và những trận đánh giả. Linh cẩu nâu đực có thể thăng hạng bằng cách giết một con đực có thứ hạng cao hơn trong cuộc đối đầu, trong khi con cái đứng đầu thường chỉ là con cái lớn tuổi nhất trong đàn.[12] Di cư phổ biến trong các đàn linh cẩu nâu, đặc biệt là ở những con đực trẻ tuổi, chúng sẽ gia nhập các nhóm khác khi đạt đến tuổi trưởng thành.[14]

Sinh sản và vòng đời

Linh cẩu nâu không có mùa giao phối.[10] Linh cẩu nâu cái là loài động dục và thường đẻ lứa đầu tiên khi chúng được hai tuổi. Chúng giao phối chủ yếu từ tháng Năm đến tháng Tám. Con đực và con cái trong cùng một đàn thường không giao phối với nhau, thay vào đó con cái sẽ giao phối với những con đực du mục.[8] Những con đực trong đàn không phản đối hành vi này và sẽ hỗ trợ những con cái trong việc nuôi dạy đàn con của chúng.[17] Con cái sinh con trong các ổ, ẩn trong các cồn cát hẻo lánh, xa lãnh thổ của linh cẩu đốmsư tử. Thời gian mang thai khoảng 3 tháng.[8] Các con mẹ thường đẻ một lứa sau mỗi 20 tháng. Thông thường, chỉ có những con cái thống trị mới sinh sản, nhưng nếu hai lứa được sinh ra trong cùng một đàn, các con mẹ sẽ cho các con của nhau bú, mặc dù thiên về con của chúng hơn.[17] Các lứa thường bao gồm 1–5 con, nặng 1 kg khi mới sinh.[14] Không giống như linh cẩu đốm,[17] linh cẩu nâu được sinh ra với đôi mắt nhắm nghiền và mở ra sau tám ngày. Đàn con được cai sữa khi 12 tháng và rời ổ sau 18 tháng.[14] Cũng không giống như linh cẩu đốm, tất cả các thành viên trưởng thành trong đàn sẽ mang thức ăn về cho đàn con.[17] Chúng chưa cai sữa hoàn toàn và không rời khỏi khu vực lân cận hang ổ cho đến khi chúng được 14 tháng tuổi.[14] Linh cẩu nâu đạt kích thước đầy đủ ở độ tuổi khoảng 30 tháng[8] và có tuổi thọ khoảng 12 đến 15 năm.[10]

Thói quen ăn uống

Linh cẩu nâu chủ yếu là loài ăn xác thối với phần lớn chế độ ăn của chúng bao gồm xác thịt bị giết bởi những động vật săn mồi lớn hơn, nhưng chúng có thể bổ sung vào chế độ ăn của chúng bằng các loài gặm nhấm, côn trùng, trứng, trái câynấm (nấm cục sa mạc Kalaharituber pfeilii).[20] Tuy nhiên, chúng là những động vật săn kém cỏi, và con mồi sống chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong chế độ ăn của chúng: ở miền nam Kalahari, các loài như springhare, linh dương nhảy non, cáo tai dơiô tác chỉ chiếm 4,2% trong khẩu phần ăn chung,[21] trong khi ở bờ biển Namib, hải cẩu lông nâu non chiếm 2,9% thức ăn của chúng.[22] Chúng có khứu giác đặc biệt và có thể xác định vị trí hàng km.[8] Linh cẩu nâu là loài ăn xác thối hung hãn, thường xuyên giết chết những con chó rừng lưng đen, báo sănbáo hoa mai.[23] Những con linh cẩu nâu đơn độc có thể lao vào báo hoa mai với hàm mở rộng và có thể đâm chết những con báo đực trưởng thành; chúng đã được quan sát thấy đâm chết những con báo hoa mai ngay cả khi không có cuộc tranh chấp giết chóc nào.[24]sa mạc Kalahari, linh cẩu nâu thường là loài động vật ăn thịt có vú chiếm ưu thế vì đặc tính thống trị này và sự khan hiếm tương đối của sư tử, linh cẩu đốm và các đàn chó hoang châu Phi. Ở những khu vực mà phạm vi chúng chồng lên nhau, linh cẩu nâu có thể bị giết bởi linh cẩu đốm và sư tử trong những trường hợp hiếm hoi.

Ở Kalahari, 80% thời gian hoạt động của linh cẩu nâu là vào ban đêm, tìm kiếm thức ăn trong một khu vực trải dài trung bình 31,1 km, với các lãnh thổ được ghi nhận là rộng đến 54,4 km.[21] Chúng có thể lưu trữ thức ăn thừa trong bụi cây hoặc lỗ và thu hồi nó trong vòng 24 giờ.[14]

Các mối đe dọa và tình trạng bảo tồn

Dân số toàn cầu của linh cẩu nâu được IUCN ước tính là khoảng 4.000 đến 10.000.[9] Chúng được liệt kê là loài sắp bị đe dọa trong sách đỏ IUCN. Mối đe dọa lớn đối với linh cẩu nâu là sự ngược đãi của con người dựa trên niềm tin sai lầm rằng chúng có hại cho gia súc. Những người nông dân sẽ phát hiện thấy linh cẩu đang nhặt xác gia súc và nghĩ một cách sai lầm rằng linh cẩu đã giết tài sản của họ.[21] Các bộ phận cơ thể của linh cẩu nâu đôi khi cũng được sử dụng cho các loại thuốc và nghi lễ truyền thống, nhưng loài này không được săn lùng nhiều như linh cẩu đốm. Linh cẩu nâu không có nhu cầu cao để săn cúp.[9] Động vật săn mồi chính duy nhất của linh cẩu nâu là sư tử châu Phi. Linh cẩu con đặc biệt dễ bị sư tử ăn thịt.[15]

Có một số khu bảo tồn là nơi sinh sống của linh cẩu nâu, bao gồm Vườn quốc gia Etosha ở Namibia, Khu bảo tồn trò chơi Kalahari Trung tâm ở Botswana và Công viên Kgalagadi Transfrontier (Nam Phi/Botswana).[9] Việc duy trì các khu bảo tồn này hỗ trợ cho việc bảo tồn các loài động vật này. Các chiến dịch giáo dục đang được sử dụng để nâng cao nhận thức về linh cẩu và xóa tan những lầm tưởng phổ biến, trong khi các cá thể gây vấn đề được đưa ra khỏi đất nông nghiệp và các khu vực đô thị hóa.[9]

Chú thích

  1. ^ a b Wiesel, I., Maude, G., Scott, D. & Mills, G. (2008). Hyaena brunnea. 2008 Sách đỏ IUCN. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế 2008. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2009. Database entry includes justification for why this species is near threatened
  2. ^ Wilson, D. E.; Reeder, D. M. biên tập (2005). “Hyaena brunnea”. Mammal Species of the World . Baltimore: Nhà in Đại học Johns Hopkins, 2 tập (2.142 trang). ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
  3. ^ Shorter Oxford English dictionary. United Kingdom: Oxford University Press. 2007. tr. 3804. ISBN 978-0199206872.
  4. ^ Williams, Samual T.; Williams, Kathryn S.; Joubert, Christoffel J.; Hill, Russell A. (14 tháng 1 năm 2016). “The impact of land reform on the status of large carnivores in Zimbabwe”. PeerJ. 4: e1537. doi:10.7717/peerj.1537. PMC 4728035. PMID 26819838.
  5. ^ “Walker's carnivores of the world”.
  6. ^ Chapter 4: Rich Man's Table from David MacDonald’s The Velvet Claw BBC books, 1992
  7. ^ Holekamp, Kay. “Home”. IUCN Hyaena Specialist Group. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2007.
  8. ^ a b c d e f Mills, G; Hes, L (1997). The Complete Book of Southern African Mammals. Cape Town: Struik Publishers.
  9. ^ a b c d e Holekamp, Kay. “Home”. IUCN Hyaena Specialist Group. IUCN. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2007.
  10. ^ a b c Bhattacharya, Deepamala. “Brown Hyena”. Animal Spot.
  11. ^ Arribas, Alfonso; Garrido, Guiomar; Palmqvist, Paul (2003). “Primera cita de Hyaena (Parahyaena) brunnea (Thunberg, 1820) (Mammalia, Carnivora) fuera de África: el registro del yacimiento del Plioceno superior de Fonelas P-1 (Cuenca de Guadix-Baza, Granada, España)” (PDF). Geotemas. 5: 37–39.
  12. ^ a b c d Stuart, C; Stuart, T (1997). Field Guide to the Larger Mammals of Africa. London: Struik Publishers.
  13. ^ Kingdom, J (1997). The Kingdom Field. London: Academic Press Limited.
  14. ^ a b c d e f g h Nowak, Ronald (2005). Walker's carnivores of the world. JHU Press. ISBN 9780801880322. brown hyena.
  15. ^ a b Schmidtke, Mike. “Hyaena brunnea brown hyena”. Animal Diversity Web. University of Michigan.
  16. ^ Estes, Richard (1991). The behavior guide to African mammals:including hoofed mammals, carnivores, primates. University of California Press. ISBN 9780520080850.
  17. ^ a b c d e Chapter 4: Rich Man's Table from David MacDonald’s The Velvet Claw BBC books, 1992
  18. ^ Heptner, V.G.; Sludskii, A.A. (1989). Mammals of the Soviet Union Volume II Part 2. ISBN 978-9004088764.
  19. ^ Mills, M. G. L., M. L. Gorman, and Margaret EJ Mills. "The scent marking behaviour of the brown hyaena Hyaena brunnea." South African Journal of Zoology 15.4 (1980): 240-248.
  20. ^ Trappe, JM; Claridge, AW; Arora, D; Smit, WA (2008). “Desert truffles of Kalahari:ecology, ethnomycology and taxonomy”. Economic Botany. 3 (62): 521–529. doi:10.1007/s12231-008-9027-6. S2CID 34319584.
  21. ^ a b c Mills, M.G.L (1990). Kalahari hyaenas: the comparative behavioral ecology of two species. London: Unwim Hyman.
  22. ^ Goss, R.A. (1986). The influence of food source on the behavioral ecology of brown hyaenas Hyaena brunnea in the Namib Desert. Pretoria: University of Pretoria.
  23. ^ Owens, Mark; Owens, Delia (1984). Cry of the Kalahari. tr. 133–135.
  24. ^ Owens, Delia; Owens, Mark (1980). “Hyenas of the Kalahari”. Natural History. 2 (89): 50.

Liên kết ngoài