Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Justine Henin”
Dòng 223: | Dòng 223: | ||
|-bgcolor="#CCCCFF" |
|-bgcolor="#CCCCFF" |
||
|2006||[[Giải quần vợt Úc Mở rộng| |
|2006||[[Giải quần vợt Úc Mở rộng|Úc Mở rộng]]||[[Tập tin:Flag of France.svg|22px]] [[Amélie Mauresmo]]||6-1, 2-0 bỏ cuộc |
||
|-bgcolor="#CCFFCC" |
|-bgcolor="#CCFFCC" |
||
Dòng 229: | Dòng 229: | ||
|-bgcolor="#FFFFCC" |
|-bgcolor="#FFFFCC" |
||
|2006 ||[[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng|Mỹ |
|2006 ||[[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng|Mỹ Mở rộng]] ||[[Tập tin:Flag of Russia (bordered).svg|22px]] [[Maria Yuryevna Sharapova|Maria Sharapova]]||6-4, 6-4 |
||
|-bgcolor="#CCCCFF" |
|-bgcolor="#CCCCFF" |
||
|2010 ||[[Giải quần vợt Úc Mở rộng|Úc |
|2010 ||[[Giải quần vợt Úc Mở rộng|Úc Mở rộng]] ||{{flagicon|USA}} [[Serena Williams]]||6-4 3-6 6-2 |
||
|} |
|||
==Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự== |
==Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự== |
Phiên bản lúc 14:50, ngày 11 tháng 6 năm 2013
Quốc tịch | Bỉ |
---|---|
Nơi cư trú | Monte Carlo, Monaco |
Sinh | 1 tháng 6 năm 1982 Liège, Bỉ |
Chiều cao | 1,67 m |
Lên chuyên nghiệp | 1999 |
Tay thuận | Tay phải, Revers một tay |
Tiền thưởng | 19.098.405 đô la Mỹ |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 468/103 |
Số danh hiệu | 40 |
Thứ hạng cao nhất | 1 (20 tháng 10 năm 2003) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | Vô địch (2004) |
Pháp mở rộng | Vô địch (2003, 2005, 2006 2007) |
Wimbledon | Chung kết (2001, 2006) |
Mỹ Mở rộng | Vô địch (2003, 2007) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 47/35 |
Số danh hiệu | 2 |
Thứ hạng cao nhất | 23 (14 tháng 1 năm 2002) |
Thành tích huy chương Thế vận hội | ||
---|---|---|
Quần vợt nữ | ||
Athens 2004 | Đơn nữ |
Justine Henin (phiên âm tiếng Việt: Juýt-xtin Ê-nanh) (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1982 tại Liège), đến từ vùng Wallonia (vùng nói tiếng Pháp) thuộc nước Bỉ, là tay vợt nữ đã từng nhiều lần được xếp hạng 1 thế giới.
Henin đã giành được 7 danh hiệu Grand Slam đơn: 4 Pháp mở rộng, 2 Mỹ mở rộng và 1 Úc mở rộng. Cô nổi tiếng có một tinh thần thi đấu bền bỉ và có cú vuốt bóng (backhand) bằng một tay mà John McEnroe từng nhận xét đó là cú vuốt bóng hay và đẹp nhất hơn bất cứ tay vợt nam nữ nào trên thế giới từng đánh.[1] [2].
Tuổi thơ
Cô bé Justine lớn lên ở ngôi làng nhỏ Rochefort, trong một ngôi nhà gần câu lạc bộ tennis Rochefort. Lần đầu Juju đặt chân lên một sân quân vợt là vào năm năm tuổi. Rất nhanh cô đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và có một chương trình rèn luyện riêng.
Ngay từ nhỏ, Justine Henin đã rèn luyện được ý trí chiến đấu kiên cường để đạt được cái đích mà mình đặt ra. Ngay từ thuở đầu khi mới bắt đầu cầm vợt, cô đã có ước mơ trở thành một nhà vô địch và phấn đấu hết sức để đạt được điều đó. Nhận được sự ủng hộ của cả gia đình, mỗi mùa hè, người ta đều thấy mẹ của cô, một giáo viên dạy tiếng Pháp và lịch sử, chở cô sang Paris để xem giải Pháp mở rộng cho đến khi bà qua đời bởi bệnh ung thư dạ dày khi cô mới 12 tuổi.
Cuộc sống gia đình
Ngày 16 tháng 11 năm 2002, cô cưới Pierre-Yves Hardenne, một huấn luyện viên môn quần vợt tại Château de Lavaux-Sainte-Anne. Từ đó, tên thi đấu của cô được đổi thành Justine Henin-Hardenne vì luật Bỉ không yêu cầu phụ nữ đổi họ theo chồng. Người ta thường nói tới đám cưới này như một điều tích cực đến sự nghiệp của cô vì sau đám cưới, cô có một năm thi đấu rất thành công khi liên tiếp giành được 3 chức vô địch Grand Slam cũng như huy chương vàng tại Thế vận hội Athena 2004.
Đầu tháng 1 năm 2007, nhiều hãng tin loan báo cô đã trở lại với tên cũ "Justine Henin" sau khi li dị chồng. Trên trang chủ của mình, Justine Henin đã khẳng định điều này.
Sự nghiệp quần vợt
Thành tích khi thi đấu ở các lứa tuổi trẻ
Năm 14 tuổi, cô gặp Carlos Rodriguez, huấn luyện viên người Argentina gắn bó với sự nghiệp của cô cho đến nay. Cùng với ông, cô đã nhanh chóng khẳng định được tài năng của mình bằng việc đoạt được một số giải thưởng quần vợt quan trọng nhất dành cho các tay vợt trẻ như vô địch giải Orange Bowl lứa tuổi U 14 năm 1996, cùng năm đó cô cũng giành chức vị trí quán quân giải vô địch châu Âu U 14 được tổ chức tại San Remo. Sang năm 1997, Henin chiến thắng tại Roland Garros dành cho các tay vợt thiếu niên ở nội dung đơn nữ.
Sau đó, trong khi các tay vợt cùng trang lứa tiếp tục rèn luyện bằng việc thi đấu thêm vài năm nữa ở các giải đấu dành cho thiếu niên. Cô và Rodriguez lại quyết định lập tức tham gia tranh đấu ở các giải thuộc hệ thống ITF (Các giải dành cho vận động viên chuyên nghiệp nhưng kém các giải thuộc hệ thống WTA Tour). Từ đó cho đến khi chính thức bắt đầu sự nghiệp vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của mình vào năm 1999, Juju đã giành được 6 chức vô địch ITF đơn và 1 chức vô địch ở nội dung đánh đôi. Chức vô địch ITF thứ 7 cô giành được vào năm 2000 khi tham gia giải ở thành phố nơi cô sinh ra: Liege.
Các chức vô địch ITF nội dung đơn nữ
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | tháng 05, 1997 | Le Touquet ($ 10.000) | Đất nện | Camilla Kremer | 6-2, 6-3 |
2. | tháng 10, 1997 | Koksijde ($ 10.000) | Đất nện | Milagros Sequera | 6-3, 7-6(4) |
3. | tháng 04, 1998 | Gelos ($ 10.000) | Đất nện | Aurélie Vedy | 6-0, 6-0 |
4. | tháng 05, 1998 | Grenelefe, Florida ($ 25.000) | Cứng | Jane Chi | 6-2, 6-3 |
5. | tháng 11, 1998 | Ramat Ha-Sharon ($ 25.000) | Cứng | Patricia Wartusch | 6-2, 6-4 |
6. | tháng 03, 1999 | Reims ($ 25.000) | Đất nện | Kim Clijsters | 6-4, 6-4 |
7. | tháng 03, 1999 | Liege ($ 50.000) | Đất nện | Barbara Rittner | 6-0, 3-1 bỏ cuộc |
Các chức vô địch ITF nội dung đôi nữ
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | tháng 11, 1998 | Ramat Ha-Sharon ($ 25.000) | Cứng | Kim Clijsters | Olga Glouschenko Tatiana Poutchek |
6-2, 6-0 |
2. | tháng 12, 2000 | Cergy Pontoise ($ 75.000) | Cứng | Virginie Razzano | Maja Matevzic Caroline Schneider |
6-2, 6-4 |
1999
Justine Henin tham gia giải đấu chuyên nghiệp thuộc hệ thống WTA Tour đầu tiên của mình tại Antwerpen, Bỉ vào tháng năm 1999 khi nhận được một xuất vé mời (Wild card) của ban tổ chức giải. Ngay lập tức, cô đã lọt vào trận chung kết trước khi đánh bại tay vợt người Pháp Sarah Pitkowski-Malcor để giành chức vô địch. Nhờ vậy Justine trở thành tay vợt thứ năm trong lịch sử giành chức vô địch một giải thuộc hệ thống WTA Tour ngay tại lần đầu tiên tham dự. Với thành tích này, cô có bước nhảy vọt trong bảng xếp hạng, từ vị trí thứ 178 trước khi tham dự giải, cô xếp thứ 106 sau chiến thắng tại Antwerpen.
Trong năm này, cô cũng lần đầu tiên khoác áo đội tuyển Bỉ thi đấu tại Fed Cup và giúp cho đội lọt vào bán kết của giải. Đồng thời Henin lần đầu tiên tham gia thi đấu tại một giải Grand Slam khi vượt qua vòng loại giải Pháp mở rộng và bốn tháng sau lọt thẳng vào vòng đấu chính của Mỹ Mở rộng.
2000
Năm 2000 là một năm kém may mắn đối với Henin. Juju bị chấn thương ở nửa đầu mùa giải khiến cô phải nghỉ thi đấu trong vòng hơn 4 tháng. Thành thích ấn tượng nhất của năm có lẽ là việc cô lọt vào vòng 4 của giải Mỹ mở rộng, sau khi đánh bại tay vợt hạt giống số 14, Anna Kournilova. Thành tích này cho phép cô lần đầu tiên lọt vào "Top 50" trong bảng xếp hạng của WTA.
2001
Justine Henin khởi đầu năm 2001 không thể nào ấn tượng hơn được. Cô dành liền hai chức vô địch tại hai giải đầu tiên mà mình tham gia là Gold Coast và Canberra. Nhưng nếu đem so sánh với những thành tích cô đạt được ở phần còn lại của năm thi hai chiến thắng này chưa thấm vào đâu. Đặc biệt là vào mùa hè 2001 khi cô liên tiếp lọt vào bán kết giải được xếp hạng Tier I, Berlin Open. Rồi bán kết giải Pháp mở rộng, vô địch giải 'S-Hertogenbosch và lọt vào trận chung kết Wimbledon. Những thành tích ấn tượng trên cho phép cô lọt vào "Top 10" WTA cũng như tham dự giải WTA Championships lần đầu tiên trong sự nghiệp.
Cô cũng là thành viên của đội tuyển Bỉ giành danh hiệu vô địch Cúp Fed năm 2001, danh hiệu đầu tiên trong lịch sử của đất nước nhỏ bé này.
2002
Năm thi đấu tương đối thành công của Justine Henin tuy cô không giành được danh hiệu nào nổi bật nào ngoài chiến thắng tại giải Tier I Berlin (chức vô địch một giải Tier I đầu tiên của cô). Việc thi đấu khá ổn định và thường xuyên lọt xâu vào các vòng đấu trong khiến Juju vững vàng trong top 10 và kết thúc năm 2002 ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng thế giới.
2003
Năm 2003 là năm Justine, bây giờ là bà Henin-Hardenne, khẳng địng rằng mình có thể cạnh tranh danh hiệu số một thế giới. Có lẽ cô nhận thức được điều này khi lần đầu tiên trong sự nghiệp cô đánh bại Lindsay Davenport trong một trận đấu nghẹt thở kéo dài 3 h 13, ở vòng 4 Úc Mở rộng, kết thúc với tỉ số 7-5 5-7 9-7. Tiếp nối thắng lợi đó, cô đã giành được những kết quả vô cùng ấn tượng để giành danh hiệu số một thế giới lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 10 sau khi chiến thắng tại Zürich. Tổng kết lại toàn bộ năm 2003, cô đã chiến thắng tổng cộng 75 trận, chịu thua 11 lần. Lọt vào ít nhất là trận bán kết ở 18 giải trong tổng số 19 giải tham gia thi đấu. Juju giành được 8 danh hiệu vô địch trong đó có hai chức vô địch Grand Slam đầu tiên của cô sau chiến thắng tại các giải Pháp Mở rộng và Mỹ Mở rộng. Cô nhận được 3.667.430 $ tiền thưởng và ở tại ngôi vị số một thế giới vào tuần cuối cùng của năm.
2004
Henin khởi đầu năm 2004 cũng ấn tượng như năm 2003, thậm chí còn ấn tượng hơn, khi cô vô địch giải Úc Mở rộng và ba giải nhỏ nữa để trở thành tay vợt đạt được mức tiền thưởng 1 triệu U$ trong năm nhanh nhất trong lịch sử. Sau đó, một loạt vấn đề về sức khỏe khiến cô phải nghỉ thi đấu trong phần lớn thời gian còn lại của năm. Nhưng trong thời gian có thể thi đấu được, cô cũng kịp giành được một chiến thắng vô cùng ý nghĩa trong sự nghiệp khi dành huy chương vàng tại một kỳ Thế vận hội tại Athena 2004.
2005
Vận xui lại tiếp tục bám đuổi cô vào đầu năm 2005, trong một buổi tập chuẩn bị cho mùa giải mới, cô bị chấn thương đầu gối và phải nghỉ thi đấu ba tháng. Phải đến cuối tháng 3 Justine mới trở lại sân đấu tại Miami. Ngay lập tức, cô đã nhanh chóng dần lấy lại được phong độ cũ khi chỉ chịu thua Maria Sharapova ở trận tứ kết. Nhưng mùa giải trên sân đất nện của cô mới thực sự nổi bật, cô giành liên tiếp ba danh hiệu vô địch ở Charleston, Warszawa và Berlin trước khi đến Paris dự giải Pháp mở rộng. Năm nay, tại Roland Garros, dù rơi vào phần bảng rất khó tập trung đa số các chuyên gia sân đất nện nhưng tại giải Pháp mở rộng năm 2005 dường như không ai đủ sức chặn cô giành danh hiệu Grand Slam thứ 4 của mình. Kết quả thắng Mary Pierce hai set cùng với tỉ số 6-1 là dẫn chứng hùng hồn nhất vì điều đó. Henin trở thành tay vợt thứ 4 trong lịch sử bất bại trên mặt sân đất nện kể cỏ khi tham dự giải Pháp mở rộng trong cùng một mùa giải. Mệt mỏi sau nhiều tháng thi đấu liên tục và gặp phải một chấn thương nhỏ, cô quyết định tới Wimbledon mà không có một trận đấu chuẩn bị nào trên mặt sân cỏ. Cô thua ngay tại vòng 1 và trở thành ĐKVĐ Roland Garros đầu tiên thua tại vòng một Wimbledon. Nửa sau của mùa giải kém may mắn hơn đối với Justine khi cô liên tiếp gặp phải những vấn đề nhỏ về sức khỏe, cô quyết định kết thúc mùa giải sớm vào tháng 10 và không tham dự WTA Championships dù đã đoạt đủ điểm để góp mặt.
2006
Từ rất lầu rồi Justine Henin mới có được một mùa giải thi đấu gần trọn vẹn như năm 2006. Cô đã không phụ lòng người hâm mộ khi giành lại được vị trí số một thế giới từ tay Amelie Mauresmo. Cô cũng trở thành một trong những tay vợt hiếm hoi lọt vào cả 4 trận chung kết Grand Slam trong cùng một năm. Cũng như trận chung kết giải WTA Championships mà cuối cùng cô giành chức vô địch. Thất bại đáng tiếc nhất của cô có lẽ là không giúp được đội Bỉ giành chức vô địch Fed Cup khi thua Italia ở trận chung kết. Nhìn lại cả năm, cô giành được 6 chức vô địch trong đó có một chức vô địch Grand Slam (Pháp mở rộng), cô cũng lần đầu vô địch giải WTA Championships, kiếm được 4.204.810 U$ tiền thưởng và thắng 60/68 trận đấu đã tham gia trong cả năm.
2007
Năm 2007, Justine Henin rút lui khỏi giải đấu đầu năm ở Sydney và sau đó là Úc mở rộng vì lý do gia đình. Tháng 2 cô trở lại, thi đấu rất thành công tại Doha Open và Dubai Open. Henin đã giành cả 2 chức vô địch, đây cũng là năm thứ 4 cô chiến thắng tại Dubai, đánh bại Amelie Mauresmo của Pháp trong trận chung kết.
Vào tháng 3, Justine Henin lọt vào đến trận chung kết giải Miami, Mỹ, để thua tay vợt nước chủ nhà Serena Williams. Đây cũng là thành tích cao nhất của cô ở giải đấu này. Tiếp tục chuỗi thành công của mình, Henin giành chức vô địch tại Warsaw Open, giải đấu trên sân đất nện chuẩn bị cho French Open. Tiếp đến tại Berlin mở rộng, cô thi đấu cũng khá thành công, chỉ chịu gác vợt trước tay vợt Svetlana Kuznetsova 6-4 7-5 6-4 tại bán kết. Đây mới chỉ là thất bại thứ 2 của Henin trong 16 lần 2 tay vợt này gặp nhau.
Juju khẳng định phong độ ấn tượng của mình khi vô địch giải Pháp mở rộng lần thứ ba liên tiếp, đồng thời vượt ngưỡng 15 triệu $ tiền thưởng trong toàn sự nghiệp thi đấu của mình.Đây cũng là lần thứ 2 liên tiếp Henin không thua set nào tại Paris.
Sau tháng 5 thắng lợi tại Paris, cô sang London để bước vào cuộc chinh phục chức vô địch Grand Slam cuối cùng còn thiếu trong bảng thành tích của mình, Wimbledon. Sự chuẩn bị của cô khá tốt khi Juju giành chức vô địch tại Eastbourne cũng như lọt khá dễ dàng vào vòng tứ kết Wimbledon. Tại vòng đấu này, Justine có trận thử lửa đầu tiên, gặp Serena Williams, cô đã giành thắng lợi sau một trận đấu mà người hâm mộ đánh giá sẽ còn được nhắc lại trong nhiều năm nữa. Ở bán kết, đối thủ của cô là Marion Bartoli, một bất ngờ của giải, lần này, cô là người chịu thất bại sau khi để tay vợt trẻ người Pháp lội ngược dòng, lật ngược tình thế ở nửa cuối trận đấu.
Đấy cũng là thất bại cuối cùng của Henin trong năm 2007, lập lại thành tích của Steffi Graf năm 1989, với chuỗi 25 trận bất bại, vô địch cả 5 giải đấu cuối cùng trong năm mà cô tham dự, trong đó có 1 chức vô địch Grand Slam, 1 chức vô địch WTA Championship và hai chức vô địch các giải Tier 1.
Tại giải Mỹ mở rộng, Henin giành được chức vô địch lần thứ hai khi hạ tay vợt Svetlana Kuznetsova (cựu vô địch giải này năm 2004) 6-1, 6-3 ở chung kết và không thua một set nào trong cả giải. Henin là người thứ hai hạ được cả hai chị em nhà Williams (Serena ở tứ kết và Venus ở bán kết) trong một giải Grand Slam (sau Martina Hingis năm 2001 tại giải Úc mở rộng).
Henin kết thúc năm ở ngôi vị số 1 thế giới sau khi lần thứ 2 liên tiếp đăng quang tại giải WTA Championship sau khi vượt tay vợt người Nga Maria Sharapova trong trận chung kết kéo dài 3 giờ 24 phút (5-7,7-5,6-3) và là danh hiệu thứ 10 trong năm của cô. Henin trở thành tay vợt nữ đầu tiên giành được hơn 5 triệu đô la tiền thưởng trong năm, vượt qua kỉ lục cũ của người đồng hương Kim Clijster năm 2003 (gần 4,5 triệu).
Tóm lại, 2007 là một năm thành công của Henin, với 10 danh hiệu cá nhân (trong đó có 2 Grand Slam và WTA Championship), số tiền thưởng kỉ lục và vững vàng ở ngôi vị số 1 thế giới.
Giải Nghệ
Ngày 14 tháng 5, 2008 Henin tuyên bố giải nghệ và yêu cầu Hội Quần vợt Phụ Nữ rút tên cô ra khỏi bảng sắp hạng quốc tế. Đây là một điều ngạc nhiên vì cô đang đứng hạng số 1 trên thế giới và là tay vợt có nhiều hi vọng nhất thắng vô địch Pháp Mở Rộng năm 2008 và có thể bảo vệ chiếc HCV đã giành được vào năm 2004 tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008.
Trở Lại Đấu Trường
Ngày 23 tháng 9, 2009, Henin tuyên bố sẽ trở lại tranh giải sau 15 tháng giải nghệ.
Giải thưởng
2003
- Vận động viên thể thao Bỉ của năm.
- Vô địch thế giới ITF.
2004
- Tay vợt WTA của năm (cho năm 2003).
- Vận động viên thể thao Bỉ của năm.
Chung kết Grand Slam đơn nữ đã tham dự
Vô địch (7)
Năm | Giải đấu | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2003 | Pháp mở rộng | Kim Clijsters | 6-0, 6-4 |
2003 | Mỹ mở rộng | Kim Clijsters | 7-5, 6-1 |
2004 | Australian Open | Kim Clijsters | 6-3, 4-6, 6-3 |
2005 | Pháp mở rộng (2) | Mary Pierce | 6-1, 6-1 |
2006 | Pháp mở rộng (3) | Svetlana Kuznetsova | 6-4, 6-4 |
2007 | Pháp mở rộng (4) | Ana Ivanovic | 6-1, 6-2 |
2007 | Mỹ mở rộng (2) | Svetlana Kuznetsova | 6-1, 6-3 |
Thua ở trận chung kết (4)
Năm | Giải đấu | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2001 | Wimbledon | Venus Williams | 6-1, 3-6, 6-0 |
2006 | Úc Mở rộng | Amélie Mauresmo | 6-1, 2-0 bỏ cuộc |
2006 | Wimbledon (2) | Amélie Mauresmo | 2-6, 6-3, 6-4 |
2006 | Mỹ Mở rộng | Maria Sharapova | 6-4, 6-4 |
2010 | Úc Mở rộng | Serena Williams | 6-4 3-6 6-2 |
Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự
Vô địch (2)
Năm | Thành phố đăng cai | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
2006 | Madrid | Amelie Mauresmo | 6-4, 6-3 |
2007 | Madrid (2) | Maria Sharapova | 5-7, 7-5, 6-3 |
Chung kết các giải WTA Tour đã tham dự
Vô địch (41)
Ghi chú |
Grand Slam (7) |
WTA Championships (2) |
Huy chương vàng Olympic (1) |
Tier I (10) |
WTA Tour (21) |
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1.|bgcolor="#ffffff"|10 tháng 5 1999|bgcolor="#ffffff"| Antwerp|bgcolor="#ffffff"|Đất nện|bgcolor="#ffffff"| Sarah Pitkowski-Malcor|bgcolor="#ffffff"|6-1, 6-2 | |||||
2.|bgcolor="#ffffff"|1 tháng 1 2001|bgcolor="#ffffff"| Gold Coast|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Silvia Farina Elia|bgcolor="#ffffff"|7-6(5), 6-4 | |||||
3.|bgcolor="#ffffff"|08 tháng 01 2001|bgcolor="#ffffff"| Canberra|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Sandrine Testud|bgcolor="#ffffff"|6-2, 6-2 | |||||
4.|bgcolor="#ffffff"|18 tháng 6 2001|bgcolor="#ffffff"| 's-Hertogenbosch|bgcolor="#ffffff"|Cỏ|bgcolor="#ffffff"| Kim Clijsters|bgcolor="#ffffff"|6-4, 3-6, 6-3 | |||||
5. | 6 tháng 5 2002|bgcolor="#dfe2e9"| Berlin|bgcolor="#dfe2e9"|Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Serena Williams|bgcolor="#dfe2e9"|6-2, 1-6, 7-6(5) | ||||
6.|bgcolor="#ffffff"|21 tháng 10 2002|bgcolor="#ffffff"| Linz|bgcolor="#ffffff"|Trải thảm|bgcolor="#ffffff"| Alexandra Stevenson|bgcolor="#ffffff"|6-3, 6-0 | |||||
7.|bgcolor="#ffffff"|17 tháng 2 2003|bgcolor="#ffffff"| Dubai|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Monica Seles|bgcolor="#ffffff"|4-6, 7-6(4), 7-5 | |||||
8.|bgcolor="#dfe2e9"|7 tháng 4 2003|bgcolor="#dfe2e9"| Charleston, Nam Carolina|bgcolor="#dfe2e9"|Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Serena Williams|bgcolor="#dfe2e9"|6-3, 6-4 | |||||
9.|bgcolor="#dfe2e9"|05 tháng 05 2003|bgcolor="#dfe2e9"| Berlin|bgcolor="#dfe2e9"|Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|6-4, 4-6, 7-5 | |||||
10.|bgcolor="#e5d1cb"|26 tháng 5 2003|bgcolor="#e5d1cb"| Pháp mở rộng, Paris|bgcolor="#e5d1cb"|Đất nện|bgcolor="#e5d1cb"| Kim Clijsters|bgcolor="#e5d1cb"|6-0, 6-4 | |||||
11.|bgcolor="#dfe2e9"|28 tháng 07 2003|bgcolor="#dfe2e9"| San Diego, California|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|3-6, 6-2, 6-3 | |||||
12.|bgcolor="#dfe2e9"|11 tháng 8 2003|bgcolor="#dfe2e9"| Toronto|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Lina Krasnoroutskaya|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 6-0 | |||||
13.|bgcolor="#e5d1cb"|25 tháng 8 2003|bgcolor="#e5d1cb"| Mỹ Mở rộng, New York City|bgcolor="#e5d1cb"|Cứng|bgcolor="#e5d1cb"| Kim Clijsters|bgcolor="#e5d1cb"|7-5, 6-1 | |||||
14.|bgcolor="#dfe2e9"|13 tháng 10 2003|bgcolor="#dfe2e9"| Zürich|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Jelena Dokic|bgcolor="#dfe2e9"|6-0, 6-4 | |||||
15.|bgcolor="#ffffff"|12 tháng 01 2004|bgcolor="#ffffff"| Sydney|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Amélie Mauresmo|bgcolor="#ffffff"|6-4, 6-4 | |||||
16.|bgcolor="#e5d1cb"|19 tháng 01 2004|bgcolor="#e5d1cb"| Australian Open, Melbourne|bgcolor="#e5d1cb"|Cứng|bgcolor="#e5d1cb"| Kim Clijsters|bgcolor="#e5d1cb"|6-3, 4-6, 6-3 | |||||
17.|bgcolor="#ffffff"|23 tháng 02 2004|bgcolor="#ffffff"| Dubai, UAE (2)|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Svetlana Kuznetsova|bgcolor="#ffffff"|6-3, 7-6(3) | |||||
18.|bgcolor="#dfe2e9"|08 tháng 03 2004|bgcolor="#dfe2e9"| Indian Wells, California|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Lindsay Davenport|bgcolor="#dfe2e9"|6-1, 6-4 | |||||
19.|bgcolor="gold"|16 tháng 08 2004|bgcolor="gold"| Thế vận hội, Athena|bgcolor="gold"|Cứng|bgcolor="gold"| Amélie Mauresmo|bgcolor="gold"|6-3, 6-3 | |||||
20.|bgcolor="#dfe2e9"|17 tháng 04 2005|bgcolor="#dfe2e9"| Charleston, Nam Carolina (2) | Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Elena Dementieva|bgcolor="#dfe2e9"|7-5, 6-4 | ||||
21.|bgcolor="#ffffff"|1 tháng 5 2005|bgcolor="#ffffff"| Warszawa|bgcolor="#ffffff"|Đất nện|bgcolor="#ffffff"| Svetlana Kuznetsova|bgcolor="#ffffff"|3-6, 6-2, 7-5 | |||||
22.|bgcolor="#dfe2e9"|8 tháng 5 2005|bgcolor="#dfe2e9"| Berlin (2)|bgcolor="#dfe2e9"|Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Nadia Petrova|bgcolor="#dfe2e9"|6-3, 4-6, 6-3 | |||||
23.|bgcolor="#e5d1cb"|4 tháng 6 2005|bgcolor="#e5d1cb"| Pháp Mở rộng, Paris (2) | Đất nện|bgcolor="#e5d1cb"| Mary Pierce|bgcolor="#e5d1cb"|6-1, 6-1 | ||||
24.|bgcolor="#ffffff"|13 tháng 01 2006|bgcolor="#ffffff"| Sydney (2)|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Francesca Schiavone|bgcolor="#ffffff"|4-6, 7-5, 7-5 | |||||
25.|bgcolor="#ffffff"|25 tháng 02 2006 |bgcolor="#ffffff"| Dubai (3)|bgcolor="#ffffff"|Trải thảm|bgcolor="#ffffff"| Maria Sharapova|bgcolor="#ffffff"|7-5, 6-2 | |||||
26.|bgcolor="#e5d1cb"|10 tháng 06 2006|bgcolor="#e5d1cb"| Pháp Mở rộng, Paris (3)|bgcolor="#e5d1cb"|Đất nện|bgcolor="#e5d1cb"| Svetlana Kuznetsova|bgcolor="#e5d1cb"|6-4, 6-4 | |||||
27.|bgcolor="#ffffff"|24 tháng 6 2006|bgcolor="#ffffff"| Eastbourne|bgcolor="#ffffff"|Cỏ|bgcolor="#ffffff"| Anastasia Myskina|bgcolor="#ffffff"|4-6, 6-1, 7-6(5) | |||||
28.|bgcolor="#ffffff"|26 tháng 8 2006|bgcolor="#ffffff"| New Haven, Connecticut|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Lindsay Davenport|bgcolor="#ffffff"|6-0, 1-0 bỏ cuộc. | |||||
29.|bgcolor="#ffffcc"|12 tháng 11 2006|bgcolor="#ffffcc"| WTA Championships, Madrid|bgcolor="#ffffcc"|Cứng|bgcolor="#ffffcc"| Amélie Mauresmo|bgcolor="#ffffcc"|6-4, 6-3 | |||||
30.|bgcolor="#ffffff"|24 tháng 02 2007|bgcolor="#ffffff"| Dubai (4)|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Amélie Mauresmo|bgcolor="#ffffff"|6-4, 7-5 | |||||
31.|bgcolor="#ffffff"|3 tháng 3 2007|bgcolor="#ffffff"| Doha|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Svetlana Kuznetsova|bgcolor="#ffffff"|6-4, 6-2 | |||||
32.|bgcolor="#ffffff"|7 tháng 5 2007 |bgcolor="#ffffff"| Warszawa (2)|bgcolor="#ffffff"|Đất nện|bgcolor="#ffffff"| Alyona Bondarenko|bgcolor="#ffffff"|6-1, 6-3 | |||||
33.|bgcolor="#e5d1cb"|09 tháng 06 2007|bgcolor="#e5d1cb"| Pháp mở rộng, Paris (4) | Đất nện|bgcolor="#e5d1cb"| Ana Ivanović|bgcolor="#e5d1cb"|6-1, 6-2 | ||||
34.|bgcolor="#ffffff"|23 tháng 06 2007|bgcolor="#ffffff"| Eastbourne (2)|bgcolor="#ffffff"|Cỏ|bgcolor="#ffffff"| Amélie Mauresmo|bgcolor="#ffffff"|7-5, 6-7(4), 7-6(2) | |||||
35.|bgcolor="#dfe2e9"|19 tháng 8 2007|bgcolor="#dfe2e9"| Toronto (2)|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Jelena Janković|bgcolor="#dfe2e9"|7-6(3), 7-5 | |||||
36.|bgcolor="#e5d1cb"|8 tháng 9 2007|bgcolor="#e5d1cb"| U.S. Open, New York City (2) | Cứng|bgcolor="#e5d1cb"| Svetlana Kuznetsova|bgcolor="#e5d1cb"|6-1, 6-3 | ||||
37.|bgcolor="#ffffff"|7 tháng 10 2007|bgcolor="#ffffff"| Stuttgart|bgcolor="#ffffff"|Cứng (trong nhà)|bgcolor="#ffffff"| Tatiana Golovin|bgcolor="#ffffff"|2-6, 6-2, 6-1 | |||||
38.|bgcolor="#dfe2e9"|21 tháng 10 2007|bgcolor="#dfe2e9"| Zürich (2)|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng (trong nhà)|bgcolor="#dfe2e9"| Tatiana Golovin|bgcolor="#dfe2e9"|6-4, 6-4 | |||||
39.|bgcolor="#ffffcc"|11 tháng 11 2007 |bgcolor="#ffffcc"| WTA Championships, Madrid (2)|bgcolor="#ffffcc"|Cứng (trong nhà)|bgcolor="#ffffcc"| Maria Sharapova|bgcolor="#ffffcc"|5-7, 7-5, 6-3 | |||||
40. | 11 tháng 1 2008|bgcolor="#ffffff"| Sydney (3)|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Svetlana Kuznetsova|bgcolor="#ffffff"|4-6, 6-2, 6-4 | ||||
41. | 17 tháng 02, 2008 | Antwerp (2) | Cứng (trong nhà) | Karin Knapp | 6-3, 6-3 |
Thua ở trận chung kết (16)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả | ||||||||||||||||||||||||||
1.|bgcolor="#e5d1cb"|25 tháng 06 2001|bgcolor="#e5d1cb"| [[Giải Vô địch Wimbledon|Wimbledon]|bgcolor="#e5d1cb"|Cỏ|bgcolor="#e5d1cb"| Venus Williams|bgcolor="#e5d1cb"|6-1, 3-6, 6-0 | |||||||||||||||||||||||||||||||
2.|bgcolor="#ffffff"|10 tháng 9 2001|bgcolor="#ffffff"| Waikoloa, Hawaii|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Sandrine Testud|bgcolor="#ffffff"|6-3, 2-0 bỏ cuộc | |||||||||||||||||||||||||||||||
3.|bgcolor="#ffffff"|08 tháng 10 2001|bgcolor="#ffffff"| Filderstadt|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Lindsay Davenport|bgcolor="#ffffff"|7-5, 6-4 | |||||||||||||||||||||||||||||||
4.|bgcolor="#ffffff"|31 tháng 12 2001|bgcolor="#ffffff"| Gold Coast|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Venus Williams|bgcolor="#ffffff"|7-5, 6-2 | |||||||||||||||||||||||||||||||
5.|bgcolor="#ffffff"|11 tháng 02 2001|bgcolor="#ffffff"| Antwerp|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Venus Williams|bgcolor="#ffffff"|6-3, 5-7, 6-3 | |||||||||||||||||||||||||||||||
6.|bgcolor="#ffffff"|14 tháng 4 2002|bgcolor="#ffffff"| Amelia Island|bgcolor="#ffffff"|Đất nện|bgcolor="#ffffff"| Venus Williams|bgcolor="#ffffff"|2-6, 7-5, 7-6(2) | |||||||||||||||||||||||||||||||
7.|bgcolor="#dfe2e9"|13 tháng 5 2002|bgcolor="#dfe2e9"| Roma|bgcolor="#dfe2e9"|Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Serena Williams|bgcolor="#dfe2e9"|7-6(6), 6-4 | |||||||||||||||||||||||||||||||
8.|bgcolor="#ffffff"|16 tháng 06 2003|bgcolor="#ffffff"| 's-Hertogenbosch|bgcolor="#ffffff"|Cỏ|bgcolor="#ffffff"| Kim Clijsters|bgcolor="#ffffff"|6-7(4), 3-0 bỏ cuộc | |||||||||||||||||||||||||||||||
9.|bgcolor="#ffffff"|22 tháng 09 2003|bgcolor="#ffffff"| Leipzig|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Anastasia Myskina|bgcolor="#ffffff"|3-6, 6-3, 6-3 | |||||||||||||||||||||||||||||||
10.|bgcolor="#ffffff"|06 tháng 10 2003|bgcolor="#ffffff"| Filderstadt (2)|bgcolor="#ffffff"|Cứng|bgcolor="#ffffff"| Kim Clijsters|bgcolor="#ffffff"|5-7, 6-4, 6-2 | |||||||||||||||||||||||||||||||
11.|bgcolor="#dfe2e9"|25 tháng 05 2005|bgcolor="#dfe2e9"| Toronto|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Kim Clijsters|bgcolor="#dfe2e9"|7-5, 6-1 | |||||||||||||||||||||||||||||||
12.|bgcolor="#e5d1cb"|28 tháng 1 2006|bgcolor="#e5d1cb"| Australian Open|bgcolor="#e5d1cb"|Cứng|bgcolor="#e5d1cb"| Amélie Mauresmo|bgcolor="#e5d1cb"|6-1, 2-0 bỏ cuộc | |||||||||||||||||||||||||||||||
13.|bgcolor="#dfe2e9"|14 tháng 05 2006|bgcolor="#dfe2e9"| Berlin|bgcolor="#dfe2e9"|Đất nện|bgcolor="#dfe2e9"| Nadia Petrova|bgcolor="#dfe2e9"|4-6, 6-4, 7-5 | |||||||||||||||||||||||||||||||
14.|bgcolor="#e5d1cb"|8 tháng 7 2006|bgcolor="#e5d1cb"| Wimbledon (2) | Cỏ|bgcolor="#e5d1cb"| Amélie Mauresmo|bgcolor="#e5d1cb"|2-6, 6-3, 6-4 | ||||||||||||||||||||||||||||||
15.|bgcolor="#e5d1cb"|10 tháng 09 2006|bgcolor="#e5d1cb"| Mỹ Mở rộng|bgcolor="#e5d1cb"|Cứng|bgcolor="#e5d1cb"| Maria Sharapova|bgcolor="#e5d1cb"|6-4, 6-4 | |||||||||||||||||||||||||||||||
16.|bgcolor="#dfe2e9"|19 tháng 03 2007|bgcolor="#dfe2e9"| Miami|bgcolor="#dfe2e9"|Cứng|bgcolor="#dfe2e9"| Serena Williams|bgcolor="#dfe2e9"|0-6, 7-5, 6-3|}
Vô địch đôi nữ (2)
Thua ở trận chung kết (1)
Liên kết ngoài
|
- Pages using infobox tennis biography with unsupported parameters
- Sinh năm 1982
- Nhân vật còn sống
- Vận động viên quần vợt Bỉ
- Vận động viên vô địch giải quần vợt Úc Mở rộng
- Vận động viên vô địch giải quần vợt Pháp Mở rộng
- Vận động viên vô địch giải quần vợt Mỹ Mở rộng
- Vận động viên quần vợt đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội