Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cá sấu nước mặn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Liên kết định hướng
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Liên kết định hướng
Dòng 16: Dòng 16:
}}
}}


'''Cá sấu nước mặn''' ([[danh pháp hai phần]]: ''Crocodylus porosus''), còn gọi là '''cá sấu cửa sông''' hay ở [[Việt Nam]] còn được gọi là '''cá sấu hoa cà'''; là loài [[bò sát]] lớn nhất còn sống trên thế giới. Con đực trưởng thành có thể đạt tới [[chiều dài]] 6,3m và khả năng lên tới 7m.<ref name="Britton et al. 2012">{{chú thích tạp chí|last1=Britton|first1=Adam R. C.|last2=Whitaker|first2=Romulus|last3=Whitaker|first3=Nikhil|title=Here be a Dragon: Exceptional Size in Saltwater Crocodile (''Crocodylus porosus'') from the Philippines|journal=Herpetological Review |date=2012 |volume=43 |issue=4 |pages=541–546}}</ref> Tuy nhiên, một con đực trưởng thành hiếm khi đạt tới hoặc vượt quá kích thước 6,3 m hay nặng 1.000 tới 1.300&nbsp;kg.<ref name=ADW>{{Chú thích web |url=http://animaldiversity.org/accounts/Crocodylus_porosus/#physical_description |tiêu đề=Crocodylus porosus |nhà xuất bản=Animal Diversity Web |ngày truy cập=ngày 3 tháng 6 năm 2015}}</ref> Con cái nhỏ hơn nhiều so với con đực, nhìn chung thì không dài quá 3 m.<ref name=ADW/> Cá sấu nước mặn thường sinh sống ở các vùng [[đất ngập nước]] nơi có [[nước mặn]] và [[nước lợ|lợ]]. Chúng có [[Phạm vi (sinh học)|phạm vi phân bố]] rộng nhất trong số tất cả các loài cá sấu hiện đại, trải dài từ bờ đông [[tiểu lục địa Ấn Độ]] cho tới hầu hết [[Đông Nam Á]], [[Papua New Guinea]] và phía Bắc [[lục địa Úc|lục địa Australia]]. Chúng là những vận động viên bơi lội rất khỏe.
'''Cá sấu nước mặn''' ([[danh pháp hai phần]]: ''Crocodylus porosus''), còn gọi là '''cá sấu cửa sông''' hay ở [[Việt Nam]] còn được gọi là '''cá sấu hoa cà'''; là phân loài [[Bộ Cá sấu|cá sấu]] lớn nhất và cũng là loài [[bò sát]] lớn nhất còn sống trên thế giới.<ref>{{cite journal |title=Satellite Tracking Reveals Long Distance Coastal Travel and Homing by Translocated Estuarine Crocodiles, Crocodylus porosus |journal=PLOS ONE |year=2007 |volume=2 |doi=10.1371/journal.pone.0000949 |doi-access=free |last1=Read |first1=Mark A. |last2=Grigg |first2=Gordon C. |last3=Irwin |first3=Steve R. |last4=Shanahan |first4=Danielle |last5=Franklin |first5=Craig E. |issue=9 |pages=e949 |pmid=17895990 |pmc=1978533 |bibcode=2007PLoSO...2..949R }}</ref><ref name="Croc">{{cite web|url=https://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/australiaandthepacific/7806139/Crocodiles-surf-ocean-currents.html |archive-url=https://ghostarchive.org/archive/20220111/https://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/australiaandthepacific/7806139/Crocodiles-surf-ocean-currents.html |archive-date=11 January 2022 |url-access=subscription |url-status=live|title=Crocodiles surf ocean currents|website=www.telegraph.co.uk}}{{cbignore}}</ref><ref name="Scales">{{Cite journal|url=http://www.environment.gov.au/system/files/pages/dc11235d-8b3b-43f7-b991-8429f477a1d4/files/40-fauna-2a-crocodylia-morphology.pdf|title=Fauna of Australia}}</ref> Con đực trưởng thành có thể đạt [[chiều dài]] tới 6,3m và thậm chí lên tới 7m.<ref name="Britton et al. 2012">{{chú thích tạp chí|last1=Britton|first1=Adam R. C.|last2=Whitaker|first2=Romulus|last3=Whitaker|first3=Nikhil|title=Here be a Dragon: Exceptional Size in Saltwater Crocodile (''Crocodylus porosus'') from the Philippines|journal=Herpetological Review |date=2012 |volume=43 |issue=4 |pages=541–546}}</ref> Tuy nhiên, một con đực trưởng thành hiếm khi đạt tới hoặc vượt quá kích thước 6,3 m hay nặng 1.000 tới 1.300&nbsp;kg.<ref name=ADW>{{Chú thích web |url=http://animaldiversity.org/accounts/Crocodylus_porosus/#physical_description |tiêu đề=Crocodylus porosus |nhà xuất bản=Animal Diversity Web |ngày truy cập=ngày 3 tháng 6 năm 2015}}</ref> Con cái nhỏ hơn nhiều so với con đực, nhìn chung thì không dài quá 3 m.<ref name=ADW/> Cá sấu nước mặn thường sinh sống ở các vùng [[đất ngập nước]] nơi có [[nước mặn]] và [[nước lợ|lợ]]. Chúng có [[Phạm vi (sinh học)|phạm vi phân bố]] rộng nhất trong số tất cả các loài cá sấu hiện đại, trải dài từ bờ đông [[tiểu lục địa Ấn Độ]] cho tới hầu hết khu vực [[Đông Nam Á]], đảo [[New Guinea]] và phía Bắc [[lục địa Úc|lục địa Australia]]. Chúng là những vận động viên bơi lội rất khỏe.


Cá sấu nước mặn là một loài [[động vật chuyên ăn thịt]] [[động vật ăn thịt đầu bảng|đầu bảng]]. Chúng [[rình mồi|phục kích]] hầu hết các con mồi và sau đó nhấn chìm hoặc nuốt chửng toàn bộ con mồi. Cá sấu có khả năng chiếm ưu thế so với hầu hết các loài động vật xâm nhập vào lãnh thổ của chúng, bao gồm cả những kẻ săn mồi khác như [[cá mập]], các loại [[cá nước ngọt]] và [[cá nước mặn|nước mặn]] bao gồm các loài [[cá biển khơi]], [[động vật không xương sống]] như giáp xác, các loài lưỡng cư, bò sát, chim và động vật có vú, bao gồm cả con người.
Cá sấu nước mặn là một loài [[động vật chuyên ăn thịt]] [[động vật ăn thịt đầu bảng|đầu bảng]]. Chúng [[rình mồi|phục kích]] hầu hết các con mồi và sau đó nhấn chìm hoặc nuốt chửng toàn bộ con mồi. Cá sấu có khả năng chiếm ưu thế so với hầu hết các loài động vật xâm nhập vào lãnh thổ của chúng, bao gồm cả những kẻ săn mồi khác như [[cá mập]], các loại [[cá nước ngọt]] và [[cá nước mặn|nước mặn]] bao gồm các loài [[cá biển khơi]], [[động vật không xương sống]] như [[giáp xác]], các loài [[lưỡng cư]], bò sát, chim và [[động vật có vú]], bao gồm cả con người.


Cá sấu nước mặn đã được liệt kê là [[Loài ít quan tâm]] trong [[Sách Đỏ IUCN]] kể từ năm 1996. Chúng bị săn bắt để lấy da trong suốt những năm [[thập niên 1970]], và đang bị đe dọa bởi việc giết hại bất hợp pháp và mất môi trường sống. Với nhiều sự cố [[cá sấu tấn công|tấn công con người]] trong phạm vi sinh sống của mình, chúng được xem là một dã thú nguy hiểm đối với con người.
Cá sấu nước mặn đã được liệt kê là [[Loài ít quan tâm]] trong [[Sách Đỏ IUCN]] kể từ năm 1996. Chúng bị săn bắt để lấy da trong suốt những năm [[thập niên 1970]], và đang bị đe dọa bởi nạn săn trộm bất hợp pháp và mất môi trường sống. Với một lịch sử lâu dài thường xuyên [[cá sấu tấn công|tấn công và ăn thịt người]] trong phạm vi sinh sống của mình, chúng được xem là một [[động vật ăn thịt người|dã thú nguy hiểm đối với con người]].<ref name=Webb_al2010>{{cite book |last1=Webb |first1=G. J. W. |last2=Manolis |first2= C. |last3=Brien |first3=M. L. |year=2010 |chapter=Saltwater Crocodile ''Crocodylus porosus'' |pages=99–113 |chapter-url=http://www.iucncsg.org/365_docs/attachments/protarea/18%20--8088e67a.pdf |editor1-last=Manolis |editor1-first=S. C. |editor2-last=Stevenson |editor2-first=C. |title=Crocodiles: Status Survey and Conservation Action Plan |edition=3rd |publisher=IUCN Crocodile Specialist Group |location=Darwin}}</ref>


== Đặc điểm ==
== Đặc điểm ==
Dòng 27: Dòng 27:


===Kích thước===
===Kích thước===
[[Tập tin:Saltwater crocodile on a beach in Darwin, NT.jpg|thumb|left|Một con cá sấu tắm nắng trên bãi biển ở thành phố [[Darwin, Úc|Darwin]].]]
====Kích thước con đực====
====Kích thước con đực====
Một con cá sấu nước mặn đực trưởng thành, từ những cá thể còn trẻ đến những con đã già, có [[chiều dài]] dao động từ 3,5 đến 6 m (11&nbsp;ft 6 in đến 19&nbsp;ft 8 in), nặng từ 200 đến 1.000&nbsp;kg (440-22&nbsp;lb). Trung bình, con đực trưởng thành có [[chiều dài]] từ 4,3 đến 4,9 m (14&nbsp;ft 1 in đến 16&nbsp;ft 1 in) và nặng từ 408 đến 522&nbsp;kg (899–1,151&nbsp;lb). Tuy nhiên kích thước trung bình phần lớn phụ thuộc vào vị trí, môi trường sống và tác động của con người, do đó dữ liệu cũng thay đổi từ nghiên cứu này sang nghiên cứu khác, khi các số liệu của mỗi nghiên cứu được xem riêng biệt. Trong một trường hợp, Webb và Manolis (1989) cho rằng trọng lượng trung bình của con đực trưởng thành trong các sông thủy triều của Úc chỉ là 240 đến 350&nbsp;kg (530 đến 770&nbsp;lb) với chiều dài từ 4 đến 4,5 m (13&nbsp;ft 1 in to 14&nbsp;ft 9 in) trong những năm 1980, có thể đại diện cho một khối lượng cơ thể đã bị giảm do các loài đang hồi phục sau nhiều thập kỷ bị săn bắn quá mức, vì con đực kích thước này thường nặng hơn 100&nbsp;kg (220&nbsp;lb). Một số cá thể đực cao tuổi có thể dài hơn 6 m (19&nbsp;ft 8 in) và nặng hơn 1.000&nbsp;kg (2.200&nbsp;lb).
Một con cá sấu nước mặn đực trưởng thành, từ những cá thể còn trẻ đến những con đã già, có [[chiều dài]] dao động từ 3,5 đến 6 m (11&nbsp;ft 6 in đến 19&nbsp;ft 8 in), nặng từ 200 đến 1.000&nbsp;kg (440-22&nbsp;lb). Trung bình, con đực trưởng thành có [[chiều dài]] từ 4,3 đến 4,9 m (14&nbsp;ft 1 in đến 16&nbsp;ft 1 in) và nặng từ 408 đến 522&nbsp;kg (899–1,151&nbsp;lb). Tuy nhiên kích thước trung bình phần lớn phụ thuộc vào vị trí, môi trường sống và tác động của con người, do đó dữ liệu cũng thay đổi từ nghiên cứu này sang nghiên cứu khác, khi các số liệu của mỗi nghiên cứu được xem riêng biệt. Trong một trường hợp, Webb và Manolis (1989) cho rằng trọng lượng trung bình của con đực trưởng thành trong các sông thủy triều của Úc chỉ là 240 đến 350&nbsp;kg (530 đến 770&nbsp;lb) với chiều dài từ 4 đến 4,5 m (13&nbsp;ft 1 in to 14&nbsp;ft 9 in) trong những năm 1980, có thể đại diện cho một khối lượng cơ thể đã bị giảm do các loài đang hồi phục sau nhiều thập kỷ bị săn bắn quá mức, vì con đực kích thước này thường nặng hơn 100&nbsp;kg (220&nbsp;lb). Một số cá thể đực cao tuổi có thể dài hơn 6 m (19&nbsp;ft 8 in) và nặng hơn 1.000&nbsp;kg (2.200&nbsp;lb).
Dòng 34: Dòng 35:
====Kích thước con cái====
====Kích thước con cái====
Con cái trưởng thành thường dài từ 2,7 đến 3,1 m (8&nbsp;ft 10 in đến 10&nbsp;ft 2 in) và cân nặng từ 76 đến 103&nbsp;kg (168 đến 227&nbsp;lb). Con cái lớn nhất trong kỷ lục đo được có chiều dài khoảng 4,3 m (14&nbsp;ft 1 in). Con cái có kích thước tương đương với những loài cá sấu lớn khác và có kích thước trung bình nhỏ hơn giống cái của một số loài cá sấu, chẳng hạn như [[cá sấu sông Nin]]. Cho đến nay, cá sấu nước mặn có kích thước lưỡng hình giới tính lớn nhất so với bất kỳ loài cá sấu nào còn tồn tại, vì con đực trung bình to gấp 4 đến 5 lần con cái trưởng thành và đôi khi có thể đo được gấp đôi tổng chiều dài của nó. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lưỡng hình xiên đực ở loài này không được biết rõ ràng nhưng có thể tương quan với lãnh thổ cụ thể về giới tính và nhu cầu cá sấu nước mặn đực trưởng thành độc chiếm những khu vực sinh sống rộng lớn. Do sự lưỡng cực tình dục cực đoan của các loài tương phản với sự thay đổi kích thước khiêm tốn hơn của các loài khác, [[chiều dài]] trung bình của loài chỉ hơi nhiều hơn một số cá sấu còn tồn tại khác ở 3,8–4 m (12&nbsp;ft 6 in-13&nbsp;ft 1 in).
Con cái trưởng thành thường dài từ 2,7 đến 3,1 m (8&nbsp;ft 10 in đến 10&nbsp;ft 2 in) và cân nặng từ 76 đến 103&nbsp;kg (168 đến 227&nbsp;lb). Con cái lớn nhất trong kỷ lục đo được có chiều dài khoảng 4,3 m (14&nbsp;ft 1 in). Con cái có kích thước tương đương với những loài cá sấu lớn khác và có kích thước trung bình nhỏ hơn giống cái của một số loài cá sấu, chẳng hạn như [[cá sấu sông Nin]]. Cho đến nay, cá sấu nước mặn có kích thước lưỡng hình giới tính lớn nhất so với bất kỳ loài cá sấu nào còn tồn tại, vì con đực trung bình to gấp 4 đến 5 lần con cái trưởng thành và đôi khi có thể đo được gấp đôi tổng chiều dài của nó. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lưỡng hình xiên đực ở loài này không được biết rõ ràng nhưng có thể tương quan với lãnh thổ cụ thể về giới tính và nhu cầu cá sấu nước mặn đực trưởng thành độc chiếm những khu vực sinh sống rộng lớn. Do sự lưỡng cực tình dục cực đoan của các loài tương phản với sự thay đổi kích thước khiêm tốn hơn của các loài khác, [[chiều dài]] trung bình của loài chỉ hơi nhiều hơn một số cá sấu còn tồn tại khác ở 3,8–4 m (12&nbsp;ft 6 in-13&nbsp;ft 1 in).

[[Tập tin:Saltwater crocodile on a beach in Darwin, NT.jpg|thumb|Một con cá sấu tắm nắng trên bãi biển ở thành phố [[Darwin, Úc|Darwin]]]]


== Phân bố và môi trường sống ==
== Phân bố và môi trường sống ==
Dòng 43: Dòng 42:
Cá sấu nước mặn được tìm thấy khắp khu vực [[Đông Nam Á]] và vùng hải đảo [[Nam Thái Bình Dương]] trên các đảo lớn thuộc [[Papua New Guinea]], [[Indonesia]] và [[Timor-Leste]]. Trên [[bán đảo Trung-Ấn]], chúng [[Phạm vi (sinh học)|phân bố]] dọc theo các đồng bằng và cửa sông ở [[Myanmar]], [[Thái Lan]] và kéo dài đến miền trung-nam [[Việt Nam]] và [[bán đảo Mã Lai]]. Ở vùng hải đảo, chúng được tìm thấy ở [[Borneo]], [[Philippines]], [[Palau]], [[Vanuatu]] và [[Solomon]].
Cá sấu nước mặn được tìm thấy khắp khu vực [[Đông Nam Á]] và vùng hải đảo [[Nam Thái Bình Dương]] trên các đảo lớn thuộc [[Papua New Guinea]], [[Indonesia]] và [[Timor-Leste]]. Trên [[bán đảo Trung-Ấn]], chúng [[Phạm vi (sinh học)|phân bố]] dọc theo các đồng bằng và cửa sông ở [[Myanmar]], [[Thái Lan]] và kéo dài đến miền trung-nam [[Việt Nam]] và [[bán đảo Mã Lai]]. Ở vùng hải đảo, chúng được tìm thấy ở [[Borneo]], [[Philippines]], [[Palau]], [[Vanuatu]] và [[Solomon]].


Ở ven biển phía Bắc [[Úc]], [[Tây Úc]] và [[Queensland]], cá sấu nước mặn đang phát triển mạnh với số lượng dồi dào, đặc biệt là ở nhiều hệ thống sông ngòi gần [[Darwin (Úc)|Darwin]] như [[sông Adelaide]], sông Mary và sông Daly, cùng với các sông và cửa sông liền kề của chúng. Quần thể cá sấu nước mặn ở Úc ước tính khoảng 100.000 đến 200.000 con trưởng thành. Phạm vi của nó kéo dài từ Broome, Tây Úc qua toàn bộ bờ biển Lãnh thổ phía Bắc đến tận Rockhampton, Queensland. Sông Alligator ở vùng Arnhem Land bị đặt tên sai do sự tương đồng giữa cá sấu nước mặn với cá sấu Mỹ so với [[cá sấu mũi dài|cá sấu nước ngọt mũi dài]], loài cá sấu cũng sinh sống ở [[Lãnh thổ Bắc Úc]].
Ở ven biển phía Bắc [[Úc]], [[Tây Úc]] và [[Queensland]], cá sấu nước mặn đang phát triển mạnh với số lượng dồi dào, đặc biệt là ở nhiều hệ thống sông ngòi gần [[Darwin (Úc)|Darwin]] như [[sông Adelaide]], sông Mary và sông Daly, cùng với các [[hồ móng ngựa]] và cửa sông liền kề của chúng. Quần thể cá sấu nước mặn ở Úc ước tính khoảng 100.000 đến 200.000 con trưởng thành. Phạm vi của nó kéo dài từ Broome, Tây Úc qua toàn bộ bờ biển Lãnh thổ phía Bắc đến tận [[Rockhampton]], Queensland. Sông Alligator ở vùng [[Arnhem Land]], nơi tập trung một quần thể cá sấu lớn nhất tại Úc, bị đặt tên sai do người ta nhầm lẫn cá sấu nước mặn với loài [[Chi Cá sấu mõm ngắn|cá sấu mõm ngắn Mỹ]], nhằm phân biệt với [[cá sấu mũi dài|cá sấu nước ngọt mũi dài]], một loài cá sấu cũng sinh sống ở [[Lãnh thổ Bắc Úc]].

Do có xu hướng bơi xa trên biển, các cá thể cá sấu nước mặn đôi khi xuất hiện ở các khu vực xa phạm vi chung của chúng, chẳng hạn như ở [[Fiji]]. Cá sấu nước mặn thường trải qua mùa mưa nhiệt đới ở các đầm lầy và sông nước ngọt, di chuyển xuống hạ lưu đến các cửa sông vào mùa khô. Cá sấu cạnh tranh gay gắt với nhau để giành lãnh thổ, đặc biệt là những con đực chiếm ưu thế ở những đoạn sông và suối nước ngọt. Do đó, những cá thể vị thành niên bị buộc phải di chuyển tới các hệ thống sông ven biển và đôi khi ra đại dương. Điều này giải thích sự phân bố rộng lớn của loài này, cũng như việc chúng từng được tìm thấy ở những nơi xa xôi như [[Biển Nhật Bản]]. Giống như tất cả các loài cá sấu khác, chúng chỉ có thể tồn tại trong thời gian dài trong điều kiện nhiệt độ ấm áp và cá sấu rời khỏi các vùng của Úc theo mùa nếu các đợt khí hậu lạnh xảy ra trong khu vực.


Mặc dù có thể sống ở môi trường biển, nhưng cá sấu thường sống trong khu vực [[đầm lầy]] nước lợ, bao gồm [[rừng ngập mặn]], rừng [[đước]], [[cửa sông]], [[châu thổ]], [[đầm phá]] và vùng hạ nguồn của các con [[sông]].
Mặc dù có thể sống ở môi trường biển, nhưng cá sấu thường sống trong khu vực [[đầm lầy]] nước lợ, bao gồm [[rừng ngập mặn]], rừng [[đước]], [[cửa sông]], [[châu thổ]], [[đầm phá]] và vùng hạ nguồn của các con [[sông]].
Dòng 49: Dòng 50:
==Tập tính==
==Tập tính==
[[Tập tin:Crocodylus porosus foraging in surf at Maconacon - ZooKeys-266-001-g104-bottom.jpg|thumb|Một con cá sấu bơi gần bờ biển ở [[Maconacon]].]]
[[Tập tin:Crocodylus porosus foraging in surf at Maconacon - ZooKeys-266-001-g104-bottom.jpg|thumb|Một con cá sấu bơi gần bờ biển ở [[Maconacon]].]]
Cá sấu hoa cà là một loài động vật thông minh và có hành vi phức tạp. Chúng liên lạc với nhau thông qua những tiếng sủa và được thể hiện theo bốn cách. Cá sấu con sử dụng những âm cao rầu rĩ thành hồi ngắn và liên tục. Âm dùng để hăm dọa là tiếng húyt gió khi có kẻ lạ mặt xâm nhập lãnh địa. Cá sấu mới nở tạo ra những âm cao với những hồi ngắn, cuối cùng âm thanh ve vãn là những tiếng gầm nhẹ và dài. Cá sấu hoa cà sử dụng nhiệt độ môi trường để duy trì thân nhiệt của chúng. Chúng làm mát cơ thể trong nước và phơi ánh nắng để làm ấm cơ thể.
Cá sấu hoa cà là một loài động vật thông minh và có hành vi phức tạp. Chúng liên lạc với nhau thông qua những tiếng sủa và được thể hiện theo bốn cách. Cá sấu còn sử dụng những âm cao rầu rĩ thành hồi ngắn và liên tục. Âm dùng để hăm dọa là tiếng húyt gió khi có kẻ lạ mặt xâm nhập lãnh địa. Cá sấu mới nở tạo ra những âm cao với những hồi ngắn, cuối cùng âm thanh ve vãn là những tiếng gầm nhẹ và dài. Cá sấu hoa cà sử dụng nhiệt độ môi trường để duy trì thân nhiệt của chúng. Chúng làm mát cơ thể trong nước và phơi ánh nắng để làm ấm cơ thể.
[[Tập tin:Saltwater Crocodile (Crocodylus porosus) (8851846180).jpg|thumb|Cá sấu nước mặn, thậm chí là những con đã trưởng thành, có thể nhảy lên khỏi mặt để bắt mồi, mặc dù thường được nhìn thấy như vậy khi bị thu hút bởi mồi nhử, như trong bức ảnh này]]
[[Tập tin:Saltwater Crocodile (Crocodylus porosus) (8851846180).jpg|thumb|Cá sấu nước mặn, thậm chí là những con đã trưởng thành, có thể nhảy lên khỏi mặt để bắt mồi, mặc dù thường được nhìn thấy như vậy khi bị thu hút bởi mồi nhử, như trong bức ảnh này]]
[[File:Saltwater Crocodile on a river bank.jpg|thumb|Một con cá sấu đang tắm nắng]]
Đây là loài cá sấu có khả năng chịu được nước mặn và thường sống ở vùng [[ven biển]] hoặc quanh các [[cửa sông]]. Chúng cũng được tìm thấy ở nơi nước ngọt gần sông và vùng ngập lụt. Cá sấu con lớn lên trong các con sông trong suốt mùa ẩn ướt từ [[tháng mười hai|tháng 12]] đến [[tháng ba|tháng 3]] năm sau.
Hành vi cơ bản để phân biệt cá sấu nước mặn với các loài cá sấu khác là xu hướng sinh sống trong môi trường nước mặn của nó. Mặc dù các loài cá sấu khác cũng có tuyến muối cho phép chúng tồn tại trong nước mặn, một đặc điểm mà các loài cá sấu mõm ngắn không có, hầu hết các loài khác không mạo hiểm ra biển ngoại trừ trong điều kiện khắc nghiệt. Ngoài ra, không như các loài cá sâu khác, cá sấu nước mặn có tập tính bảo vệ lãnh thổ cao hơn và ít chịu đựng việc chung sống với những đồng loại của chúng; những con đực trưởng thành sẽ chia sẻ lãnh thổ với những con cái, nhưng sẽ xua đuổi những con đực đối thủ.

Cá sấu nước mặn có khả năng bơi đường trường rất tốt, chúng sử dụng dòng [[hải lưu]] để di chuyển quãng đường dài. Ở Úc, 20 con cá sấu đã được gắn thẻ truyền vệ tinh; tám con trong số đó đã mạo hiểm ra biển khơi, và một trong số chúng đã đi 590 km (370 dặm) dọc theo bờ biển trong 25 ngày từ Sông Bắc Kennedy trên bờ biển phía đông của Viễn Bắc Queensland, xung quanh [[Bán đảo Cape York]], đến bờ biển phía tây trong [[vịnh Carpentaria]]. Một cá thể khác đã bơi 411 km (255 mi) trong 20 ngày. Không cần phải bơi nhiều, đôi khi chúng chỉ đơn giản thả mình trôi trên mặt nước để bảo toàn năng lượng. Chúng bị gián đoạn di chuyển và cư trú trong các vịnh được rào lại phòng thời tiết xấu trong vài ngày cho đến khi dòng hải lưu đổi hướng. Đôi khi, chúng cũng bơi ngược lên các hệ thống sông.

Giống như nhiều loài cá sấu khác, cá sấu nước mặn thường chỉ sống lờ đờ suốt ngày nếu không đi săn mồi, một đặc điểm giúp chúng tồn tại hàng tháng trời trong thời gian không có thức ăn, cá sấu nước mặn thường nằm lờ đờ dưới nước hoặc phơi mình dưới ánh nắng mặt trời vào phần lớn thời gian trong ngày, thích săn mồi vào ban đêm. Một nghiên cứu về hành vi cá sấu nước mặn theo mùa ở Úc chỉ ra rằng chúng hoạt động nhiều hơn và có nhiều khả năng ở dưới nước hơn trong mùa hè ở Úc; ngược lại, chúng ít hoạt động hơn và dành nhiều thời gian hơn để phơi nắng trong mùa đông. Tuy nhiên, cá sấu nước mặn là loài hoạt động tích cực nhất trong số các loài cá sấu, dành nhiều thời gian bơi lội và hoạt động nhiều hơn, đặc biệt là ở dưới nước. Chúng [[động vật trên cạn|sống trên cạn]] ít hơn nhiều so với hầu hết các loài cá sấu, ngoại trừ việc phơi nắng để [[điều hòa thân nhiệt]]. Đôi khi, chúng có xu hướng dành nhiều tuần trên biển để tìm kiếm đất liền và trong một số trường hợp, những vết [[hà]] đã được quan sát thấy phát triển trên vảy cá sấu, cho thấy thời gian dài chúng ở trên biển.

Mặc dù tương đối lờ đờ, cá sấu nước mặn là những kẻ săn mồi nhanh nhẹn và thể hiện sự nhanh nhẹn và tốc độ đáng ngạc nhiên khi cần thiết, thường là trong các cuộc tấn công con mồi. Chúng cũng có thể bơi với tốc độ 24 đến 29 km/h (15 đến 18 dặm/giờ) trong những quãng ngắn, nhanh gấp khoảng ba lần so với những vận động viên bơi nhanh nhất của con người, nhưng khi bơi trong trạng thái bình thường, chúng thường di chuyển với tốc độ 3 đến 5 km/h (2 đến 3 mph). Mặc dù những câu chuyện về cá sấu nhanh hơn ngựa đua trong khoảng cách ngắn trên cạn là hoàn toàn phóng đại, nhưng ở mép nước, chúng có thể kết hợp lực đẩy từ cả hai chân và đuôi để tạo ra những tình huống phục kích đột ngột với tốc độ cực lớn.


===Chế độ ăn uống===
===Chế độ ăn uống===
Dòng 57: Dòng 65:
Loài cá sấu này săn mồi rất đa dạng, cá sấu con ăn những loài [[côn trùng]] nhỏ, động vật [[lưỡng cư]], [[bò sát]], [[giáp xác]] và những loài [[cá]] nhỏ. Tuy nhiên những con trưởng thành cũng sẽ nhắm đến những con mồi nhỏ này nếu không có nhiều sự lựa chọn khác. Trong số các loài giáp xác, [[Scylla serrata|cua biển]] của chi [[Scylla (chi cua)|Scylla]] được xem là con mồi ưa thích nhất của cá sấu, đặc biệt là trong môi trường sống ngập mặn. Các loài chim như [[đà điểu Emu]] và các loại chim nước khác nhau, đặc biệt là [[ngỗng bồ các]], là loài thường bị cá sấu săn nhất, do cơ hội bắt gặp nhiều hơn. Ngay cả những con chim và dơi bay nhanh có thể bị cá sấu phóng lên đớp sống một cách chớp nhoáng nếu bay gần mặt nước, cũng như những con [[chim lội]] khi chúng đang bay quanh bờ để tìm kiếm thức ăn, thậm chí cả những loài [[choắt nhỏ]].
Loài cá sấu này săn mồi rất đa dạng, cá sấu con ăn những loài [[côn trùng]] nhỏ, động vật [[lưỡng cư]], [[bò sát]], [[giáp xác]] và những loài [[cá]] nhỏ. Tuy nhiên những con trưởng thành cũng sẽ nhắm đến những con mồi nhỏ này nếu không có nhiều sự lựa chọn khác. Trong số các loài giáp xác, [[Scylla serrata|cua biển]] của chi [[Scylla (chi cua)|Scylla]] được xem là con mồi ưa thích nhất của cá sấu, đặc biệt là trong môi trường sống ngập mặn. Các loài chim như [[đà điểu Emu]] và các loại chim nước khác nhau, đặc biệt là [[ngỗng bồ các]], là loài thường bị cá sấu săn nhất, do cơ hội bắt gặp nhiều hơn. Ngay cả những con chim và dơi bay nhanh có thể bị cá sấu phóng lên đớp sống một cách chớp nhoáng nếu bay gần mặt nước, cũng như những con [[chim lội]] khi chúng đang bay quanh bờ để tìm kiếm thức ăn, thậm chí cả những loài [[choắt nhỏ]].


Cá sấu trưởng thành chủ yếu ăn [[cua]], [[còng]], [[rùa]], [[rắn]], [[chim]]; thậm chí là những loài thú lớn hơn như [[nai]], [[lợn lòi]], [[lợn vòi]], [[khỉ]], [[kangaroo]], [[chó Dingo]] và những loài có kích thước lớn thuộc [[họ Trâu bò]] chẳng hạn như [[trâu|trâu nước]], [[bò banteng]], và [[bò tót]]. Tuy nhiên, những con mồi lớn chỉ được chúng săn ngẫu nhiên do thực tế chỉ có những con đực lớn mới đủ khả năng tấn công và những con mồi lớn chỉ phân bố thưa thớt trong phạm vi sinh sống của loài cá sấu này, ngoài một số khu vực quan trọng như [[Sundarbans]]. Bất kỳ loại vật nuôi nào như [[gà]], [[cừu]], [[lợn]], [[ngựa]] [[bò]] những vật nuôi thuần hóa khác, cá sấu đều có thể ăn được nếu có cơ hội. Là một loài sinh vật sống được ở biển, cá sấu nước mặn cũng săn nhiều loài cá nước mặn và các loài động vật biển khác, bao gồm [[rắn biển]], [[rùa biển]], [[chim biển]], [[cá cúi|dugong]] và [[cá đuối]]. Chúng cũng hay săn những con cá sấu nhỏ hơn chúng như [[cá sấu mũi dài|cá sấu nước ngọt]]. Ngoài ra, những con cá sấu sống ở cửa sông và ven biển còn săn cả những loài [[cá mập]] cỡ nhỏ hoặc trung bình như [[cá mập bò mắt trắng|cá mập bò]]. Khi săn mồi chúng giấu mình trong nước và chỉ để lộ mắt và mũi trên mặt nước. Chúng bất thình lình tấn công con mồi, thường thì con mồi bị giết ngay sau một cú cắn chí mạng bởi hàm rắng chắc khỏe của chúng, sau đó con mồi được kéo xuống nước.
Cá sấu trưởng thành chủ yếu ăn [[cua]], [[còng]], [[rùa]], [[rắn]], [[chim]]; thậm chí là những loài thú lớn hơn như [[nai]], [[lợn lòi]], [[lợn vòi]], [[lợn hoang]], [[khỉ]], [[kangaroo]], [[đười ươi]], [[chó Dingo]] và những loài có kích thước lớn thuộc [[họ Trâu bò]] chẳng hạn như [[trâu|trâu nước]], [[bò banteng]], và [[bò tót]]. Tuy nhiên, những con mồi lớn chỉ được chúng săn ngẫu nhiên do thực tế chỉ có những con đực lớn mới đủ khả năng tấn công và những con mồi lớn chỉ phân bố thưa thớt trong phạm vi sinh sống của loài cá sấu này, ngoài một số khu vực quan trọng như [[Sundarbans]]. Bất kỳ loài vật nuôi thuần hóa nào như [[gà]], [[cừu]], [[lợn]], [[ngựa]], [[bò]] hay thậm chí cả [[người]], cá sấu đều có thể ăn được nếu có cơ hội. Là một loài sinh vật sống được ở biển, cá sấu nước mặn cũng săn nhiều loài cá nước mặn và các loài động vật biển khác, bao gồm [[rắn biển]], [[rùa biển]], [[chim biển]], [[cá cúi|dugong]] và [[cá đuối]]. Chúng cũng hay săn những con cá sấu nhỏ hơn chúng như [[cá sấu mũi dài|cá sấu nước ngọt mũi dài]]. Ngoài ra, những con cá sấu sống ở cửa sông và ven biển còn săn cả những loài [[cá mập]] cỡ nhỏ hoặc trung bình như [[cá mập bò mắt trắng|cá mập bò]]. Khi săn mồi chúng giấu mình trong nước và chỉ để lộ mắt và mũi trên mặt nước. Chúng bất thình lình tấn công con mồi, thường thì con mồi bị giết ngay sau một cú cắn chí mạng bởi hàm rắng chắc khỏe của chúng, sau đó con mồi được kéo xuống nước.


Cá sấu nước mặn cũng có nhiều đối thủ cạnh tranh nguồn thức ăn trong tự nhiên, đặc biệt là [[hổ]], dù hai loài động vật này hiếm khi xung đột với nhau. Tuy nhiên vào năm 2010 một con cá sấu cửa sông đã giết chết một con [[hổ Bengal]] khi nó đang bơi qua sông tại [[vườn quốc gia Sundarbans]], [[Ấn Độ]].
Cá sấu nước mặn cũng có một số đối thủ cạnh tranh nguồn thức ăn trong tự nhiên, đặc biệt là [[hổ]], mặc dù hai loài động vật này hiếm khi xung đột với nhau. Tuy nhiên vào năm 2010, một con cá sấu cửa sông đã giết chết một con [[hổ Bengal]] khi nó đang bơi qua sông tại [[vườn quốc gia Sundarbans]], [[Ấn Độ]].


== Sinh sản ==
== Sinh sản ==
Chúng sinh sản trong khu vực nước ngọt vào mùa ẩm ướt. Con đực đánh dấu lãnh địa mình và bảo vệ lãnh địa này khi cá sấu đực khác có ý xâm phạm. Cá sấu đực không có khả năng bảo vệ lãnh địa sẽ phải tìm một khúc sông khác. Cá sấu cái trưởng thành khi đạt 10-12 năm tuổi, trong khi con đực có tuổi trưởng thành là 16 năm tuổi. Cá sấu cái đẻ trung bình khoảng 40-60 trứng nhưng cũng có thể đẻ đến 90 trứng. Trứng được đẻ vào trong tổ được làm từ thân cây nhỏ và bùn, tổ được làm nâng lên cao để tránh bị cuốn đi khi có ngập lụt trong suốt mùa mưa. Cá sấu cái bảo vệ tổ cho đến khi trứng nở trong thời gian 90 ngày và phụ thuộc vào nhiệt độ của tổ. Giới tính cá sấu con được xác định bởi nhiệt độ của tổ, nhiệt độ ấp của cá sấu mẹ là 31&nbsp;°C. Bất kì sự biến đổi nào về nhiệt độ sẽ tạo ra nhiều con cái. Khi cá sấu mẹ nghe tiếng kêu của cá sấu non vừa nở nó sẽ đào tổ lên, đưa bầy con vào miệng trở về môi trường nước và chăm sóc cho đến khi chúng bơi được.
Chúng sinh sản trong khu vực nước ngọt vào mùa ẩm ướt. Cá sấu cái trưởng thành khi đạt 10-12 năm tuổi, trong khi con đực có tuổi trưởng thành là 16 năm tuổi. Cá sấu cái đẻ trung bình khoảng 40-60 trứng nhưng cũng có thể đẻ đến 90 trứng. Trứng được đẻ vào trong tổ được làm từ thân cây nhỏ và bùn, tổ được làm nâng lên cao để tránh bị cuốn đi khi có ngập lụt trong suốt mùa mưa. Cá sấu cái bảo vệ tổ cho đến khi trứng nở trong thời gian 90 ngày và phụ thuộc vào nhiệt độ của tổ. Giới tính cá sấu con được xác định bởi nhiệt độ của tổ, nơi nhiệt độ ấp của cá sấu mẹ thường là 31&nbsp;°C. Bất kì sự biến đổi nào về nhiệt độ sẽ tạo ra nhiều con cái. Khi cá sấu mẹ nghe tiếng kêu của cá sấu non vừa nở nó sẽ đào tổ lên, đưa bầy con vào miệng trở về môi trường nước và chăm sóc cho đến khi chúng bơi được. Con cái bảo vệ tổ và con non khỏi những kẻ săn mồi khác. Cá sấu con lớn lên trong các con sông trong suốt mùa ẩm ướt từ [[tháng mười hai|tháng 12]] đến [[tháng ba|tháng 3]] năm sau.


==Tấn công con người==
==Tấn công con người==
{{Xem thêm|Cá sấu tấn công}}
{{Xem thêm|Cá sấu tấn công}}
[[Tập tin:Kakadu 2430.jpg|thumb|upright|Một biển báo cấm bơi lội để tránh bị [[cá sấu tấn công]] ở [[vườn quốc gia Kakadu]], [[Lãnh thổ Bắc Úc|Bắc Úc]].]]
[[Tập tin:Kakadu 2430.jpg|thumb|upright|Một biển báo cấm bơi lội để tránh bị [[cá sấu tấn công]] ở [[vườn quốc gia Kakadu]], [[Lãnh thổ Bắc Úc|Bắc Úc]].]]
Trong số tất cả các loài cá sấu, cá sấu nước mặn khả năng xem con người như một con mồi mạnh mẽ nhất, và có một lịch sử lâu dài tấn công con người khi con người vô tình xâm phạm vào lãnh thổ của nó. Do sức mạnh, tính tình hung dữ máu lạnh, kích thước và tốc độ đáng sợ, cá sấu nước mặn được xem là một trong những loài sấu nguy hiểm nhất thế giới. Trái ngược với chính sách của Mỹ khuyến khích cùng tồn tại với cá sấu, khuyến cáo duy nhất để đối phó với cá sấu nước mặn là hoàn toàn tránh xa môi trường sống của chúng bất cứ khi nào có thể, vì chúng cực kỳ hung hăng nếu cảm thấy bị xâm phạm.
Trong số tất cả các loài cá sấu, cá sấu nước mặn [[cá sấu sông Nin]] thường [[động vật ăn thịt người|xem con người như một con mồi]], và có một lịch sử lâu dài tấn công con người khi con người vô tình xâm phạm vào lãnh thổ của nó. Do sức mạnh cùng với kích thước và tốc độ đáng sợ, khả năng sống sót của con người khi bị cá sấu nước mặn tấn công gần như là không thể, nếu đó là một cuộc tấn công trực diện. Do đó, đây được xem là một trong những loài thú nguy hiểm nhất thế giới. Trái ngược với chính sách của Mỹ khuyến khích cùng tồn tại với cá sấu mõm ngắn, khuyến cáo duy nhất để đối phó với cá sấu nước mặn là hoàn toàn tránh xa môi trường sống của chúng bất cứ khi nào có thể, vì chúng cực kỳ hung hăng nếu cảm thấy bị xâm phạm.
[[Tập tin:Marine Stingers Sign Cairns.JPG|200px|nhỏ|phải|Một biển cảnh báo cá sấu ở [[bãi biển Trinity]], [[Queensland]], [[Úc]]]]
[[Tập tin:Marine Stingers Sign Cairns.JPG|200px|nhỏ|phải|Một biển cảnh báo cá sấu ở [[bãi biển Trinity]], [[Queensland]], [[Úc]]]]
Ở [[Úc]], đặc biệt là ở [[lãnh thổ Bắc Úc|phía Bắc nước này]], dân số cá sấu được cho là còn đông hơn người. Nhờ được bảo tồn nghiêm ngặt nên số lượng cá sấu tăng lên đáng kể, hễ nơi nào có nước như ao hồ, sông suối, nơi đấy có cá sấu. Thậm chí ngoài biển khơi cách bờ đến 300&nbsp;km, vẫn có nhiều tàu bè nhìn thấy cá sấu nước mặn ở Úc lượn lờ ngoài biển. Những dữ liệu chính xác về các cuộc tấn công bị giới hạn ở những nơi bên ngoài nước Úc, nơi một hoặc hai vụ tấn công gây tử vong được báo cáo mỗi năm. Từ năm 1971 đến năm 2013, tổng số ca tử vong được báo cáo tại Úc do cá sấu nước mặn là 106. Mức độ tấn công thấp có thể là do những nỗ lực của các nhà nghiên cứu động vật hoang dã ở Úc đã đặt các dấu hiệu cảnh báo cá sấu tại nhiều kênh, sông, hồ và bãi biển nơi được cho là có mối nguy hiểm từ cá sấu, giúp người dân tránh xa khu vực đó. Ngoài ra, các cuộc tấn công gần đây và ít được công bố đã được báo cáo ở [[Borneo]], [[Sumatra]], Đông Ấn Độ (quần đảo Andaman), và Miến Điện. Tại Sarawak, Borneo, số vụ tấn công gây tử vong trung bình được báo cáo là 2,8 mỗi năm trong những năm từ 2000 đến 2003. Tại Bắc Úc, nỗ lực di dời những con cá sấu nước mặn có biểu hiện hung hăng đối với con người đã được thực hiện, nhưng điều này đã không hiệu quả vì cá sấu dường như có thể tự tìm được đường về lãnh thổ ban đầu của mình. Trong khu vực Darwin từ 2007-2009, 67-78% những con cá sấu trở về chỗ ở cũ được xác định là giống đực.
Những dữ liệu chính xác về các cuộc tấn công bị giới hạn ở những nơi bên ngoài nước Úc, nơi một hoặc hai vụ tấn công gây tử vong được báo cáo mỗi năm. Từ năm 1971 đến năm 2013, tổng số ca tử vong được báo cáo tại Úc do cá sấu nước mặn là 106 ca. Mức độ tấn công thấp có thể là do những nỗ lực của các nhà nghiên cứu động vật hoang dã ở Úc đã đặt các dấu hiệu cảnh báo cá sấu tại nhiều kênh, sông, hồ và bãi biển nơi được cho là có mối nguy hiểm từ cá sấu, giúp người dân tránh xa khu vực đó. Ngoài ra, các cuộc tấn công gần đây và ít được công bố đã được báo cáo ở [[Borneo]], [[Sumatra]], Đông Ấn Độ (quần đảo Andaman), và Miến Điện. Tại Sarawak, Borneo, số vụ tấn công gây tử vong trung bình được báo cáo là 2,8 mỗi năm trong những năm từ 2000 đến 2003. Tại Bắc Úc, nỗ lực di dời những con cá sấu nước mặn có biểu hiện hung hăng đối với con người đã được thực hiện, nhưng điều này đã không hiệu quả vì cá sấu dường như có thể tự tìm được đường về lãnh thổ ban đầu của mình. Trong khu vực Darwin từ 2007-2009, 67-78% những con cá sấu trở về chỗ ở cũ được xác định là giống đực.

Nhiều cuộc tấn công ở các khu vực bên ngoài nước Úc được cho là không được báo cáo, với một nghiên cứu đặt ra tới 20 đến 30 vụ tấn công xảy ra hàng năm. Con số này có thể thận trọng đối với một số khu vực nơi con người và cá sấu nước mặn cùng tồn tại ở các khu vực nông thôn và kinh tế tương đối kém phát triển, kinh tế thấp, nơi các cuộc tấn công có khả năng không được báo cáo. Tuy nhiên, những tuyên bố trong quá khứ rằng cá sấu nước mặn phải chịu trách nhiệm cho hàng ngàn người tử vong hàng năm là cường điệu và có thể làm sai lệch lợi ích cho các công ty da, các tổ chức săn bắn và các nguồn khác có thể hưởng lợi từ việc tối đa hóa nhận thức tiêu cực về cá sấu cho nguồn tài chính đạt được. Mặc dù cá sấu là một loài động vật không có lý do gì để không xem con người như con mồi, tuy nhiên nhiều con cá sấu nước mặn hoang dã thường rất cảnh giác với con người và sẽ chủ động rút lui, chúng lặn xuống nước và bơi xa ra, thậm chí ngay cả những con đực trưởng thành vốn rất hiếu chiến, nếu trước đây nó từng bị con người quấy rầy hoặc bị truy sát. Khả năng cá sấu tấn công con người vì con người đi vào lãnh thổ của nó cao hơn là do tập tính ăn thịt trong tự nhiên. Với cá sấu trên hai tuổi, chúng thường tấn công bất cứ thứ gì đi vào lãnh thổ của nó (bao gồm cả tàu thuyền). Con người thường có thể thoát khỏi những cuộc chạm trán như vậy, bao gồm khoảng một nửa tất cả các cuộc tấn công. Các cuộc tấn công không gây tử vong thường liên quan đến cá sấu dài 3 m (9&nbsp;ft 10 in) hoặc ít hơn. Các cuộc tấn công gây tử vong, nhiều khả năng là có động cơ ăn thịt, thường liên quan đến cá sấu lớn hơn với kích thước ước tính trung bình là 4,3 m (14&nbsp;ft 1 in). Trong hoàn cảnh bình thường, [[cá sấu sông Nile]] được cho là phải chịu trách nhiệm về số lượng các cuộc tấn công gây tử vong trên người hơn là cá sấu nước mặn, nhưng điều này có thể liên quan đến thực tế là nhiều người ở Châu Phi có xu hướng dựa vào các khu vực ven sông để kiếm sống, ít phổ biến ở hầu hết châu Á và chắc chắn ít hơn ở Úc. Ở quần đảo Andaman, số lượng các cuộc tấn công gây tử vong cho con người đã được báo cáo tăng lên, lý do suy ra do sự phá hủy môi trường sống và giảm con mồi tự nhiên của cá sấu.


Vào giai đoạn cuối cuộc [[chiến tranh thế giới thứ hai]], khi [[đế quốc Nhật Bản]] rút quân khỏi [[đảo Ramree]] nằm trên [[vịnh Bengal]] ngoài khơi Myanmar vào ngày 19 tháng 2 năm [[1945]], loài cá sấu nước mặn được cho là phải chịu trách nhiệm về cái chết của hơn 400 binh sĩ Nhật Bản. Những người lính Anh bao vây vùng đầm lầy mà quân Nhật đang rút lui suốt một đêm trong cánh rừng ngập mặn, nơi có hàng ngàn con cá sấu nước mặn đang ẩn náu và phục kích họ. Nhiều người lính Nhật đã không sống sót qua một đêm này. Trong số 1.000 lính Nhật tiến vào khu đầm lầy trên đảo Ramree, chỉ có khoảng 20 người sống sót thoát được ra ngoài.<ref>{{cite web|url=https://vnexpress.net/trung-doan-linh-nhat-bi-ca-sau-xoa-so-tren-dao-hoang-3368893.html|title=Trung đoàn lính Nhật bị cá sấu xóa sổ trên đảo hoang|publisher=VnExpress|date=13 tháng 3 năm 2016}}</ref> Tuy nhiên lí do cá sấu tấn công bị nghi ngờ là không thuyết phục. Một vụ tấn công hàng loạt khác được báo cáo liên quan đến một hành trình ở miền đông Ấn Độ, một con thuyền gặp nạn khiến 28 người rơi xuống nước, họ được báo cáo là bị cá sấu nước mặn ăn thịt. Một vụ cá sấu tấn công khét tiếng khác là vào năm 1985, liên quan đến nhà sinh thái học Val Plumwood, người may mắn sống sót sau vụ tấn công.
Nhiều cuộc tấn công ở các khu vực bên ngoài nước Úc được cho là không được báo cáo, với một nghiên cứu đặt ra tới 20 đến 30 vụ tấn công xảy ra hàng năm. Con số này có thể được bảo thủ trong ánh sáng của một số khu vực nơi con người và cá sấu nước mặn cùng tồn tại ở các vùng nông thôn kém phát triển, kinh tế thấp, nơi các cuộc tấn công có khả năng không được báo cáo. Tuy nhiên, những tuyên bố trong quá khứ rằng cá sấu nước mặn phải chịu trách nhiệm cho hàng ngàn người tử vong hàng năm là cường điệu và có thể làm sai lệch lợi ích cho các công ty da, các tổ chức săn bắn và các nguồn khác có thể hưởng lợi từ việc tối đa hóa nhận thức tiêu cực về cá sấu cho nguồn tài chính đạt được. Mặc dù cá sấu là một loài động vật không có lý do gì để không xem con người như con mồi, tuy nhiên nhiều con cá sấu nước mặn hoang dã thường rất cảnh giác với con người và sẽ chủ động rút lui, chúng chìm xuống nước và bơi xa ra, thậm chí ngay cả những con đực trưởng thành vốn rất hiếu chiến, nếu trước đây nó từng bị con người quấy rầy hoặc bị truy sát. Khả năng cá sấu tấn công con người vì con người đi vào lãnh thổ của nó cao hơn là do tập tính ăn thịt trong tự nhiên. Với cá sấu trên hai tuổi, chúng thường tấn công bất cứ thứ gì đi vào lãnh thổ của nó (bao gồm cả tàu thuyền). Con người thường có thể thoát khỏi những cuộc chạm trán như vậy, bao gồm khoảng một nửa tất cả các cuộc tấn công. Các cuộc tấn công không gây tử vong thường liên quan đến cá sấu dài 3 m (9&nbsp;ft 10 in) hoặc ít hơn. Các cuộc tấn công gây tử vong, nhiều khả năng là có động cơ ăn thịt, thường liên quan đến cá sấu lớn hơn với kích thước ước tính trung bình là 4,3 m (14&nbsp;ft 1 in). Trong hoàn cảnh bình thường, [[cá sấu sông Nile]] được cho là phải chịu trách nhiệm về số lượng các cuộc tấn công gây tử vong trên người hơn là cá sấu nước mặn, nhưng điều này có thể liên quan đến thực tế là nhiều người ở Châu Phi có xu hướng dựa vào các khu vực ven sông để kiếm sống, ít phổ biến ở hầu hết châu Á và chắc chắn ít hơn ở Úc. Ở quần đảo Andaman, số lượng các cuộc tấn công gây tử vong cho con người đã được báo cáo tăng lên, lý do suy ra do sự phá hủy môi trường sống và giảm con mồi tự nhiên của cá sấu.


Vào tháng 7 năm 2018, một đám đông 600 người đã tàn sát 292 con cá sấu nước mặn và cá sấu New Guinea ở tỉnh [[Papua]], Indonesia trong một cuộc tấn công trả thù sau khi một người đàn ông xâm phạm khu bảo tồn bị ăn thịt.
Trong cuộc rút quân của Nhật Bản trong [[trận Ramree]] vào ngày 19 tháng 2 năm 1945, cá sấu nước mặn được cho là phải chịu trách nhiệm về cái chết của hơn 400 binh sĩ Nhật Bản. Những người lính Anh bao vây vùng đầm lầy mà quân Nhật đang rút lui suốt một đêm trong cánh rừng ngập mặn, nơi có hàng ngàn con cá sấu nước mặn đang ẩn náo. Nhiều người lính Nhật đã không sống sót qua một đêm này. Tuy nhiên lí do cá sấu tấn công bị nghi ngờ là không thuyết phục. Một vụ tấn công hàng loạt khác được báo cáo liên quan đến một hành trình ở miền đông Ấn Độ, một con thuyền gặp nạn buộc 28 người rơi xuống nước, họ được báo cáo là bị cá sấu nước mặn ăn thịt. Một cuộc cá sấu tấn công khét tiếng khác là vào năm 1985, liên quan đến nhà sinh thái học Val Plumwood, người may mắn sống sót sau vụ tấn công.


== Tình trạng bảo tồn ==
== Tình trạng bảo tồn ==
[[Tập tin:Saltwater Crocodile (Crocodylus porosus) (8851850268).jpg|thumb|left|Một con cá sấu nước mặn đang bơi dưới một đầm lầy.]]
[[Tập tin:Saltwater Crocodile (Crocodylus porosus) (8851850268).jpg|thumb|left|Một con cá sấu nước mặn đang bơi dưới một đầm lầy.]]
[[File:Large crocodile in park.jpg|thumb|Cá sấu nước mặn trong [[vườn thú]].]]
Tình trạng bảo tồn hiện nay của loài này theo [[Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế|IUCN]] là ít quan tâm (lower risk/least concern).<ref name="IUCN" />. Hiện tại, loài này được liệt kê trong CITES như sau:
Tình trạng bảo tồn hiện nay của loài này theo [[Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế|IUCN]] là ít quan tâm (lower risk/least concern).<ref name="IUCN" />. Hiện tại, loài này được liệt kê trong CITES như sau:
* Phụ lục I (cấm tất cả các giao thương thương mại trong các loài hoặc các sản phẩm phụ của nó): Tất cả các quần thể hoang dã ngoại trừ các quần thể ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea;
* Phụ lục I (cấm tất cả các giao thương thương mại trong các loài hoặc các sản phẩm phụ của nó): Tất cả các quần thể hoang dã ngoại trừ các quần thể ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea;
* Phụ lục II (thương mại được phép xuất khẩu, giấy phép nhập khẩu có thể hoặc không bắt buộc tùy thuộc vào luật của nước nhập khẩu): Quần thể ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea, cộng với tất cả các quần thể trên thế giới được nuôi nhốt vì mục đích thương mại.
* Phụ lục II (thương mại được phép xuất khẩu, giấy phép nhập khẩu có thể hoặc không bắt buộc tùy thuộc vào luật của nước nhập khẩu): Quần thể ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea, cộng với tất cả các quần thể trên thế giới được nuôi nhốt vì mục đích thương mại.


Cá sấu nước mặn thường bị săn bắt vì thịt và trứng của nó, và da của nó là giá trị thương mại nhất của bất kỳ loài cá sấu nào. Săn bắn không được kiểm soát trong thế kỷ 20 gây ra sự suy giảm đáng kể trong các loài trong phạm vi của nó, với số lượng ở miền bắc Australia giảm 95% vào năm 1971. Những năm 1940-1970 là đỉnh của săn bắn không được kiểm soát và có thể gây thiệt hại không thể khắc phục quần thể cá sấu nước mặn. Loài này hiện đang có sự bảo vệ pháp lý đầy đủ ở tất cả các bang và vùng lãnh thổ của Úc nơi nó được tìm thấy - [[Tây Úc]] (từ năm 1970), [[Lãnh thổ Bắc Úc]] (từ năm 1971) và [[Queensland]] (từ năm 1974). Săn bắn bất hợp pháp vẫn còn tồn tại ở một số khu vực, với việc bảo vệ ở một số quốc gia không hiệu quả một cách đáng kể, và việc buôn bán thường khó theo dõi và kiểm soát trên phạm vi rộng lớn như vậy. Tuy nhiên, nhiều khu vực chưa hồi phục; một số khảo sát cho thấy mặc dù những con cá sấu trẻ còn tồn tại, ít hơn 10% mẫu vật được phát hiện ở phạm vi kích thước trưởng thành và không bao gồm những con đực đặc biệt lớn ở [[Sri Lanka]] hay Cộng hòa [[Palau]]. Đây là dấu hiệu của cả sự khủng bố và khai thác tiếp tục tiềm tàng và quần thể sinh sản không hồi phục. Trong một quần thể cân bằng hơn, chẳng hạn như những cá thể từ [[vườn quốc gia Bhitarkanika]] hoặc [[Sabah]], [[Malaysia]], 28% và 24,2% mẫu vật quan sát thấy trong phạm vi kích thước lớn hơn 3 m (9&nbsp;ft 10 in).
Cá sấu nước mặn thường bị săn bắt vì [[thịt cá sấu|thịt]] và trứng của nó, và da của nó là giá trị thương mại nhất của bất kỳ loài cá sấu nào. Săn bắn không được kiểm soát trong thế kỷ 20 gây ra sự suy giảm đáng kể trong các loài trong phạm vi của nó, với số lượng ở miền bắc Australia giảm 95% vào năm 1971. Những năm 1940-1970 là đỉnh của săn bắn không được kiểm soát và có thể gây thiệt hại không thể khắc phục quần thể cá sấu nước mặn. Loài này hiện đang có sự bảo vệ pháp lý đầy đủ ở tất cả các bang và vùng lãnh thổ của Úc nơi nó được tìm thấy - [[Tây Úc]] (từ năm 1970), [[Lãnh thổ Bắc Úc]] (từ năm 1971) và [[Queensland]] (từ năm 1974). Nhờ chính sách bảo tồn nghiêm ngặt tại [[Úc]], quần thể cá sấu đã tăng đáng kể, và thậm chí đông đúc hơn người ở một số khu vực, nơi mà chúng có thể sinh sống ở bất cứ nơi nào có nước như ao hồ, sông suối, thậm chí là những vùng nước nông.<ref>{{cite web|url=https://vnexpress.net/cai-chet-rinh-rap-duoi-vung-nuoc-nong-o-australia-3660311.html|title=Cái chết rình rập dưới vùng nước nông ở Australia|publisher=VnExpress|date=29 tháng 10 năm 2017}}</ref> Săn bắn bất hợp pháp vẫn còn tồn tại ở một số khu vực, với việc bảo vệ ở một số quốc gia không hiệu quả một cách đáng kể, và việc buôn bán thường khó theo dõi và kiểm soát trên phạm vi rộng lớn như vậy. Tuy nhiên, nhiều khu vực chưa hồi phục; một số khảo sát cho thấy mặc dù những con cá sấu trẻ còn tồn tại, ít hơn 10% mẫu vật được phát hiện ở phạm vi kích thước trưởng thành và không bao gồm những con đực đặc biệt lớn ở [[Sri Lanka]] hay Cộng hòa [[Palau]]. Đây là dấu hiệu của cả sự khủng bố và khai thác tiếp tục tiềm tàng và quần thể sinh sản không hồi phục. Trong một quần thể cân bằng hơn, chẳng hạn như những cá thể từ [[vườn quốc gia Bhitarkanika]] hoặc [[Sabah]], [[Malaysia]], 28% và 24,2% mẫu vật quan sát thấy trong phạm vi kích thước lớn hơn 3 m (9&nbsp;ft 10 in).


Mất môi trường sống tiếp tục là một vấn đề lớn đối với các loài. Ở miền bắc Australia, phần lớn sinh cảnh làm tổ của cá sấu nước mặn là dễ bị chà đạp bởi [[trâu]] nước hoang dã, mặc dù các chương trình diệt trừ trâu đã giảm đáng kể vấn đề này. Ngay cả khi các khu vực sinh sống phù hợp vẫn còn lớn, sự thay đổi môi trường sống tinh tế có thể là một vấn đề, như ở [[quần đảo Andaman]], nơi các khu vực nước ngọt, được sử dụng để làm tổ, đang ngày càng được chuyển đổi sang nông nghiệp của con người. Sau khi giá trị thương mại của da cá sấu bị suy yếu, có lẽ thách thức lớn nhất trước mắt để thực hiện các nỗ lực bảo tồn là sự nguy hiểm không thường xuyên mà loài có thể gây ra cho con người, và kết quả tiêu cực của cá sấu.
Mất môi trường sống tiếp tục là một vấn đề lớn đối với sấu. Ở Bắc Úc, phần lớn sinh cảnh làm tổ của cá sấu nước mặn bị chà đạp bởi [[trâu]] nước hoang dã, mặc dù các chương trình diệt trừ trâu đã giảm đáng kể vấn đề này. Ngay cả khi các khu vực sinh sống phù hợp vẫn còn lớn, sự thay đổi môi trường sống có thể là một vấn đề, như ở [[quần đảo Andaman]], nơi các khu vực nước ngọt, được sử dụng để làm tổ, đang ngày càng bị chuyển đổi sang vùng canh tác nông nghiệp của con người. Sau khi giá trị thương mại của da cá sấu bị suy yếu, có lẽ thách thức lớn nhất trước mắt để thực hiện các nỗ lực bảo tồn là sự nguy hiểm không thường xuyên mà loài này có thể gây ra cho con người, và dẫn kết quả tiêu cực do cá sấu gây ra.


== Hình ảnh ==
== Hình ảnh ==

Phiên bản lúc 14:54, ngày 21 tháng 6 năm 2022

Cá sấu nước mặn
Khoảng thời gian tồn tại: 4.5–0 triệu năm trước đây
Pliocene sớm – Gần đây
Đực
Cái
Phân loại khoa học edit
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Reptilia
Bộ: Crocodilia
Họ: Crocodylidae
Chi: Crocodylus
Loài:
C. porosus
Danh pháp hai phần
Crocodylus porosus
Schneider, 1801
Phạm vi sinh sống của cá sấu nước mặn

Cá sấu nước mặn (danh pháp hai phần: Crocodylus porosus), còn gọi là cá sấu cửa sông hay ở Việt Nam còn được gọi là cá sấu hoa cà; là phân loài cá sấu lớn nhất và cũng là loài bò sát lớn nhất còn sống trên thế giới.[2][3][4] Con đực trưởng thành có thể đạt chiều dài tới 6,3m và thậm chí lên tới 7m.[5] Tuy nhiên, một con đực trưởng thành hiếm khi đạt tới hoặc vượt quá kích thước 6,3 m hay nặng 1.000 tới 1.300 kg.[6] Con cái nhỏ hơn nhiều so với con đực, nhìn chung thì không dài quá 3 m.[6] Cá sấu nước mặn thường sinh sống ở các vùng đất ngập nước nơi có nước mặnlợ. Chúng có phạm vi phân bố rộng nhất trong số tất cả các loài cá sấu hiện đại, trải dài từ bờ đông tiểu lục địa Ấn Độ cho tới hầu hết khu vực Đông Nam Á, đảo New Guinea và phía Bắc lục địa Australia. Chúng là những vận động viên bơi lội rất khỏe.

Cá sấu nước mặn là một loài động vật chuyên ăn thịt đầu bảng. Chúng phục kích hầu hết các con mồi và sau đó nhấn chìm hoặc nuốt chửng toàn bộ con mồi. Cá sấu có khả năng chiếm ưu thế so với hầu hết các loài động vật xâm nhập vào lãnh thổ của chúng, bao gồm cả những kẻ săn mồi khác như cá mập, các loại cá nước ngọtnước mặn bao gồm các loài cá biển khơi, động vật không xương sống như giáp xác, các loài lưỡng cư, bò sát, chim và động vật có vú, bao gồm cả con người.

Cá sấu nước mặn đã được liệt kê là Loài ít quan tâm trong Sách Đỏ IUCN kể từ năm 1996. Chúng bị săn bắt để lấy da trong suốt những năm thập niên 1970, và đang bị đe dọa bởi nạn săn trộm bất hợp pháp và mất môi trường sống. Với một lịch sử lâu dài thường xuyên tấn công và ăn thịt người trong phạm vi sinh sống của mình, chúng được xem là một dã thú nguy hiểm đối với con người.[7]

Đặc điểm

Đầu của một con cá sấu nước mặn

Chúng có một cái đầu khá lớn đặc trưng bởi hai gờ nổi xuất phát từ mắt và kéo dài đến giữa mũi. Vảy loài này hình trái xoan. Cá sấu con có màu vàng nhạt, chúng mang những sọc, chấm trên thân và đuôi. Cá sấu trưởng thành có màu sẫm hơn, màu nâu vàng đến màu xám. Mặt bụng màu trắng hoặc vàng, các sọc xuất hiện ở phần dưới của thân nhưng không kéo dài hết mặt bụng. Đuôi có màu xám với những vạch đen. Chúng sở hữu một bộ hàm khỏe với 64-68 răng và sở hữu lực cắn lên đến 5000 pounds/1 inch vuông hoặc hơn. Thông thường, chỉ một cú táp của cá sấu cũng có khả năng nghiền nát xương, hạn chế đáng kể chuyển động của mục tiêu. Hàm răng sắc nhọn của chúng với lực cắn mạnh hơn hầu hết các loài động vật ăn thịt khác. Một thông số khác cho thấy, cá sấu này có lực cắn tối đa là 16,460 N (3,700 lbf), đó là lực cắn lớn nhất trong số các động vật hiện nay. Cá sấu nước mặn có tuổi thọ khá cao, chúng có thể sống hơn 100 tuổi.

Kích thước

Một con cá sấu tắm nắng trên bãi biển ở thành phố Darwin.

Kích thước con đực

Một con cá sấu nước mặn đực trưởng thành, từ những cá thể còn trẻ đến những con đã già, có chiều dài dao động từ 3,5 đến 6 m (11 ft 6 in đến 19 ft 8 in), nặng từ 200 đến 1.000 kg (440-22 lb). Trung bình, con đực trưởng thành có chiều dài từ 4,3 đến 4,9 m (14 ft 1 in đến 16 ft 1 in) và nặng từ 408 đến 522 kg (899–1,151 lb). Tuy nhiên kích thước trung bình phần lớn phụ thuộc vào vị trí, môi trường sống và tác động của con người, do đó dữ liệu cũng thay đổi từ nghiên cứu này sang nghiên cứu khác, khi các số liệu của mỗi nghiên cứu được xem riêng biệt. Trong một trường hợp, Webb và Manolis (1989) cho rằng trọng lượng trung bình của con đực trưởng thành trong các sông thủy triều của Úc chỉ là 240 đến 350 kg (530 đến 770 lb) với chiều dài từ 4 đến 4,5 m (13 ft 1 in to 14 ft 9 in) trong những năm 1980, có thể đại diện cho một khối lượng cơ thể đã bị giảm do các loài đang hồi phục sau nhiều thập kỷ bị săn bắn quá mức, vì con đực kích thước này thường nặng hơn 100 kg (220 lb). Một số cá thể đực cao tuổi có thể dài hơn 6 m (19 ft 8 in) và nặng hơn 1.000 kg (2.200 lb).

Cá sấu nước mặn được xác nhận lớn nhất đã bị chết đuối trong lưới đánh cá ở Papua New Guinea năm 1979, da khô của nó cộng với đầu dài tới 6,2 m (20 ft 4 in) và được ước tính là 6,3 m (20 ft 8 in) khi tính toán sự co rút và một đầu đuôi còn thiếu. Dự kiến từ chiều dài hộp sọ của chúng, nhiều mẫu vật từ Singapore được ước tính là còn sống của những con cá sấu đực có kích thước hơn 6 m (19 ft 8 in). Một con cá sấu nước mặn lớn của Việt Nam được ước tính một cách đáng tin cậy dựa trên hộp sọ của nó sau khi chết, có chiều dài từ 6,3 đến 6,8 m (20 ft 8 in đến 22 ft 4 in). [Tuy nhiên, theo bằng chứng dưới dạng hộp sọ đến từ một số loài cá sấu lớn nhất từng bị bắn, kích thước tối đa có thể đạt được của các thành viên lớn nhất của loài này được coi là 7 m (23 ft 0 in). Một nghiên cứu của chính phủ từ Úc chấp nhận rằng các thành viên lớn nhất của loài này có khả năng đo chiều dài từ 6 đến 7 m (19 ft 8 in đến 23 ft 0 in) và cân nặng từ 900 đến 1.500 kg (2.000 đến 3.300 lb). Hơn nữa, một nghiên cứu về hình thái và sinh lý của cá sấu của cùng một tổ chức ước tính rằng cá sấu nước mặn đạt kích thước 7 m (23 ft 0 in) sẽ nặng khoảng 2.000 kg (4.400 lb). Do có sự săn bắt rộng rãi trong thế kỷ 20, những cá thể này cực kỳ hiếm gặp ở hầu hết các khu vực, vì phải mất một thời gian dài để cá sấu đạt được những kích cỡ đó. Ngoài ra, sự hiện diện trước đó của các gen đặc biệt có thể tạo ra những con cá sấu nước mặn cỡ lớn như vậy, những gen cuối cùng đã bị mất khỏi nhóm gen tổng thể do các cuộc săn bắt rộng rãi trong quá khứ. Tuy nhiên, với sự phục hồi gần đây của môi trường sống cho cá sấu nước mặn và nạn săn trộm suy giảm, số lượng cá sấu lớn đang gia tăng, đặc biệt là ở Odisha. Quần thể cá sấu ở khu vực này có ít nhất một cá thể đạt tới hoặc vượt quá chiều dài 5,2 m (17 ft 1 in). Một con đực lớn từ Philippines, tên là Lolong, là con cá sấu nước mặn lớn nhất từng bị bắt và bị nhốt. Nó dài 20 ft 3 (6,17 m) và nặng 2,370 lbs (1.075 kg). Được cho là đã ăn thịt hai dân làng, Lolong đã bị bắt vào ngày 3 tháng 9 năm 2011, và đã chết khi đang bị giam giữ vào ngày 10 tháng 2 năm 2013.

Kích thước con cái

Con cái trưởng thành thường dài từ 2,7 đến 3,1 m (8 ft 10 in đến 10 ft 2 in) và cân nặng từ 76 đến 103 kg (168 đến 227 lb). Con cái lớn nhất trong kỷ lục đo được có chiều dài khoảng 4,3 m (14 ft 1 in). Con cái có kích thước tương đương với những loài cá sấu lớn khác và có kích thước trung bình nhỏ hơn giống cái của một số loài cá sấu, chẳng hạn như cá sấu sông Nin. Cho đến nay, cá sấu nước mặn có kích thước lưỡng hình giới tính lớn nhất so với bất kỳ loài cá sấu nào còn tồn tại, vì con đực trung bình to gấp 4 đến 5 lần con cái trưởng thành và đôi khi có thể đo được gấp đôi tổng chiều dài của nó. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lưỡng hình xiên đực ở loài này không được biết rõ ràng nhưng có thể tương quan với lãnh thổ cụ thể về giới tính và nhu cầu cá sấu nước mặn đực trưởng thành độc chiếm những khu vực sinh sống rộng lớn. Do sự lưỡng cực tình dục cực đoan của các loài tương phản với sự thay đổi kích thước khiêm tốn hơn của các loài khác, chiều dài trung bình của loài chỉ hơi nhiều hơn một số cá sấu còn tồn tại khác ở 3,8–4 m (12 ft 6 in-13 ft 1 in).

Phân bố và môi trường sống

Cá sấu nước mặn ngoi lên mặt nước tại sông Adelaide, Úc

Cá sấu nước mặn là một trong ba loài cá sấu tìm thấy ở Ấn Độ, hai loài còn lại là loài cá sấu đầm lầy nhỏ và phổ biến ở địa phương hơn và loài cá sấu Ấn Độ mõm hẹp ăn cá.[8] Chúng sinh sống ở các đầm lầy ngập mặn nước lợ ven biển và đồng bằng sông từ bờ biển phía đông của Ấn Độ, cho đến Sri LankaBangladesh. Quần thể cực nam ở Ấn Độ sống trong Vườn quốc gia Bhitarkanika của Odisha; ở phía bắc Odisha, nó đã không được ghi nhận tồn tại từ những năm 1930. Chúng cũng từng được ghi nhận đã sống dọc theo bờ biển của Quần đảo Andaman và Nicobar và ở vùng ngập mặn Sundarbans. Ở Sri Lanka, chúng xuất hiện nhiều nhất ở các phần phía tây và phía nam của đất nước.

Cá sấu nước mặn được tìm thấy khắp khu vực Đông Nam Á và vùng hải đảo Nam Thái Bình Dương trên các đảo lớn thuộc Papua New Guinea, IndonesiaTimor-Leste. Trên bán đảo Trung-Ấn, chúng phân bố dọc theo các đồng bằng và cửa sông ở Myanmar, Thái Lan và kéo dài đến miền trung-nam Việt Nambán đảo Mã Lai. Ở vùng hải đảo, chúng được tìm thấy ở Borneo, Philippines, Palau, VanuatuSolomon.

Ở ven biển phía Bắc Úc, Tây ÚcQueensland, cá sấu nước mặn đang phát triển mạnh với số lượng dồi dào, đặc biệt là ở nhiều hệ thống sông ngòi gần Darwin như sông Adelaide, sông Mary và sông Daly, cùng với các hồ móng ngựa và cửa sông liền kề của chúng. Quần thể cá sấu nước mặn ở Úc ước tính khoảng 100.000 đến 200.000 con trưởng thành. Phạm vi của nó kéo dài từ Broome, Tây Úc qua toàn bộ bờ biển Lãnh thổ phía Bắc đến tận Rockhampton, Queensland. Sông Alligator ở vùng Arnhem Land, nơi tập trung một quần thể cá sấu lớn nhất tại Úc, bị đặt tên sai do người ta nhầm lẫn cá sấu nước mặn với loài cá sấu mõm ngắn Mỹ, nhằm phân biệt với cá sấu nước ngọt mũi dài, một loài cá sấu cũng sinh sống ở Lãnh thổ Bắc Úc.

Do có xu hướng bơi xa trên biển, các cá thể cá sấu nước mặn đôi khi xuất hiện ở các khu vực xa phạm vi chung của chúng, chẳng hạn như ở Fiji. Cá sấu nước mặn thường trải qua mùa mưa nhiệt đới ở các đầm lầy và sông nước ngọt, di chuyển xuống hạ lưu đến các cửa sông vào mùa khô. Cá sấu cạnh tranh gay gắt với nhau để giành lãnh thổ, đặc biệt là những con đực chiếm ưu thế ở những đoạn sông và suối nước ngọt. Do đó, những cá thể vị thành niên bị buộc phải di chuyển tới các hệ thống sông ven biển và đôi khi ra đại dương. Điều này giải thích sự phân bố rộng lớn của loài này, cũng như việc chúng từng được tìm thấy ở những nơi xa xôi như Biển Nhật Bản. Giống như tất cả các loài cá sấu khác, chúng chỉ có thể tồn tại trong thời gian dài trong điều kiện nhiệt độ ấm áp và cá sấu rời khỏi các vùng của Úc theo mùa nếu các đợt khí hậu lạnh xảy ra trong khu vực.

Mặc dù có thể sống ở môi trường biển, nhưng cá sấu thường sống trong khu vực đầm lầy nước lợ, bao gồm rừng ngập mặn, rừng đước, cửa sông, châu thổ, đầm phá và vùng hạ nguồn của các con sông.

Tập tính

Một con cá sấu bơi gần bờ biển ở Maconacon.

Cá sấu hoa cà là một loài động vật thông minh và có hành vi phức tạp. Chúng liên lạc với nhau thông qua những tiếng sủa và được thể hiện theo bốn cách. Cá sấu còn sử dụng những âm cao rầu rĩ thành hồi ngắn và liên tục. Âm dùng để hăm dọa là tiếng húyt gió khi có kẻ lạ mặt xâm nhập lãnh địa. Cá sấu mới nở tạo ra những âm cao với những hồi ngắn, cuối cùng âm thanh ve vãn là những tiếng gầm nhẹ và dài. Cá sấu hoa cà sử dụng nhiệt độ môi trường để duy trì thân nhiệt của chúng. Chúng làm mát cơ thể trong nước và phơi ánh nắng để làm ấm cơ thể.

Cá sấu nước mặn, thậm chí là những con đã trưởng thành, có thể nhảy lên khỏi mặt để bắt mồi, mặc dù thường được nhìn thấy như vậy khi bị thu hút bởi mồi nhử, như trong bức ảnh này
Một con cá sấu đang tắm nắng

Hành vi cơ bản để phân biệt cá sấu nước mặn với các loài cá sấu khác là xu hướng sinh sống trong môi trường nước mặn của nó. Mặc dù các loài cá sấu khác cũng có tuyến muối cho phép chúng tồn tại trong nước mặn, một đặc điểm mà các loài cá sấu mõm ngắn không có, hầu hết các loài khác không mạo hiểm ra biển ngoại trừ trong điều kiện khắc nghiệt. Ngoài ra, không như các loài cá sâu khác, cá sấu nước mặn có tập tính bảo vệ lãnh thổ cao hơn và ít chịu đựng việc chung sống với những đồng loại của chúng; những con đực trưởng thành sẽ chia sẻ lãnh thổ với những con cái, nhưng sẽ xua đuổi những con đực đối thủ.

Cá sấu nước mặn có khả năng bơi đường trường rất tốt, chúng sử dụng dòng hải lưu để di chuyển quãng đường dài. Ở Úc, 20 con cá sấu đã được gắn thẻ truyền vệ tinh; tám con trong số đó đã mạo hiểm ra biển khơi, và một trong số chúng đã đi 590 km (370 dặm) dọc theo bờ biển trong 25 ngày từ Sông Bắc Kennedy trên bờ biển phía đông của Viễn Bắc Queensland, xung quanh Bán đảo Cape York, đến bờ biển phía tây trong vịnh Carpentaria. Một cá thể khác đã bơi 411 km (255 mi) trong 20 ngày. Không cần phải bơi nhiều, đôi khi chúng chỉ đơn giản thả mình trôi trên mặt nước để bảo toàn năng lượng. Chúng bị gián đoạn di chuyển và cư trú trong các vịnh được rào lại phòng thời tiết xấu trong vài ngày cho đến khi dòng hải lưu đổi hướng. Đôi khi, chúng cũng bơi ngược lên các hệ thống sông.

Giống như nhiều loài cá sấu khác, cá sấu nước mặn thường chỉ sống lờ đờ suốt ngày nếu không đi săn mồi, một đặc điểm giúp chúng tồn tại hàng tháng trời trong thời gian không có thức ăn, cá sấu nước mặn thường nằm lờ đờ dưới nước hoặc phơi mình dưới ánh nắng mặt trời vào phần lớn thời gian trong ngày, thích săn mồi vào ban đêm. Một nghiên cứu về hành vi cá sấu nước mặn theo mùa ở Úc chỉ ra rằng chúng hoạt động nhiều hơn và có nhiều khả năng ở dưới nước hơn trong mùa hè ở Úc; ngược lại, chúng ít hoạt động hơn và dành nhiều thời gian hơn để phơi nắng trong mùa đông. Tuy nhiên, cá sấu nước mặn là loài hoạt động tích cực nhất trong số các loài cá sấu, dành nhiều thời gian bơi lội và hoạt động nhiều hơn, đặc biệt là ở dưới nước. Chúng sống trên cạn ít hơn nhiều so với hầu hết các loài cá sấu, ngoại trừ việc phơi nắng để điều hòa thân nhiệt. Đôi khi, chúng có xu hướng dành nhiều tuần trên biển để tìm kiếm đất liền và trong một số trường hợp, những vết đã được quan sát thấy phát triển trên vảy cá sấu, cho thấy thời gian dài chúng ở trên biển.

Mặc dù tương đối lờ đờ, cá sấu nước mặn là những kẻ săn mồi nhanh nhẹn và thể hiện sự nhanh nhẹn và tốc độ đáng ngạc nhiên khi cần thiết, thường là trong các cuộc tấn công con mồi. Chúng cũng có thể bơi với tốc độ 24 đến 29 km/h (15 đến 18 dặm/giờ) trong những quãng ngắn, nhanh gấp khoảng ba lần so với những vận động viên bơi nhanh nhất của con người, nhưng khi bơi trong trạng thái bình thường, chúng thường di chuyển với tốc độ 3 đến 5 km/h (2 đến 3 mph). Mặc dù những câu chuyện về cá sấu nhanh hơn ngựa đua trong khoảng cách ngắn trên cạn là hoàn toàn phóng đại, nhưng ở mép nước, chúng có thể kết hợp lực đẩy từ cả hai chân và đuôi để tạo ra những tình huống phục kích đột ngột với tốc độ cực lớn.

Chế độ ăn uống

Một con cá sấu đang xâu xé con mồi

Loài cá sấu này săn mồi rất đa dạng, cá sấu con ăn những loài côn trùng nhỏ, động vật lưỡng cư, bò sát, giáp xác và những loài nhỏ. Tuy nhiên những con trưởng thành cũng sẽ nhắm đến những con mồi nhỏ này nếu không có nhiều sự lựa chọn khác. Trong số các loài giáp xác, cua biển của chi Scylla được xem là con mồi ưa thích nhất của cá sấu, đặc biệt là trong môi trường sống ngập mặn. Các loài chim như đà điểu Emu và các loại chim nước khác nhau, đặc biệt là ngỗng bồ các, là loài thường bị cá sấu săn nhất, do cơ hội bắt gặp nhiều hơn. Ngay cả những con chim và dơi bay nhanh có thể bị cá sấu phóng lên đớp sống một cách chớp nhoáng nếu bay gần mặt nước, cũng như những con chim lội khi chúng đang bay quanh bờ để tìm kiếm thức ăn, thậm chí cả những loài choắt nhỏ.

Cá sấu trưởng thành chủ yếu ăn cua, còng, rùa, rắn, chim; thậm chí là những loài thú lớn hơn như nai, lợn lòi, lợn vòi, lợn hoang, khỉ, kangaroo, đười ươi, chó Dingo và những loài có kích thước lớn thuộc họ Trâu bò chẳng hạn như trâu nước, bò banteng, và bò tót. Tuy nhiên, những con mồi lớn chỉ được chúng săn ngẫu nhiên do thực tế chỉ có những con đực lớn mới đủ khả năng tấn công và những con mồi lớn chỉ phân bố thưa thớt trong phạm vi sinh sống của loài cá sấu này, ngoài một số khu vực quan trọng như Sundarbans. Bất kỳ loài vật nuôi thuần hóa nào như , cừu, lợn, ngựa, hay thậm chí cả người, cá sấu đều có thể ăn được nếu có cơ hội. Là một loài sinh vật sống được ở biển, cá sấu nước mặn cũng săn nhiều loài cá nước mặn và các loài động vật biển khác, bao gồm rắn biển, rùa biển, chim biển, dugongcá đuối. Chúng cũng hay săn những con cá sấu nhỏ hơn chúng như cá sấu nước ngọt mũi dài. Ngoài ra, những con cá sấu sống ở cửa sông và ven biển còn săn cả những loài cá mập cỡ nhỏ hoặc trung bình như cá mập bò. Khi săn mồi chúng giấu mình trong nước và chỉ để lộ mắt và mũi trên mặt nước. Chúng bất thình lình tấn công con mồi, thường thì con mồi bị giết ngay sau một cú cắn chí mạng bởi hàm rắng chắc khỏe của chúng, sau đó con mồi được kéo xuống nước.

Cá sấu nước mặn cũng có một số đối thủ cạnh tranh nguồn thức ăn trong tự nhiên, đặc biệt là hổ, mặc dù hai loài động vật này hiếm khi xung đột với nhau. Tuy nhiên vào năm 2010, một con cá sấu cửa sông đã giết chết một con hổ Bengal khi nó đang bơi qua sông tại vườn quốc gia Sundarbans, Ấn Độ.

Sinh sản

Chúng sinh sản trong khu vực nước ngọt vào mùa ẩm ướt. Cá sấu cái trưởng thành khi đạt 10-12 năm tuổi, trong khi con đực có tuổi trưởng thành là 16 năm tuổi. Cá sấu cái đẻ trung bình khoảng 40-60 trứng nhưng cũng có thể đẻ đến 90 trứng. Trứng được đẻ vào trong tổ được làm từ thân cây nhỏ và bùn, tổ được làm nâng lên cao để tránh bị cuốn đi khi có ngập lụt trong suốt mùa mưa. Cá sấu cái bảo vệ tổ cho đến khi trứng nở trong thời gian 90 ngày và phụ thuộc vào nhiệt độ của tổ. Giới tính cá sấu con được xác định bởi nhiệt độ của tổ, nơi nhiệt độ ấp của cá sấu mẹ thường là 31 °C. Bất kì sự biến đổi nào về nhiệt độ sẽ tạo ra nhiều con cái. Khi cá sấu mẹ nghe tiếng kêu của cá sấu non vừa nở nó sẽ đào tổ lên, đưa bầy con vào miệng trở về môi trường nước và chăm sóc cho đến khi chúng bơi được. Con cái bảo vệ tổ và con non khỏi những kẻ săn mồi khác. Cá sấu con lớn lên trong các con sông trong suốt mùa ẩm ướt từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau.

Tấn công con người

Một biển báo cấm bơi lội để tránh bị cá sấu tấn côngvườn quốc gia Kakadu, Bắc Úc.

Trong số tất cả các loài cá sấu, cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin thường xem con người như một con mồi, và có một lịch sử lâu dài tấn công con người khi con người vô tình xâm phạm vào lãnh thổ của nó. Do sức mạnh cùng với kích thước và tốc độ đáng sợ, khả năng sống sót của con người khi bị cá sấu nước mặn tấn công gần như là không thể, nếu đó là một cuộc tấn công trực diện. Do đó, đây được xem là một trong những loài dã thú nguy hiểm nhất thế giới. Trái ngược với chính sách của Mỹ khuyến khích cùng tồn tại với cá sấu mõm ngắn, khuyến cáo duy nhất để đối phó với cá sấu nước mặn là hoàn toàn tránh xa môi trường sống của chúng bất cứ khi nào có thể, vì chúng cực kỳ hung hăng nếu cảm thấy bị xâm phạm.

Một biển cảnh báo cá sấu ở bãi biển Trinity, Queensland, Úc

Những dữ liệu chính xác về các cuộc tấn công bị giới hạn ở những nơi bên ngoài nước Úc, nơi một hoặc hai vụ tấn công gây tử vong được báo cáo mỗi năm. Từ năm 1971 đến năm 2013, tổng số ca tử vong được báo cáo tại Úc do cá sấu nước mặn là 106 ca. Mức độ tấn công thấp có thể là do những nỗ lực của các nhà nghiên cứu động vật hoang dã ở Úc đã đặt các dấu hiệu cảnh báo cá sấu tại nhiều kênh, sông, hồ và bãi biển nơi được cho là có mối nguy hiểm từ cá sấu, giúp người dân tránh xa khu vực đó. Ngoài ra, các cuộc tấn công gần đây và ít được công bố đã được báo cáo ở Borneo, Sumatra, Đông Ấn Độ (quần đảo Andaman), và Miến Điện. Tại Sarawak, Borneo, số vụ tấn công gây tử vong trung bình được báo cáo là 2,8 mỗi năm trong những năm từ 2000 đến 2003. Tại Bắc Úc, nỗ lực di dời những con cá sấu nước mặn có biểu hiện hung hăng đối với con người đã được thực hiện, nhưng điều này đã không hiệu quả vì cá sấu dường như có thể tự tìm được đường về lãnh thổ ban đầu của mình. Trong khu vực Darwin từ 2007-2009, 67-78% những con cá sấu trở về chỗ ở cũ được xác định là giống đực.

Nhiều cuộc tấn công ở các khu vực bên ngoài nước Úc được cho là không được báo cáo, với một nghiên cứu đặt ra tới 20 đến 30 vụ tấn công xảy ra hàng năm. Con số này có thể là thận trọng đối với một số khu vực nơi con người và cá sấu nước mặn cùng tồn tại ở các khu vực nông thôn và kinh tế tương đối kém phát triển, kinh tế thấp, nơi các cuộc tấn công có khả năng không được báo cáo. Tuy nhiên, những tuyên bố trong quá khứ rằng cá sấu nước mặn phải chịu trách nhiệm cho hàng ngàn người tử vong hàng năm là cường điệu và có thể làm sai lệch lợi ích cho các công ty da, các tổ chức săn bắn và các nguồn khác có thể hưởng lợi từ việc tối đa hóa nhận thức tiêu cực về cá sấu cho nguồn tài chính đạt được. Mặc dù cá sấu là một loài động vật không có lý do gì để không xem con người như con mồi, tuy nhiên nhiều con cá sấu nước mặn hoang dã thường rất cảnh giác với con người và sẽ chủ động rút lui, chúng lặn xuống nước và bơi xa ra, thậm chí ngay cả những con đực trưởng thành vốn rất hiếu chiến, nếu trước đây nó từng bị con người quấy rầy hoặc bị truy sát. Khả năng cá sấu tấn công con người vì con người đi vào lãnh thổ của nó cao hơn là do tập tính ăn thịt trong tự nhiên. Với cá sấu trên hai tuổi, chúng thường tấn công bất cứ thứ gì đi vào lãnh thổ của nó (bao gồm cả tàu thuyền). Con người thường có thể thoát khỏi những cuộc chạm trán như vậy, bao gồm khoảng một nửa tất cả các cuộc tấn công. Các cuộc tấn công không gây tử vong thường liên quan đến cá sấu dài 3 m (9 ft 10 in) hoặc ít hơn. Các cuộc tấn công gây tử vong, nhiều khả năng là có động cơ ăn thịt, thường liên quan đến cá sấu lớn hơn với kích thước ước tính trung bình là 4,3 m (14 ft 1 in). Trong hoàn cảnh bình thường, cá sấu sông Nile được cho là phải chịu trách nhiệm về số lượng các cuộc tấn công gây tử vong trên người hơn là cá sấu nước mặn, nhưng điều này có thể liên quan đến thực tế là nhiều người ở Châu Phi có xu hướng dựa vào các khu vực ven sông để kiếm sống, ít phổ biến ở hầu hết châu Á và chắc chắn ít hơn ở Úc. Ở quần đảo Andaman, số lượng các cuộc tấn công gây tử vong cho con người đã được báo cáo tăng lên, lý do suy ra do sự phá hủy môi trường sống và giảm con mồi tự nhiên của cá sấu.

Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, khi đế quốc Nhật Bản rút quân khỏi đảo Ramree nằm trên vịnh Bengal ngoài khơi Myanmar vào ngày 19 tháng 2 năm 1945, loài cá sấu nước mặn được cho là phải chịu trách nhiệm về cái chết của hơn 400 binh sĩ Nhật Bản. Những người lính Anh bao vây vùng đầm lầy mà quân Nhật đang rút lui suốt một đêm trong cánh rừng ngập mặn, nơi có hàng ngàn con cá sấu nước mặn đang ẩn náu và phục kích họ. Nhiều người lính Nhật đã không sống sót qua một đêm này. Trong số 1.000 lính Nhật tiến vào khu đầm lầy trên đảo Ramree, chỉ có khoảng 20 người sống sót thoát được ra ngoài.[9] Tuy nhiên lí do cá sấu tấn công bị nghi ngờ là không thuyết phục. Một vụ tấn công hàng loạt khác được báo cáo liên quan đến một hành trình ở miền đông Ấn Độ, một con thuyền gặp nạn khiến 28 người rơi xuống nước, họ được báo cáo là bị cá sấu nước mặn ăn thịt. Một vụ cá sấu tấn công khét tiếng khác là vào năm 1985, liên quan đến nhà sinh thái học Val Plumwood, người may mắn sống sót sau vụ tấn công.

Vào tháng 7 năm 2018, một đám đông 600 người đã tàn sát 292 con cá sấu nước mặn và cá sấu New Guinea ở tỉnh Papua, Indonesia trong một cuộc tấn công trả thù sau khi một người đàn ông xâm phạm khu bảo tồn bị ăn thịt.

Tình trạng bảo tồn

Một con cá sấu nước mặn đang bơi dưới một đầm lầy.
Cá sấu nước mặn trong vườn thú.

Tình trạng bảo tồn hiện nay của loài này theo IUCN là ít quan tâm (lower risk/least concern).[10]. Hiện tại, loài này được liệt kê trong CITES như sau:

  • Phụ lục I (cấm tất cả các giao thương thương mại trong các loài hoặc các sản phẩm phụ của nó): Tất cả các quần thể hoang dã ngoại trừ các quần thể ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea;
  • Phụ lục II (thương mại được phép xuất khẩu, giấy phép nhập khẩu có thể hoặc không bắt buộc tùy thuộc vào luật của nước nhập khẩu): Quần thể ở Úc, Indonesia và Papua New Guinea, cộng với tất cả các quần thể trên thế giới được nuôi nhốt vì mục đích thương mại.

Cá sấu nước mặn thường bị săn bắt vì thịt và trứng của nó, và da của nó là giá trị thương mại nhất của bất kỳ loài cá sấu nào. Săn bắn không được kiểm soát trong thế kỷ 20 gây ra sự suy giảm đáng kể trong các loài trong phạm vi của nó, với số lượng ở miền bắc Australia giảm 95% vào năm 1971. Những năm 1940-1970 là đỉnh của săn bắn không được kiểm soát và có thể gây thiệt hại không thể khắc phục quần thể cá sấu nước mặn. Loài này hiện đang có sự bảo vệ pháp lý đầy đủ ở tất cả các bang và vùng lãnh thổ của Úc nơi nó được tìm thấy - Tây Úc (từ năm 1970), Lãnh thổ Bắc Úc (từ năm 1971) và Queensland (từ năm 1974). Nhờ chính sách bảo tồn nghiêm ngặt tại Úc, quần thể cá sấu đã tăng đáng kể, và thậm chí đông đúc hơn người ở một số khu vực, nơi mà chúng có thể sinh sống ở bất cứ nơi nào có nước như ao hồ, sông suối, thậm chí là những vùng nước nông.[11] Săn bắn bất hợp pháp vẫn còn tồn tại ở một số khu vực, với việc bảo vệ ở một số quốc gia không hiệu quả một cách đáng kể, và việc buôn bán thường khó theo dõi và kiểm soát trên phạm vi rộng lớn như vậy. Tuy nhiên, nhiều khu vực chưa hồi phục; một số khảo sát cho thấy mặc dù những con cá sấu trẻ còn tồn tại, ít hơn 10% mẫu vật được phát hiện ở phạm vi kích thước trưởng thành và không bao gồm những con đực đặc biệt lớn ở Sri Lanka hay Cộng hòa Palau. Đây là dấu hiệu của cả sự khủng bố và khai thác tiếp tục tiềm tàng và quần thể sinh sản không hồi phục. Trong một quần thể cân bằng hơn, chẳng hạn như những cá thể từ vườn quốc gia Bhitarkanika hoặc Sabah, Malaysia, 28% và 24,2% mẫu vật quan sát thấy trong phạm vi kích thước lớn hơn 3 m (9 ft 10 in).

Mất môi trường sống tiếp tục là một vấn đề lớn đối với cá sấu. Ở Bắc Úc, phần lớn sinh cảnh làm tổ của cá sấu nước mặn bị chà đạp bởi trâu nước hoang dã, mặc dù các chương trình diệt trừ trâu đã giảm đáng kể vấn đề này. Ngay cả khi các khu vực sinh sống phù hợp vẫn còn lớn, sự thay đổi môi trường sống có thể là một vấn đề, như ở quần đảo Andaman, nơi các khu vực nước ngọt, được sử dụng để làm tổ, đang ngày càng bị chuyển đổi sang vùng canh tác nông nghiệp của con người. Sau khi giá trị thương mại của da cá sấu bị suy yếu, có lẽ thách thức lớn nhất trước mắt để thực hiện các nỗ lực bảo tồn là sự nguy hiểm không thường xuyên mà loài này có thể gây ra cho con người, và dẫn kết quả tiêu cực do cá sấu gây ra.

Hình ảnh

Tham khảo

  1. ^ Webb, G.J.W.; Manolis, C.; Brien, M.L.; Balaguera-Reina, S.A.; Isberg, S. (2021). Crocodylus porosus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2021: e.T5668A3047556. doi:10.2305/IUCN.UK.2021-2.RLTS.T5668A3047556.en. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Read, Mark A.; Grigg, Gordon C.; Irwin, Steve R.; Shanahan, Danielle; Franklin, Craig E. (2007). “Satellite Tracking Reveals Long Distance Coastal Travel and Homing by Translocated Estuarine Crocodiles, Crocodylus porosus”. PLOS ONE. 2 (9): e949. Bibcode:2007PLoSO...2..949R. doi:10.1371/journal.pone.0000949. PMC 1978533. PMID 17895990.
  3. ^ “Crocodiles surf ocean currents”. www.telegraph.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2022.
  4. ^ “Fauna of Australia” (PDF). Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  5. ^ Britton, Adam R. C.; Whitaker, Romulus; Whitaker, Nikhil (2012). “Here be a Dragon: Exceptional Size in Saltwater Crocodile (Crocodylus porosus) from the Philippines”. Herpetological Review. 43 (4): 541–546.
  6. ^ a b “Crocodylus porosus”. Animal Diversity Web. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  7. ^ Webb, G. J. W.; Manolis, C.; Brien, M. L. (2010). “Saltwater Crocodile Crocodylus porosus (PDF). Trong Manolis, S. C.; Stevenson, C. (biên tập). Crocodiles: Status Survey and Conservation Action Plan (ấn bản 3). Darwin: IUCN Crocodile Specialist Group. tr. 99–113.
  8. ^ Hiremath, K. G. (2003). Recent advances in environmental science. Discovery Publishing House. ISBN 81-7141-679-9.
  9. ^ “Trung đoàn lính Nhật bị cá sấu xóa sổ trên đảo hoang”. VnExpress. 13 tháng 3 năm 2016.
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên IUCN
  11. ^ “Cái chết rình rập dưới vùng nước nông ở Australia”. VnExpress. 29 tháng 10 năm 2017.

Liên kết ngoài