Khác biệt giữa bản sửa đổi của “An Giang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Abcvn123 (thảo luận | đóng góp)
wikify
Dòng 40: Dòng 40:
}}
}}
[[Tập tin:Bông Lúa.jpg|nhỏ|250px|phải|Tượng đài Bông lúa ở trước trụ sở UBND tỉnh An Giang]]
[[Tập tin:Bông Lúa.jpg|nhỏ|250px|phải|Tượng đài Bông lúa ở trước trụ sở UBND tỉnh An Giang]]
'''An Giang''' là tỉnh có dân số đông nhất [[đồng bằng sông Cửu Long]], thuộc [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]]. Một phần của An Giang nằm trong [[tứ giác Long Xuyên]]. Đây tỉnh có dân số đông nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tuy nhiên diện tích đứng thứ 4 trong khu vực [[đồng bằng sông Cửu Long]] về diện tích sau [[kiên Giang|tỉnh Kiên Giang]], [[cà Mau|tỉnh Mau]] [[long An|tỉnh Long An]]. Tháng 7/2013, An Giang là tỉnh đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Long Xuyên và Châu Đốc)
'''An Giang''' là tỉnh có dân số đông nhất diện tích đứng thứ 4 (sau [[kiên Giang|tỉnh Kiên Giang]], [[ Mau|tỉnh Mau]] [[long An|tỉnh Long An]]) [[đồng bằng sông Cửu Long]], thuộc [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]]. Một phần của An Giang nằm trong [[tứ giác Long Xuyên]]. Tháng 7/2013, An Giang là tỉnh đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Long Xuyên và Châu Đốc).


[[Long Xuyên|Thành phố Long Xuyên]] nằm bên bờ [[sông Hậu]], có truyền thống văn hóa đặc sắc của một thành phố miền Tây với chợ nổi trên sông và nhiều [[di tích]] thắng cảnh khác. [[Châu Đốc (thành phố)|Thành phố Châu Đốc]] là thành phố [[biên giới]] xinh đẹp, nổi tiếng với cụm di tích và thắng cảnh ở [[núi Sam]].
[[Long Xuyên|Thành phố Long Xuyên]] nằm bên bờ [[sông Hậu]], có truyền thống văn hóa đặc trưng của một thành phố miền Tây với chợ nổi trên sông và nhiều [[di tích]] thắng cảnh khác. [[Châu Đốc (thành phố)|Thành phố Châu Đốc]] là thành phố [[biên giới]], nổi tiếng với cụm di tích và thắng cảnh ở [[núi Sam]].


==Vị trí địa lý==
==Vị trí địa lý==

Phiên bản lúc 08:46, ngày 4 tháng 2 năm 2014

An Giang
Tỉnh
Tỉnh An Giang
Tập tin:Logo An Giang.png
Biểu trưng
Đền thờ Chủ tịch Tôn Đức Thắng ở xã Mỹ Hòa Hưng
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐồng bằng sông Cửu Long
Tỉnh lỵThành phố Long Xuyên
Phân chia hành chính2 thành phố
1 thị xã, 8 huyện
Tổ chức lãnh đạo
Chủ tịch UBNDVương Bình Thạnh
Chủ tịch HĐNDPhan Văn Sáu
Địa lý
Tọa độ: 10°22′52″B 105°25′12″Đ / 10,381116°B 105,419884°Đ / 10.381116; 105.419884
An Giang in Vietnam.svgBản đồ tỉnh An Giang
Diện tích3.536,7 km²[1]
Dân số (2011)
Tổng cộng2.151.000 người[1]
Mật độ608 người/km²[1]
Dân tộcViệt, Khmer, Hoa, Chăm
Khác
Mã hành chínhVN-44
Mã bưu chính88xxxx
Mã điện thoại76
Biển số xe67
Websitehttp://www.angiang.gov.vn/
Tượng đài Bông lúa ở trước trụ sở UBND tỉnh An Giang

An Giang là tỉnh có dân số đông nhất và diện tích đứng thứ 4 (sau tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mautỉnh Long An) ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc miền Nam Việt Nam. Một phần của An Giang nằm trong tứ giác Long Xuyên. Tháng 7/2013, An Giang là tỉnh đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Long Xuyên và Châu Đốc).

Thành phố Long Xuyên nằm bên bờ sông Hậu, có truyền thống văn hóa đặc trưng của một thành phố miền Tây với chợ nổi trên sông và nhiều di tích thắng cảnh khác. Thành phố Châu Đốc là thành phố biên giới, nổi tiếng với cụm di tích và thắng cảnh ở núi Sam.

Vị trí địa lý

An Giang thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 3536.7 km², phía đôngphía bắc giáp tỉnh Đồng Tháp gần 107,628 km² đứng thứ 4 trong khu vực đồng bằng sông cửu long về diện tích sau tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mautỉnh Long An, phía tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài gần 100 km², phía namTây Nam giáp tỉnh Kiên Giang đường biên giới khoảng 69,789 phía đông nam giáp thành phố Cần Thơ chiều dài đường biên giới gần 44,734 km²[2].

Với vị trí đó An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưamùa khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27oC, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm. Độ ẩm trung bình 75 – 80%, khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát triển nông nghiệp[2].

Dân cư

Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh là 2.151.000 người, mật độ dân số 608 người/km².[3] Đây là tỉnh có dân số đông nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiểu số, với 114.632 người, chiếm 5,17% tổng dân số toàn tỉnh [3]

  • Dân tộc Khmer có 18.512 hộ, 86.592 người, chiếm tỷ lệ 75,54% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 3,9% so tổng dân số toàn tỉnh; trong đó có 16.838 hộ với dân số khoảng 80.000 người (chiếm gần 92% tổng số dân tộc Khmer toàn tỉnh) sống tập trung ở 2 huyện miền núi: Tri Tôn và Tịnh Biên, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn. Hầu hết đồng bào dân tộc Khmer theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng rãi với đồng bào dân tộc Khmer các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở Campuchia. Nguồn thu nhập chủ yếu của đồng bào Khmer từ trồng trọt, chăn nuôi gia đình và làm thuê mướn theo thời vụ.
  • Dân tộc Chăm có 2.660 hộ, 13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,62% so tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Phú Tân, Châu Phú và Châu Thành. Hầu hết đồng bào Chăm theo đạo Hồi, có mối quan hệ với tín đồ Hồi giáo các nước Ả Rập, Malaysia, Indonesia, Campuchia. Nguồn thu nhập chính bằng nghề chài lưới, buôn bán nhỏ và dệt thủ công truyền thống.
  • Dân tộc Hoa có 2.839 hộ, 14.318 người, chiếm tỷ lệ 12,50% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,65% tổng dân số toàn tỉnh. Đại bộ phận sống ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, có mối quan hệ chặt chẽ với người Hoa trong vùng và nhiều nước trên thế giới. Đồng bào người Hoa phần lớn theo Phật giáo Đại thừa, đạo Khổng và tín ngưỡng dân gian. Một bộ phận lớn kinh doanh thương mại, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có cuộc sống ổn định, thu nhập khá hơn so với các dân tộc khác.

Lịch sử

Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn

So sánh địa danh An Giang thời nhà Nguyễn độc lập trên vùng đất tỉnh An Giang ngày nay.
Phủ Tuy Biên (Tĩnh Biên) tỉnh An Giang nhà Nguyễn vào năm 1861.
An Giang trong bản đồ Nam Kỳ Lục tỉnh (Basse Cochinchine).
Tỉnh An Giang nhà Nguyễn (giai đoạn 1844-1867) so với tỉnh An Giang năm 2011.
Tỉnh An Giang, ở Nam Kỳ, giai đoạn (1844-1867).

Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì, đất An Giang xưa là đất Tầm Phong Long nước Chân Lạp (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu). Đến năm 1757 (Đinh Sửu), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất này cho chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn đặt tên thành đạo Châu Đốc. Từ thời thuộc Chân Lạp cho đến tận đầu nhà Nguyễn, đât An Giang còn hoang hóa, rất ít dân cư. Những năm đầu thời vua Gia Long, nhà Nguyễn mới tổ chức mộ dân đến khai hoang định cư, và gọi là Châu Đốc Tân Cương thuộc trấn Vĩnh Thanh (1 trong 5 trấn của thành Gia Định). Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Minh Mạng cho lấy đất Châu Đốc Tân Cương hợp thêm với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long (tức Vĩnh Trấn) để thành tỉnh An Giang (chữ Hán: 安江), đồng thời chia thành 2 phủ (với 4 huyện): phủ Tuy Biên (gồm 2 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú), phủ Tân Thành (gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Vĩnh An). Cùng lúc, đặt ra chức An-Hà tổng đốc thống lĩnh cả hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lỵ sở đặt tại tỉnh thành Châu Đốc của tỉnh An Giang.

Tháng 4 âm năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.

Năm 1833, tỉnh An Giang bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng án sát An Giang là Bùi Văn Lý lấy lại được tỉnh thành (Châu Đốc) từ tay quân của Khôi. Năm 1833-1834, quân đội nước Xiêm La, theo cầu viện của Khôi, tiến vào An Giang theo đường sông Cửu Long đánh nhà Nguyễn, bị quân nhà Nguyễn do Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân đánh bại trên sông Vàm Nao.

Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà Nguyễn lấy thêm đất Ba Thắc (Bassac, thuộc Cao Miên) sáp nhập vào An Giang và lập thành phủ Ba Xuyên. Đất Ba Thắc cũ chia thành 2 huyện Phong Nhiêu và Phong Thịnh. Đồng thời nhập thêm huyện Vĩnh Định của tỉnh Vĩnh Long vào phủ Ba Xuyên, khiến phủ Ba Xuyên có 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thịnh và Vĩnh Định.

Năm Minh Mạng 20 (1839), nhà Nguyễn đặt thêm huyện An Xuyên (tách từ phần đất huyện Vĩnh An ra) lệ thuộc vào phủ Tân Thành. Cùng năm này, nhà Nguyễn còn cắt đất huyện Chân Thành phủ Chân Chiêm thuộc Trấn Tây Thành (xứ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) hợp với phần đất cắt từ huyện Tây Xuyên để lập hai huyện Hà Dương (ở bờ Nam sông Vĩnh Tế) và Hà Âm (ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế) của tỉnh Hà Tiên (sau chuyển sang tỉnh An Giang), nhập thêm thổ huyện Ô Môn (tên gọi cũ của vùng đất thuộc Cao Miên (Trấn Tây Thành) có nhiều người Khmer sinh sống) vào thành huyện Phong Phú, thổ huyện Mật Luật (Ngọc Luật) của Trấn Tây Thành vào huyện Tây Xuyên.

Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Trị trích phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên, sáp nhập vào An Giang. Năm 1844, trích thêm huyện Hà Âm của tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tĩnh Biên, lúc này phủ Tĩnh Biên gồm các huyện Hà Âm, Hà Dương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), nhà Nguyễn bỏ phủ Tĩnh Biên, cho nhập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên. Vào thời vua Tự Đức tỉnh An Giang gồm có 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, Vĩnh Định.[4]

Phủ Tuy Biên (绥边):

  • Huyện Hà Âm, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng với 40 làng xã, phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Hà Dương, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế[5][6]. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo Campuchia.
  • Huyện Hà Dương (河陽), nguyên là đất huyện Chân Thành nước Cao Miên, gồm 4 tổng với 40 làng xã, phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp huyện Hà Âm. Đất huyện Hà Dương vào thời nay thuộc các huyện Châu Thành, Thoại SơnTri Tôn của tỉnh An Giang.
  • Huyện Phong Phú (豐富) từng là đất huyện Vĩnh Định và đất thổ huyện Ô Môn (của Cao Miên), gồm 3 tổng với 31 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên), phía bắc giáp 2 huyên Tây Xuyên và An Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Phong Phú nay có thể là đất thuộc các quận huyện Thốt Nốt, Ô Môn,... của thành phố Cần Thơ. Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông Cần Thơ ở bờ Tây sông Hậu Giang, cách huyện Phong Phú 3 dặm về phía đông,..., bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang cũ,..."[7]
  • Huyện Tây Xuyên (西川) nguyên là đất đạo Châu Đốc cùng huyện Vĩnh Định và thổ huyện Mật Luật (của Cao Miên), nằm ở bờ Tây sông Hậu Giang, gồm 3 tổng (Châu Phú, Định Thành, Định Phước[8]) với 38 làng xã, phía tây giáp huyện Hà Dương, phía nam giáp huyện Long Xuyên tỉnh Hà Tiên, phía đông và phía bắc giáp huyện Đông Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Tây Xuyên nay có thể là đất thuộc các huyện thị Châu Đốc, Châu Phú, Châu Thành, thành phố Long Xuyên,... của tỉnh An Giang.
Bản đồ 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên của nhà Nguyễn thời kỳ độc lập.

Phủ Tân Thành (新成):

  • Huyện Đông Xuyên nguyên là đất huyện Vĩnh Định (gồm đạo Tân Châu) nằm ở phía đông sông Hậu Giang (giữa sông Tiền và sông Hậu), gồm 4 tổng với 33 làng xã, phía tây và phía nam giáp huyện Tây Xuyên, phía đông giáp các huyện Kiến Đăng, (Kiến Phong) tỉnh Định Tường, phía bắc giáp nước Cao Miên. Đất huyện Đông Xuyên nay có thể là thuôc đất các huyện thị Tân Châu, An Phú, Phú Tân,... của tỉnh An Giang.
  • Huyện Vĩnh An (永安) gồm 4 tổng với 36 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam và phía đông giáp huyện An Xuyên, phía bắc giáp huyện Kiến Phong tỉnh Định Tường. Đất huyện Vĩnh An có thể nay là đất thuộc huyện Chợ Mới và một số huyện phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, thị xã Sa Đéc (đạo Đông Khẩu). Theo Đại Nam nhất thống chí thì đạo Đông Khẩu ở bờ Nam sông Sa Đéc thuộc địa phận huyện Vĩnh An.[9]
  • Huyện An Xuyên (安川) gồm 3 tổng với 25 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam giáp huyện Vĩnh Định, phía đông giáp tỉnh Vĩnh Long, phía bắc giáp tỉnh Định Tường. Đất huyện An Xuyên có thể nay thuộc các huyện thị phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung,Châu Thành,... và có thể là cả đất huyện Bình Minh tỉnh Vĩnh Long ngày nay.

Phủ Ba Xuyên (巴川):

  • Huyện Vĩnh Định (永定) nguyên trước là huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn sau cắt sang An Giang, gồm 4 tổng (Định Thới, Định An, Định Khánh[8], và Trấn Giang (tức Cần Thơ)) với 19 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Nhiêu, phía nam giáp huyện Phong Thịnh, phía đông và phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn. Đất huyện Vĩnh Định nay có thể là vùng đất giáp bờ sông Hậu Giang thuộc các tỉnh Hậu Giang (chủ yếu), Sóc Trăng (một phần).
  • Huyện Phong Nhiêu (豐饒), gồm 3 tổng với 17 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp biển Đông, phía đông và phía bắc giáp huyện Vĩnh Định. Nay đất huyện Phong Nhiêu có thể thuộc phần phía tây 2 tỉnh Hậu GiangSóc Trăng, cùng phần phía đông hay toàn bộ tỉnh Bạc Liêu.
  • Huyện Phong Thịnh (豐盛), đến năm Tự Đức thứ 3 (1850) bị nhập vào cùng huyện Vĩnh Định với sự kiêm quản của phủ lỵ nên bị xóa tên. Toàn bộ đất huyện Phong Thịnh có thể là nằm trọn vẹn trong địa bàn tỉnh Sóc Trăng ngày nay.

Các tổng đốc An Giang-Hà Tiên của nhà Nguyễn:

Các Tuần phủ (tỉnh trưởng) An Giang nhà Nguyễn

Thời Pháp thuộc

Nam Kỳ thuộc Pháp (Basse Cochinchine Francaise) khoảng năm 1881, nhưng vẽ theo hành chính của Nam Kỳ Lục tỉnh nhà Nguyễn (Basse CochinChine) trước năm 1861. Vùng bờ bắc kênh Vĩnh Tế (thuộc các tỉnh An Giang và Hà Tiên cũ) và vùng lồi Svay Rieng (trước là vùng rừng Quang Hóa phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định, mà Pháp chưa chiếm được vào thời điểm năm 1861-1863) đều được cắt trả về cho lãnh thổ vương quốc Campuchia thuộc Pháp.

Thời Pháp thuộc (1867-1945) tỉnh An Giang của nhà Nguyễn được chia thành các tỉnh là: tỉnh Châu Đốc, tỉnh Long Xuyên (gồm đất phủ Tịnh Biên và phủ Tuy Biên cũ), tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sa Đéc (gồm đất phủ Tân Thành cũ), tỉnh Sóc Trăng (gồm đất phủ Ba Xuyên cũ). Cuối thế kỷ 19, thời Pháp thuộc, đất tỉnh An Giang ngày nay (thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là phần đất thuộc 2 tỉnh Châu Đốctỉnh Long Xuyên.

Tỉnh Châu Đốc gồm 5 quận : Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự. Tỉnh lỵ Châu Đốc đặt tại làng Châu Phú, quận Châu Phú.

Tỉnh Long Xuyên gồm 4 quận : Châu Thành, Núi Sập, Chợ Mới, Thốt Nốt. Tỉnh lỵ Long Xuyên đặt tại làng Mỹ Phước, quận Châu Thành.

Bản đồ tỉnh Long Xuyên của Nam Kỳ thuộc Pháp năm 1901.

Tỉnh An Giang - Việt Nam

Năm 1955, tỉnh Châu Đốc có 5 quận gồm Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự trong đó tất cả 70 xã. Tỉnh Long Xuyên có 4 quận gồm Châu Thành, Chợ Mới, Núi Sập, Thốt Nốt với tổng cộng 47 xã.

Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tách quận Hồng Ngự ra khỏi tỉnh Châu Đốc và tổng Phong Thạnh Thượng ra khỏi quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên để cùng nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới thành lập (sau đó lại đổi tên thành tỉnh Kiến Phong, ngày nay là tỉnh Đồng Tháp).

Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để ” thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam”. Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này tỉnh Châu Đốctỉnh Long Xuyên được sáp nhập để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh An Giang. Tỉnh lỵ tỉnh An Giang đặt tại Long Xuyên và vẫn giữ nguyên tên là "Long Xuyên", về mặt hành chánh thuộc xã Mỹ Phước, quận Châu Thành.

Tỉnh An Giang lúc này gồm 8 quận là Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới, Tân Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn, Núi Sập. Ngày 06 tháng 08 năm 1957, tách 13 xã của quận Châu Phú để thành lập quận mới coq tên là quận An Phú. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên quận Núi Sập thành quận Huệ Đức.

Ngày 08 tháng 09 năm 1964, chính phủ mới của Việt Nam Cộng Hoà ký Sắc lệnh 246/NV, tách tỉnh An Giang thành hai tỉnh Châu Đốc và An Giang.

Tỉnh Châu Đốc khi đó gồm 5 quận : Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, An Phú. Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là "Châu Phú", do nằm trong khu vực xã Châu Phú, quận Châu Phú.

Tỉnh An Giang mới sau năm 1964 tức phần đất của tỉnh Long Xuyên trước đó. Cho đến năm 1975, tỉnh An Giang tỉnh lỵ có tên là "Long Xuyên", bao gồm 4 quận : Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới, Thốt Nốt.

Năm 1954, chính quyền Cách mạng cũng lập lại hai tỉnh Long XuyênChâu Đốc. Tỉnh Long Xuyên gồm các quận là Châu Thành, Chợ Mới, Lấp Vò, Thốt Nốt, Phong Thạnh Thượng. Tỉnh Châu Đốc gồm các quận là Tân Châu, Hồng Ngự, Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú. Năm 1957, hợp nhất hai tỉnh này thành tỉnh An Giang, gồm 9 quận: Chợ Mới, Thốt Nốt, Núi Sập, Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn. Chính quyền Cách mạng cũng trả huyện Hồng Ngự về tỉnh Kiến Phong và huyện Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc. Năm 1963, giao huyện Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ quản lý và nhận thêm huyện Hà Tiên từ tỉnh Rạch Giá (ngày nay là tỉnh Kiên Giang). Sau đó, lại lấy phần đất các tỉnh Châu Đốc và Hà Tiên cũ lập thành tỉnh Châu Hà.

Năm 1974, phía Cách mạng lại phân chia địa bàn các tỉnh An Giang, Châu Hà và Kiến Phong thành hai tỉnh mới là Long Châu TiềnLong Châu Hà.

Tỉnh An Giang trong bản đồ địa hình Việt Nam Cộng hòa.

An Giang sau năm 1975

Sau sự kiện ngày 30 tháng 04 năm 1975, Việt Nam thống nhất. Ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 19/NQ - TW thành lập tỉnh An Giang trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Long XuyênChâu Đốc thời Việt Nam Cộng hòa, trừ huyện Thốt Nốt cắt sang tỉnh Hậu Giang. Năm 1976, tỉnh An Giang chính thức có 8 huyện là là Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên cùng với hai thị xã là Long XuyênChâu Đốc.

Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Huệ ĐứcChâu Thành hợp nhất thành huyện Châu Thành, huyện Tri TônTịnh Biên cũng hợp nhất thành huyện Bảy Núi.[16] Ngày 23 tháng 8 năm 1979, huyện Bảy Núi tách thành huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên, đồng thời tách một phần của huyện Châu Thành để thành lập huyện Thoại Sơn.[17] Tỉnh An Giang lúc này có 8 huyện và 2 thị xã. Ngày 13 tháng 11 năm 1991, huyện Phú Châu tách thành hai huyện Tân ChâuAn Phú.

Ngày 12 tháng 11 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 669/TTg về việc xác định ranh giới giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Năm 1996, hoàn tất việc xác định ranh giới giữa tỉnh An Giang và các tỉnh lân cận. Ngày 1 tháng 3 năm 1999, thị xã Long Xuyên được nâng cấp thành thành phố Long Xuyên.[18] Ngày 24 tháng 8 năm 2009, huyện Tân Châu được nâng cấp thành thị xã Tân Châu.[19] Ngày 19 tháng 7 năm 2013, thị xã Châu Đốc được công nhận là thành phố Châu Đốc.[20] Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có 2 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với tổng cộng 156 đơn vị cơ sở, trong đó có 23 phường, 16 thị trấn và 117 .

Các đơn vị hành chính

Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 02 thành phố[21], 01 thị xã và 08 huyện trong đó bao gồm 156 đơn vị hành chính cấp xã: Bản mẫu:Đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh An Giang

Tài nguyên thiên nhiên

An Giang có 37 loại đất khác nhau, hình thành 6 nhóm đất chính, trong đó chủ yếu là nhóm đất phù sa trên 151.600 ha, chiếm 44,5%. phần lớn đất đai điều màu mỡ vì 72% diện tích là đất phù sa hoặc có phù sa, địa hình bằng phẳng, thích nghi đối với nhiều loại cây trồng.

Tượng đài cá ba sa

Trên địa bàng toàn tỉnh có trên 583 ha rừng tự nhiên thuộc loại rừng ẩm nhiệt đới, đa số là cây lá rộng, với 154 loài cây quý hiếm thuộc 54 họ, ngoài ra còn có 3.800 ha rừng tràm. Sau một thời gian diện tích rừng bị thu hẹp, những năm gần đây tỉnh đã chú ý nhiều tới việc gây lại vốn rừng. Động vật rừng An Giang cũng khá phong phú và có nhiều loại quí hiếm.

Ngoài ra, An Giang còn có tài nguyên khoáng sản khá phong phú, với trữ lượng khá đá granít trên 7 tỷ m3, đá cát kết 400 triệu m3, cao lanh 2,5 triệu tấn, than bùn 16,4 triệu tấn, vỏ sò 30 – 40 triệu m3, và còn có các loại puzolan, fenspat, bentonite, cát sỏi,…

Từ trên đỉnh núi Cấm nhìn xuống khu vực hồ Thủy Liêm

Với những thế mạnh về đất đaikhí hậu An Giang được xem là tỉnh có tiềm năng du lịch. Du lịch của tỉnh tập trung vào các lĩnh vực văn hoá, du lịch sinh thái, du lịch vui chơi giải trí và du lịch nghỉ dưỡng. Tài nguyên khoáng sản cũng là lợi thế của tỉnh An Giang so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khác, nguồn đá, cát, đất sét là nguyên liệu quý của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đáp ứng nhu cầu rất lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long về vật liệu xây dựng[2].

Danh nhân

Liệt kê một số người nổi bật:

Chính trị

Nông nghiệp

Văn học - Nghệ thuật

Giáo dục

Trường Đại Học An Giang (khu mới)

Tôn giáo

Quân sự

Danh lam thắng cảnh - Du lịch

An Giang có một số thắng cảnh tiêu biểu như:

Một số hình ảnh

Xem thêm

Chú giải

  1. ^ a b c “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 30 tháng 9 năm 2012.
  2. ^ a b c Giới thiệu khái quát về Tỉnh An Giang, Theo trang Chí Phủ.
  3. ^ a b “Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang đến năm 2010 ban hành Quyết định số 1987/QĐ-UBND ngày 03 tháng 9 năm 2009 của UBND tỉnh An Giang”. www.chinhphu.vn.
  4. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển 30, tỉnh An Giang, trang 151-191.
  5. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển hạ, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo lưu tại nhà sách Sông Hương, trang 40.
  6. ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ nhị kỷ, quyển CCVII, Thực lục về Thánh tổ Nhân hoàng đế, tập 5, trang 617.
  7. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển 30, trang 173.
  8. ^ a b Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Sơn Nam, trang 22 bản pdf.
  9. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển 30, trang 178.
  10. ^ Đại Nam thực lục, tập 5, trang 299.
  11. ^ Đại Nam thực lục, tập 5, trang 785.
  12. ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển 50, trang 765.
  13. ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển 66, trang 992.
  14. ^ Đại Nam thực lục, Chính biên, đệ tứ kỷ, quyển 21, tập 7, trang 625.
  15. ^ Đại Nam thực lục, Chính biên, đệ tứ kỷ, quyển 24, tập 7, trang 708-720.
  16. ^ Quyết định 56-CP năm 1977 về việc hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh An Giang do Hội đồng Chính phủ ban hành
  17. ^ Quyết định 300-CP năm 1979 về việc điều chỉnh địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang do Hội đồng Chính phủ ban hành
  18. ^ Nghị định 09/1999/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Long Xuyên, thuộc tỉnh An Giang
  19. ^ Nghị quyết số 40/NQ-CP về điều chỉnh địa giới hành chính xã thuộc huyện Tân Châu, huyện An Phú, huyện Phú Tân, thành lập thị xã Tân Châu, thành lập các phường thuộc thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
  20. ^ Nghị quyết 86/NQ-CP năm 2013 thành lập phường Vĩnh Nguơn thuộc thị xã Châu Đốc và thành lập thành phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang
  21. ^ http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=509&_page=1&mode=detail&document_id=168745. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)

Bản mẫu:Các huyện thị An Giang