Edinson Cavani

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Edinson Cavani
Cavani thi đấu cho Uruguay tại FIFA World Cup 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Edinson Roberto Cavani Gómez
Ngày sinh 14 tháng 2, 1987 (37 tuổi)
Nơi sinh Salto, Uruguay
Chiều cao 1,84 m (6 ft 0 in)[1]
Vị trí Tiền đạo cắm
Thông tin đội
Đội hiện nay
Boca Juniors
Số áo 10
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2000–2005 Danubio
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2005–2007 Danubio 25 (9)
2007–2011 Palermo 109 (34)
2010–2011Napoli (mượn) 35 (26)
2011–2013 Napoli 69 (52)
2013–2020 Paris Saint-Germain 200 (138)
2020–2022 Manchester United 41 (12)
2022–2023 Valencia 25 (5)
2023– Boca Juniors 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2006–2007 U-20 Uruguay 14 (9)
2008– Uruguay 136 (58)
2012 Olympic Uruguay 5 (3)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Uruguay
Copa América
Vô địch Argentina 2011
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 11 tháng 2 năm 2023
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 2 tháng 12 năm 2022

Edinson Roberto Cavani Gómez[2] (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1987 tại Salto, Uruguay) là Cầu thủ bóng đá người Uruguay đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ Boca Juniorsđội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay. Được biết đến với khả năng dứt điểm lạnh lùng, anh được coi là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất trong thế hệ của mình. Anh có biệt danh là El Matador ("Võ sĩ đấu bò").[3]

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Cavani chuyển đến Thủ đô Montevideo khi mới 12 tuổi, gia nhập hệ thống đào tạo trẻ của Danubio F.C. và bắt đầu có mặt trong đội hình chính từ năm 2006. Ngay trong mùa giải đầu tiên này, anh đã cùng câu lạc bộ giành chức vô địch Apertura và bản thân anh ghi được 9 bàn thắng.[4] Sau thành công tại Giải vô địch bóng đá trẻ Nam Mỹ 2007, nhiều đội bóng lớn đã tỏ ý muốn có Cavani như JuventusAC Milan.[5]

Palermo[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, ngày 29 tháng 1 năm 2007, chủ tịch của Palermo Maurizio Zamparini tuyên bố đã ký hợp đồng với cầu thủ người Uruguay.[6] Vụ chuyển nhượng đã được hoàn tất vào ngày 31 tháng 1.[7]

Cavani có trận đấu đầu tiên cho Palermo vào ngày 11 tháng 3 năm 2007 gặp Fiorentina.[8] Anh vào sân thay người ở phút 55 khi đội nhà đang bị dẫn 1-0 và đã có pha ghi bàn cân bằng tỉ số 1-1 mười lăm phút sau đó với cú volley gợi nhớ lại bàn thắng của tiền đạo người Hà Lan Marco van Basten ghi trong trận chung kết Euro 1988.[3] Ở mùa giải thứ hai, Cavani phải cố gắng cạnh tranh suất đá chính với các tiền đạo khác là Fabrizio MiccoliAmauri.

Sau khi Amauri chuyển đến thi đấu cho Juventus vào tháng 6 năm 2008, Cavani đã có một vị trí thường xuyên trong đội hình chính thức, đá cặp với Miccoli và ghi được 14 bàn trong mùa giải 2008–09. Ở mùa giải 2009–10, anh tiếp tục được huấn luyện viên Walter Zenga và sau đó là Delio Rossi trọng dụng. Cuối tháng 3 năm 2010, anh đã gia hạn hợp đồng với câu lạc bộ đến năm 2015 kèm điều khoản tự giải phóng vào khoảng 25 triệu euro. Trong trận đấu cuối cùng của mùa giải với Atalanta, Cavani đã lập cú đúp giúp đội nhà giành chiến thắng 2-1, qua đó giành quyền dự Europa League mùa giải năm sau.[9]

Napoli[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2010-11[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 18 tháng 7 năm 2010, Napoli đã chính thức có được sự phục vụ của Cavani. Napoli phải bỏ ra tổng cộng 17 triệu euro, gồm 5 triệu euro phí cho mượn và 12 triệu còn lại được chuyển vào tài khoản Palermo trong vòng 4 năm nếu chấp nhận mua đứt. Cavani cũng ký bản hợp đồng 5 năm với mức lương 1,35 triệu euro/mùa giải. Điều khoản giải phóng hợp đồng của anh là 30 triệu euro.[10] Ngay trong trận đấu đầu tiên cho Napoli tại Europa League, Cavani đã lập cú đúp giúp Napoli đánh bại Elfsborg 2-0.[11]

Trong trận đấu đầu tiên tại Serie A cho Napoli hoà Fiorentina 1-1, Cavani đã ghi bàn mở tỉ số ngay phút thứ 7 với cú đánh đầu đưa bóng dội trúng xà ngang, đập đất và nảy ra ngoài. Trọng tài đã xác nhận bàn thắng hợp lệ dù pha quay chậm cho thấy bóng chưa hoàn toàn nằm trong vạch vôi.[12] Anh tiếp tục ghi bàn trong trận hoà 2-2 với Bari[13], trước khi ghi bàn ấn định chiến thắng 2-1 trước Sampdoria ở vòng đấu kế tiếp.[14] Ngày 26 tháng 9, Cavani vào sân ở hiệp 2 trong trận đấu với Cesena đã có đường chuyền thành bàn cân bằng tỉ số rồi sau đó lập cú đúp giúp Napoli thắng 4-1 và vươn lên dẫn đầu danh sách vua phá lưới cùng với Samuel Eto'o.[15]

Mùa giải 2011-12[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 14 tháng 9, Cavani ghi bàn mở tỷ số trong trận đấu đầu tiên của Napoli trong chiến dịch Champions League gặp Manchester City.Vào ngày 22 tháng 11, Cavani ghi cả hai bàn thắng trong trận đấu lượt về để giúp đội bóng giành chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Manchester City ở Champions League,sau đó Napoli thắng Villareal 2-0 để đứng nhì bảng sau Bayern Munich.Đến vòng 16 đội,Napoli gặp Chelsea,Cavani ghi một cú đúp vào lưới Chelsea ở trận lượt đi giúp đội bóng của anh giành chiến thắng 3-1,ở trận đấu lượt về Napoli để thua 4-1,chung cuộc Napoli bị loại với tổng tỷ số 4-5.Vào ngày 21 tháng 4, anh đã kỷ niệm lần ra sân thứ 200 trong sự nghiệp của mình bằng cách ghi bàn trong chiến thắng 2–0 trước Novara . Cavani kết thúc mùa giải thứ 2 của mình tại Seria với 23 bàn thắng.Vào ngày 20 tháng 5, Cavani ghi bàn thắng mở tỷ số trong trận chung kết Coppa Italia với Juventus,chung cuộc Napoli giành chiến thắng 2-0 và giành chức vô địch

Mùa giải 2012-13[sửa | sửa mã nguồn]

Cavani hiện đang được Chelsea quan tâm rất nhiều, nhưng De Laurentiis-chủ tịch Napoli tuyên bố sẽ chỉ để Cavani ra đi theo điều khoản phá vỡ hợp đồng trị giá 53,6 triệu bảng. Tuy nhiên, Edinson Cavani đã đến câu lạc bộ Paris Saint-Germain với mức phí chuyển nhượng lên đến 64 triệu euro và được hưởng mức lương sau thuế là 10 triệu euro một năm, tương đương 200.000 euro mỗi tuần. Như vậy, anh đã vượt qua Radamel Falcao (AS Monaco, 60 triệu euro) và Thiago Silva (Paris SG, 42 kèm 7 triệu chi phí phụ) để trở thành cầu thủ có mức phí chuyển nhượng lớn nhất lịch sử Ligue 1.

Paris Saint-Germain[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 16 tháng 7 năm 2013, Cavani gia nhập nhà vô địch Pháp Paris Saint-Germain theo hợp đồng có thời hạn 5 năm, với mức phí được cho là khoảng 64 triệu euro

Cavani ra mắt PSG vào ngày 9 tháng 8, vào sân ở phút 72 thay cho Lavezzi trong trận đấu với Montpellier.Cavani ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League cho câu lạc bộ trong trận mở màn mùa giải châu Âu trước Olympiacos vào ngày 17 tháng 9.Anh kết thúc vòng bảng với bốn bàn thắng sau năm trận đấu.Vào ngày 19 tháng 4, anh ghi cả hai bàn thắng cho PSG khi họ đánh bại Lyon 2-1 trong trận Chung kết Coupe de la Ligue 2014. Anh kết thúc mùa giải đầu tiên với 25 bàn sau 43 trận trên mọi đấu trường, trong đó có 16 bàn trong 30 trận tại giải VĐQG.

Tại mùa giải 2019-2020 Cavani cùng PSG vào tới chung kết Champions League nhưng đã để thua 0-1 trước Bayern Munich. Anh rời câu lạc bộ vào mùa hè năm 2020.

Manchester United[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 10 năm 2020 Cavani gia nhập Manchester United theo dạng chuyển nhượng tự do sau khi rời Paris Saint-Germain bản hợp đồng kéo dài một mùa giải

Ngày 11 tháng 5 năm 2021 Cavani đồng ý ở lại thêm một mùa giải cùng Manchester United

Valencia[sửa | sửa mã nguồn]

Cavani không có đóng góp nhiều cho Valencia khi chỉ có 5 bàn thắng tại La Liga và suýt nữa đội bóng phải xuống hạng khi chỉ hơn đội xuống hạng 2 điểm.

Boca Juniors[sửa | sửa mã nguồn]

Tại kì chuyển nhượng mùa hè năm 2023, Cavani chuyển tới câu lạc bộ Boca Juniors theo dạng chuyển nhượng tự do với bản hợp đồng 18 tháng.[16]

Phong cách thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Anh sở hữu ngoại hình cao và đa số những bàn thắng của Cavani đều ghi bàn bằng đầu , anh còn có khả năng chạy chỗ tốt và là sát thủ vòng cấm.

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Ông bà Cavani mang quốc tịch Ý, nhưng anh đã lựa chọn khoác áo Uruguay sau một thời gian lưỡng lự.[17] Tháng 1 năm 2007, Cavani đã được gọi vào Đội tuyển U-20 Uruguay để tham gia Giải vô địch bóng đá trẻ Nam Mỹ 2007 tại Paraguay. Cavani kết thúc giải đấu với danh hiệu vua phá lưới khi anh ghi được 7 bàn trong 9 trận và giúp Uruguay giành hạng 3 chung cuộc và được quyền tham dự Giải vô địch U-20 thế giới.[18]

Ngày 6 tháng 2 năm 2008, Cavani có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Uruguay trong trận giao hữu với Colombia và ngay lập tức đã ghi bàn.[18] Ngày 3 tháng 3 năm 2010, anh có bàn thắng thứ hai cho đội tuyển trong trận giao hữu thắng Thuỵ Sĩ 3-1.[19]

Ngày 30 tháng 5 năm 2010, Cavani đã có tên trong danh sách 23 cầu thủ tham dự World Cup 2010 tại Nam Phi của huấn luyện viên Oscar Washington Tabarez. Tại giải đấu này, đội tuyển Uruguay giành được hạng tư chung cuộc và Cavani cũng có được một bàn thắng trong trận tranh huy đồng với đội tuyển Đức.[20]

Tại Copa América 2011 tổ chúc tại Argentina, anh không ghi được bàn thắng nào nhưng là một trong những cầu thủ thi đấu xuất sắc nhất để giúp đội tuyển Uruguay giành chức vô địch lần thứ 15 trong lịch sử sau khi vượt qua Paraguay ở trận chung kết.

Tại World Cup 2014 tổ chức tại Brasil, Cavani chỉ có được một bàn thắng trong trận thua 1-3 trước Costa Rica, đội bóng gây bất ngờ lớn khi lọt vào tứ kết.

Tại Copa América 2015 tổ chức tại Chile, Cavani không ghi được bàn thắng nào nhưng đã có những pha kiến tạo thành bàn giúp Uruguay lọt vào tứ kết nhưng để thua chủ nhà Chile (đội sau đó đăng quang) ở tứ kết.

Anh tiếp tục có tên trong danh sách 23 cầu thủ tham dự Copa América Centenario tổ chức tại Hoa Kỳ, giải đấu mà Uruguay đã bị loại ngay sau vòng bảng với chỉ có được 3 điểm, 1 trận hòa và 2 trận thua, chỉ ghi được 4 bàn thắng và bị thủng lưới 4 bàn.

Tại World Cup 2018 tổ chức tại Nga, ở lượt trận cuối bảng A gặp chủ nhà Nga, Cavani ghi bàn thắng cuối cùng giúp Uruguay thắng chủ nhà với tỉ số 3-0 và lọt vào vòng 16 đội. Ở vòng đấu 16 đội, Cavani lập cú đúp trong chiến thắng 2-1 trước Bồ Đào Nha và lọt vào tứ kết. Tuy nhiên anh không góp mặt ở vòng tứ kết do bị chấn thương, cũng chính sự vắng mặt của anh khiến cho Uruguay thất bại trước Pháp (đội sau đó đăng quang) với tỉ số 0-2 và đành ngậm ngùi chia tay giải đấu.

Tại Copa América 2019 tổ chức tại quốc gia láng giềng Brasil, Cavani có bàn thắng đầu tiên trong trận ra quân ở bảng C với chiến thắng 4-0 trước Ecuador. Đến lượt trận cuối bảng C, anh đã ghi bàn thắng duy nhất giúp Uruguay vượt qua đương kim vô địch Chile để giành quyền vào tứ kết gặp Peru nhưng thất bại trước chính đối thủ ở lượt đá penalty dù Cavani có thực hiện thành công quả 11m ở lượt sút thứ hai.

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 11 tháng 2 năm 2023[21][22][23]
Câu lạc bộ Mùa giải Vô địch quốc gia Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Cúp châu lục Khác Tổng cộng
Hạng đấu Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn Số trận Số bàn
Danubio 2005–06 Primera División 10 4 5 3 15 7
2006–07 15 5 15 5
Tổng cộng 25 9 5 3 30 12
Palermo 2006–07 Serie A 7 2 7 2
2007–08 33 5 2 0 2 0 37 5
2008–09 35 14 1 1 36 15
2009–10 34 13 3 2 37 15
Tổng cộng 109 34 6 3 2 0 117 37
Napoli 2010–11 Serie A 35 26 2 0 10 7 47 33
2011–12 35 23 5 5 8 5 48 33
2012–13 34 29 1 1 7 7 1[a] 1 43 38
Tổng cộng 104 78 8 6 25 19 1 1 138 104
Paris Saint-Germain 2013–14 Ligue 1 30 16 2 1 3 4 8 4 0 0 43 25
2014–15 35 18 4 4 3 3 10 6 1[b] 0 53 31
2015–16 32 19 5 2 4 1 10 2 1[b] 1 52 25
2016–17 36 35 3 2 3 4 8 8 0 0 50 49
2017–18 32 28 5 3 2 2 8 7 1[b] 0 48 40
2018–19 21 18 3 2 2 1 7 2 0 0 33 23
2019–20 14 4 2 2 2 0 3 1 1[b] 0 22 7
Tổng cộng 200 138 24 16 19 15 54 30 4 1 301 200
Manchester United 2020–21 Premier League 26 10 3 0 1 1 9 6 39 17
2021–22 Premier League 15 2 1 0 0 0 4 0 20 2
Tổng cộng 41 12 4 0 1 1 13 6 0 0 59 19
Valencia CF 2022–23 La Liga 14 5 2 2 1[c] 0 17 7
Tổng cộng sự nghiệp 493 276 49 30 20 16 94 55 6 2 662 379

Ghi chú

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 2 tháng 12 năm 2022
Uruguay
Năm Ra sân Bàn thắng
2008 4 1
2009 8 0
2010 12 7
2011 12 2
2012 9 3
2013 15 7
2014 10 4
2015 8 4
2016 11 9
2017 9 3
2018 11 6
2019 7 4
2020 2 1
2021 8 2
2022 10 5
Tổng cộng 136 58

Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 6 tháng 2 năm 2008 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Colombia 1–0 2–2 Giao hữu
2. 3 tháng 3 năm 2010 AFG Arena, St. Gallen, Thụy Sĩ  Thụy Sĩ 1–3 1–3
3. 10 tháng 7 năm 2010 Sân vận động Nelson Mandela Bay, Port Elizabeth, Nam Phi  Đức 1–1 2–3 World Cup 2010
4. 11 tháng 8 năm 2010 Sân vận động Restelo, Lisbon, Bồ Đào Nha  Angola 0–1 0–2 Giao hữu
5. 8 tháng 10 năm 2010 Sân vận động Gelora Bung Karno, Jakarta, Indonesia  Indonesia 1–1 1–7
6. 1–6
7. 1–7
8. 12 tháng 10 năm 2010 Sân vận động Trung tâm Thể thao Vũ Hán, Vũ Hán, Trung Quốc  Trung Quốc 0–2 0–4
9. 30 tháng 3 năm 2011 Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland  Cộng hòa Ireland 2–1 3–2
10. 7 tháng 10 năm 2011 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Bolivia 3–1 4–2 Vòng loại World Cup 2014
11. 29 tháng 2 năm 2012 Arena Națională, Bucharest, România  România 1–0 1–1 Giao hữu
12. 11 tháng 9 năm 2012 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Ecuador 1–1 Vòng loại World Cup 2014
13. 14 tháng 11 năm 2012 PGE Arena, Gdańsk, Ba Lan  Ba Lan 2–0 3–1 Giao hữu
14. 12 tháng 6 năm 2013 Sân vận động Polideportivo Cachamay, Puerto Ordaz, Venezuela  Venezuela 1–0 1–0 Vòng loại World Cup 2014
15. 26 tháng 6 năm 2013 Mineirão, Belo Horizonte, Brasil  Brasil 1–1 1–2 Confed Cup 2013
16. 30 tháng 6 năm 2013 Arena Fonte Nova, Salvador, Brasil  Ý 2–2
17. 2–2
18. 10 tháng 9 năm 2013 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Colombia 1–0 2–0 Vòng loại World Cup 2014
19. 15 tháng 10 năm 2013  Argentina 3–2 3–2
20. 13 tháng 11 năm 2013 Sân vận động Quốc tế Amman, Amman, Jordan  Jordan 5–0 5–0
21. 4 tháng 6 năm 2014 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Slovenia 1–0 2–0 Giao hữu
22. 14 tháng 6 năm 2014 Sân vận động Castelão, Fortaleza, Brasil  Costa Rica 1–3 World Cup 2014
23. 5 tháng 9 năm 2014 Sapporo Dome, Sapporo, Nhật Bản  Nhật Bản 2–0 Giao hữu
24. 13 tháng 11 năm 2014 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Costa Rica 3–2 3–3
25. 28 tháng 3 năm 2015 Sân vận động Agadir, Agadir, Maroc  Maroc 1–0 1–0
26. 6 tháng 6 năm 2015 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Guatemala 2–0 5–1
27. 3–0
28. 12 tháng 11 năm 2015 Sân vận động Olympic Atahualpa, Quito, Ecuador  Ecuador 1–1 2–1 Vòng loại World Cup 2018
29. 25 tháng 3 năm 2016 Arena Pernambuco, Recife, Brasil  Brasil 1–2 2–2
30. 29 tháng 3 năm 2016 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Peru 1–0 1–0
31. 27 tháng 5 năm 2016  Trinidad và Tobago 1–1 3–1 Giao hữu
32. 2–1
33. 6 tháng 9 năm 2016  Paraguay 1–0 4–0 Vòng loại World Cup 2018
34. 4–0
35. 6 tháng 10 năm 2016  Venezuela 2–0 3–0
36. 3–0
37. 15 tháng 11 năm 2016 Sân vận động Quốc gia Julio Martínez Prádanos, Santiago, Chile  Chile 1–0 1–3
38. 23 tháng 3 năm 2017 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Brasil 1–4
39. 10 tháng 10 năm 2017  Bolivia 2–1 4–2
40. 14 tháng 11 năm 2017 Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo  Áo 1–1 1–2 Giao hữu
41. 23 tháng 3 năm 2018 Trung tâm Thể thao Quảng Tây, Nam Ninh, Trung Quốc  Cộng hòa Séc 2–0 2–0 Cúp Trung Quốc 2018
42. 26 tháng 3 năm 2018  Wales 1–0 1–0
43. 25 tháng 6 năm 2018 Cosmos Arena, Samara, Nga  Nga 3–0 3–0 World Cup 2018
44. 30 tháng 6 năm 2018 Sân vận động Olympic Fisht, Sochi, Nga  Bồ Đào Nha 1–0 2–1
45. 2–1
46. 16 tháng 10 năm 2018 Sân vận động Saitama 2002, Saitama, Nhật Bản  Nhật Bản 3–2 4–3 Giao hữu
47. 16 tháng 6 năm 2019 Sân vận động Mineirão, Belo Horizonte, Brasil  Ecuador 2–0 4–0 Copa América 2019
48. 24 tháng 6 năm 2019 Sân vận động Maracanã, Rio de Janeiro, Brasil  Chile 1–0 1–0
49. 15 tháng 11 năm 2019 Puskás Aréna, Budapest, Hungary  Hungary 2–1 Giao hữu
50. 18 tháng 11 năm 2019 Sân vận động Bloomfield, Tel Aviv, Israel  Argentina 2–2
51. 13 tháng 11 năm 2020 Sân vận động đô thị Roberto Meléndez, Barranquilla, Colombia  Colombia 3–0 Vòng loại World Cup 2022
52. 24 tháng 6 năm 2021 Arena Pantanal, Cuiabá, Brasil  Bolivia 2–0 Copa América 2021
53. 28 tháng 6 năm 2021 Sân vận động Olímpico Nilton Santos, Rio de Janeiro, Brasil  Paraguay 1–0
54. 1 tháng 2 năm 2022 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Venezuela 3–0 4–1 Vòng loại World Cup 2022
55. 2 tháng 6 năm 2022 Sân vận động State Farm, Glendale, Hoa Kỳ  México 2–0 3–0 Giao hữu
56. 3–0
57. 11 tháng 6 năm 2022 Sân vận động Centenario, Montevideo, Uruguay  Panama 1–0 5–0
58. 2–0

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Gia đình Cavani có gốc là người Ý khi ông bà nội anh quê ở Maranello.[24] Anh trai anh, Walter Guglielmone thi đấu cho Neftchi Baku PFC tại Azerbaijan Premier League.[25]

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Cavani cầm cúp vô địch Liên đoàn bóng đá Pháp năm 2014.

Danubio[21]

  • Primera División: 2006–07

Napoli[21]

Paris Saint-Germain[21]

Uruguay[21]

Cá nhân

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Thông tin về Edinson Cavani trên ESPN Soccernet”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
  2. ^ “Edinson Roberto Cavani Gómez”. US Città di Palermo. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2008.
  3. ^ a b “Edinson Cavani: South America's best-kept secret”. CBC Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
  4. ^ “Scheda – Edinson Cavani” (bằng tiếng Ý). La Gazzetta dello Sport. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
  5. ^ Calciomercato.biz. “Cavani, il Palermo sorpassa tutti” (bằng tiếng Ý). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2007.
  6. ^ La Repubblica. “Calcio, Palermo; Zamparini: abbiamo preso Cavani” (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2007.
  7. ^ Gazzetta dello Sport. “Palermo, arriva il gioiello Cavani” (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2007.
  8. ^ “Tactical Formation”. Football-Lineups.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2007.
  9. ^ “Vượt qua Atalanta, Palermo vẫn mất vé C1”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2010.
  10. ^ Napoli: 17 triệu euro cho Cavani[liên kết hỏng]
  11. ^ “IF Elfsborg 0-2 Napoli”. Mirror Football. ngày 26 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2010.
  12. ^ Vũ Phong (ngày 30 tháng 8 năm 2010). “Juventus thua đau ngay trong ngày đầu ra quân”. Dân Trí. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.
  13. ^ Jonathan Mitchell (ngày 12 tháng 9 năm 2010). “http://www.goal.com/en/match/48647/napoli-vs-bari/report”. Goal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2010. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp)
  14. ^ “Cavani decisivo nel finale: il Napoli sbanca Marassi”. Sampdoria (bằng tiếng Ý). ngày 19 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.
  15. ^ “Cavani completes comeback”. ESPN Soccernet. ngày 26 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2010.
  16. ^ “Rời Valencia, Cavani gia nhập Boca Juniors theo dạng tự do”. Bongdaplus.vn. ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 01 tháng 08 năm 2023. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  17. ^ 10 things you need to know about Edinson Cavani
  18. ^ a b “Thông tin về Edinson Cavani trên trang web chính thức của World Cup 2010”. FIFA.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2010.
  19. ^ “Uruguay teach Swiss footballing lesson”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2010.
  20. ^ “Uruguay - Đức 2-3: Bạch tuộc Paul đúng cả bảy trận của Đức”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2010.
  21. ^ a b c d e “E. Cavani”. Soccerway. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2015.
  22. ^ “Statistics”. Edicavaniofficial. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2017.
  23. ^ a b “Statistics”. Edicavaniofficial. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2017.
  24. ^ “Edinson Cavani: il futuro idolo di Palermo” (bằng tiếng Ý). TuttoMercatoWeb. ngày 5 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
  25. ^ “«Amauri mi considera suo erede»” (bằng tiếng Ý). La Gazzetta dello Sport. ngày 28 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
  26. ^ “PSG wrap up Ligue 1 title with Monaco win | Goal.com”. www.goal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
  27. ^ “PSG Champions as Lille held at Toulouse”. www.ligue1.com. ngày 21 tháng 4 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.
  28. ^ “PSG champions as season ended”. Ligue 1. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  29. ^ “Paris Saint-Germain set record with fourth straight Coupe De France crown”. Goal. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  30. ^ “Edinson Cavani”. UEFA. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
  31. ^ “Uruguay's new goal machine”. FIFA. ngày 30 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
  32. ^ “Votiamo tutti insieme Cavani per il "Gol più bello" ed il "Fan Award" agli Oscar del Calcio” (bằng tiếng Ý). Tutto Napoli. ngày 15 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
  33. ^ “Gran Cala' del Calcio 2011: Rizzoli premiato miglior arbitro” (bằng tiếng Ý). FIGC.it. ngày 24 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  34. ^ “Gran Galà del Calcio Aic. E' Pirlo il migliore del 2012” [Gran Galà del Calcio Aic. Pirlo is the best of 2012] (bằng tiếng Ý). Tutto Sport. ngày 27 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2015.
  35. ^ “Oscar del calcio: Vidal e Pirlo sono il top. La Juve è la più forte d'Italia”. Tuttosport (bằng tiếng Ý). ngày 27 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  36. ^ Roberto Di Maggio; Davide Rota (ngày 4 tháng 6 năm 2015). “Italy – Coppa Italia Top Scorers”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  37. ^ Roberto Di Maggio; Igor Kramarsic; Alberto Novello (ngày 11 tháng 6 năm 2015). “Italy – Serie A Top Scorers”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2015.
  38. ^ “Italy – Footballer of the Year”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2015.
  39. ^ “FifPro announces reserve Teams of the Year – but Luis Suarez and Arjen Robben won't be laughing while Iker Casillas is somehow named the second best goalkeeper of 2013”. The Independent. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2017.
  40. ^ “World 11: The Reserve Team for 2017-18”. FIFPro.org. ngày 24 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  41. ^ “2016–2017 World 11: the Reserve Teams – FIFPro World Players' Union”. FIFPro.org. ngày 23 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2017.
  42. ^ “Ibrahimovic named Player of Year”. Ligue 1. ngày 12 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
  43. ^ “Cavani named Ligue 1 player of the year as six Monaco players make team of the season”. Squawka News. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2017.
  44. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên auto
  45. ^ “PSG.fr”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
  46. ^ “Official Top Scorer Chart”. Ligue 1. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
  47. ^ “Coupe de la Ligue 2016/2017 – Top Scorer”. Ligue 1. ngày 15 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2017.
  48. ^ “Coupe de France 2014/2015 " Top Scorer”. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2017.
  49. ^ ESM Top-Elf: Ein Bayern-Star in Europas Elite. Abendzeitung (bằng tiếng Đức). ngày 8 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2017.
  50. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên auto1
  51. ^ “Cavani voted best foreign star in Ligue 1”. ESPN. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2017.
  52. ^ “Cavani von Golden Foot”. punchng. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]